Lịch sử VN bằng thơ

Ðại Nam Quốc Sử diễn ca

Ðại Nam Quốc Sử diễn ca

 

Triều Nguyễn đã sai hai quan lại là Lê Ngô Cát và Phạm Đình Toáisoạn bộsach Đại Nam Quốc Sử Diễn Ca để diễn giải lịch sử nước nhà bằng văn vần.

         Đây là bộ sử Việt Nam bằng văn vần đầu tiên của nước ta.

 

1. Mở đầu

Nghìn thu gặp hội thăng bình,
Sao Khuê sáng vẻ văn minh giữa trợi
Lan đài dừng bút thảnh thơi,
Vâng đem quốc ngữ diễn lời sử xạnh
Nam giao là cõi ly minh,
Thiên thư định phận rành rành từ xựa
Phế hưng đổi mấy cuộc cờ,
Thị phi chép để đến giờ làm gượng

2. Kinh Dương vương


Kể từ trời mở viêm bang,
Sơ đầu có họ Hồng bàng mới rạ
Cháu đời Viêm đế thứ ba,
Nối dòng Hoả đức gọi là Đế mịnh
Quan phong khi giá Nam hành,
Hay đâu Mai lĩnh duyên sinh Lam kiều,
Vụ tiên vừa thuở đào yêu,
Xe loan nối gót, tơ điều kết duyện
Dòng thần sánh vời người tiên,
Tinh anh nhóm lại, thánh hiền nối ra,
Phong làm quân trưởng nước ta,
Tên là Lộc tục, hiệu là Kinh dượng
Hoá cơ dựng mối luân thượng
Động đình sớm kết với nàng Thần lọng
Bến hoa ứng vẻ lưu hồng
Sinh con là hiệu Lạc long trị vị

3. Lạc long quân và Âu Cơ

Lạc long lại sánh Âu kỵ
Trăm trai điềm ứng hùng bi lạ dượng
Noãn bào dù chuyện hoang đường,
Ví xem huyền điểu sinh Thương khác gỉ
Đến điều tan hợp cũng kỳ,
Há vì thuỷ hoả sinh ly như lời,
Chia con sự cũng lạ đời,
Qui sơn, qui hải khác người biệt lỵ
Lạc long về chốn Nam thuỳ,
Âu cơ sang nẻo Ba vì Tản viện
Chủ trương chọn một con hiền,
Sửa sang việc nước nối lên ngôi rộng

4. Hùng vương và nước Văn lang

Hùng vương đô ở châu Phong,
Ấy nơi Bạch hạc hợp dòng Thao giạng
Đặt tên là nước Văn lang,
Chia mười lăm bộ, bản chương cũng liện
Phong châu, Phúc lộc, Chu diên,
Nhận trong địa chí về miền Sơn tây;
Định yên, Hà nội đổi thay,
Ấy châu Giao chỉ xưa nay còn truyện
Tân hưng là cõi Hưng, Tuyên,
Vũ ninh tỉnh Bắc, Dương tuyền tỉnh Đông;
Thái, Cao hai tỉnh hỗn đồng,
Ấy là Vũ định tiếp cùng biên manh;
Hoài hoan: Nghệ; Cửu chân: Thanh;
Việt thường là cõi Trị, Bình trung chậu
Lạng là Lục hải thượng du
Xa khơi Ninh hải thuộc vào Quảng yện
Bình văn, Cửu đức còn tên,
Mà trong cương giới sơn xuyên chưa tượng
Trước sau đều gọi Hùng vương,
Vua thường nối hiệu, quan thường nối tện
Lạc hầu là tướng điều nguyên,
Vũ là Lạc tướng giữ quyền quân cơ;
Đặt quan Bồ chinh hữu tư
Chức danh một bực, đẳng uy một loại

5. Giao thiệp với Trung Hoa

Vừa khi phong khí sơ khai,
Trinh nguyên xẩy đã gặp đời Đế Nghiệu
Bình dương nhật nguyệt rạng kiêu,
Tấm lòng quì, hoắc cũng đều hướng dượng
Thần quy đem tiến Đào đường,
Bắc Nam từ ấy giao bang là đậu
Man dân ở chốn thượng lưu,
Lấy nghề chài lưới làm điều trị sịnh
Thánh nhân soi xét vật tình,
Đem loài thuỷ quái vẽ mình thổ nhận
Từ sau tục mới văn thân,
Lợi dân đã dấy, hại dân cũng trự
Dõi truyền một mối xa thư,
Nước non đầm ấm, mây mưa thái bịnh
Vừa đời ngang với Chu Thành,
Bốn phương biển lặng, trời thanh một mậu
Thử thăm Trung quớc thể nào,
Lại đem bạch trĩ dâng vào Chu vượng
Ba trùng dịch lộ chưa tường,
Ban xe tí ngọ chỉ đường Nam quỵ

6. Chuyện Phù Đổng Thiên vương

Sáu đời Hùng vận vừa suy,
Vũ ninh có giặc mới đi cầu tài,
Làng Phù đổng có một người,
Sinh ra chẳng nói,chẳng cười trơ trợ
Những ngờ oan trái bao giợ
Nào hay thần tướng đợi chờ phong vận
Nghe vua cầu tướng ra quân,
Thoắt ngồi, thoắt nói muôn phần khích ngạng
Lời thưa mẹ, dạ cần vượng
Lấy trung làm hiếu một đường phân mịnh
Sứ về tâu trước thiên đình,
Gươm vàng, ngựa sắt đề binh tiến vạo
Trận mây theo ngọn cờ đào,
Ra uy sấm sét, nửa chiều giặc tạn
Áo nhung cởi lại Linh san,
Thoắt đà thoát nợ trần hoàn lên tiện
Miếu đình còn dầu cố viên,
Chẳng hay chuyện cũ lưu truyền có khổng

7. Chuyện Sơn tinh và Thuỷ tinh

Lại nghe trong thủa Lạc Hùng
Mị châu có ả tư phong khác thường,
Gần xa nức tiếng cung trạng
Thừa long ai kẻ đông sàng sánh vải
Bỗng đàu vừa thấy hai người,
Một Sơn tinh với một loài Thuỷ tinh,
Cầu hôn đều gửi tấc thành,
Hùng vương mới phán sự tình một hại
Sính nghi ước kịp ngày mai,
Ai mau chân trước, định lời hứa ạnh
Trống lầu vừa mới tan canh,
Kiệu hoa đã thấy Sơn tinh chực ngoại
Ước sao lại cứ như lời,
Xe loan trăm cỗ đưa người nghi giạ
Cung đàn tiếng địch xa xa,
Vui về non Tản, oán ra bể Tận
Thuỷ tinh lỡ bưởc chậm chân,
Đùng đùng nổi giận, đem ân làm thụ
Mưa tuôn gió thổi mịt mù,
Ào ào rừng nọ, ù ù núi kia,
Sơn thần hoả phép cũng ghê,
Lưới giăng dòng Nhị, phen che ngàn Đoại
Núi cao sông cũng còn dài,
Năm năm báo oán, đời đời đánh ghẹn

8. Chuyện Chử Đồng tử và Tiên dung

Bổ di còn chuyện trích tiên,
Có người họ Chử ở miền Khoái chậu
Ra vào nương náu hà chậu
Phong trần đã trải mấy thâu cùng ngượi
Tiên dung gặp buổi đi chơi,
Giỏ đưa Đằng các, buồm xuôi Nhị hà,
Chử đồng ẩn chốn bình sa
Biết đâu gặp gỡ lại là túc duyện
Thừa lương nàng mới dừng thuyền,
Vây màn tắm mát kề liền bên sộng
Người thục nữ, kẻ tiên đồng,
Tình cờ ai biết vợ chồng duyên ựa
Giận con ra thói mây mưa,
Hùng vương truyền lịnh thuyền đưa bắt vệ
Non sông đã trót lời thề,
Hai người một phút hoá về Bồng châu,
Đông an, Dạ trạch đâu đâu,
Khói hương nghi ngút truyền sau muôn đợi

9. Hết đời Hồng Bàng

Bể dâu biến đổi cơ trời,
Mà so Hồng Lạc lâu dài ai hởn
Kể vua mười tám đời truyền,
Hai ngàn năm lẻ vững bền khôn lạy
Một dòng phụ đạo xưa nay,
Trước ngang Đường đế sau tầy Noãn vương

ịi Nhà Thục (258 - 207 trước TL)

1. Thần Kim quy giúp vua Thục


Thục từ dứt nước Văn lang
Đổi tên Âu lạc, mới sang Loa thạnh
Phong khê là đất Vũ ninh,
Xây thôi lại lở, công trình biết bao
Thục vương thành ý khẩn cầu,
Bỗng đâu giang sứ hiện vào kim quị
Hoá ra thưa nói cũng kỳ,
Lại tường cơn cớ bởi vì yêu tịnh
Lại hay phù phép cũng linh,
Vào rừng sát quỉ, đào thành trừ hụng
Thành xây nửa tháng mà xọng
Thục vương cảm tạ tấm lòng hiệu lịnh
Lại bàn đến sự chiến tranh,
Vuốt thiêng để lại tạ tình quân vượng
Dặn sau làm máy Linh quang,
Chế ra thần nỏ, dự phòng việc quận
2. Trung quốc đánh Âu Lạc

Bấy giờ gặp hội cường Tần,
Tằm ăn lá Bắc, toan lần cành Nạm
Châu cơ muốn nặng túi tham,
Đồ Thư, Sử Lộc sai làm hai chị
Lĩnh nam mấy chốn bièn thuỳ,
Quế lâm, Tượng quận thu về bản chượng
Đặt ra uý, lịnh rõ ràng,
Họ Nhâm, họ Triệu sai sang giữ gịn
Hai người thống thuộc đã quen,
Long xuyên, Nam hải đôi bên lấn dận
Chia nhau thuỷ bộ hai quân,
Tiên du ruổi ngựa, Đông tân đỗ thuyện
Thục vương có nỏ thần truyền,
Muôn quân buông một lượt tên còn gỉ
Nhâm Hiêu mắc bệnh trở về,
Triệu Đà lại khiến sứ đi xin hoạ
Bình giang rạch nửa sơn hà
Bắc là Triệu uỵ Nam là Thục vượng

3. Trọng Thuỷ và Mị Châu

Mặt ngoài hai nước phân cương,
Mà trong Triệu là mượn đường thông gia,
Nghĩ rẳng: Nam Bắc một nhà;
Nào hay hôn cấu lại ra khấu thụ
Thục cơ tên gọi Mị Châu
Gả cho Trọng Thuỷ, con đầu Triệu vượng
Trăm năm đã tạc đá vàng,
Ai ngờ thế tử ra đàng phụ ận
Tóc tơ tỏ hết xa gận
Thừa cơ đem máy nỏ thần đổi đi,
Tỉnh thân giả tiếng Bắc quị
Đinh ninh dặn hết mọi bề thuỷ chung
Rằng: " Khi đôi nước tranh hùng,"
" Kẻ Tần người Việt tương phùng đâu đẩy"
" Trùng lai dù hoạ có ngày,"
" Nga mao xin nhận dấu này thấy nhau"
Cạn lời, thẳng ruổi vó câu,
Quản bao liễu oán, hoa sầu nẻo xạ

4. Triệu Đà diệt Thục

Giáp binh sắp sẵn từ nhà,
Về cùng Triệu uý, kéo ra ải Tần,
An dương cậy có nỏ thận
Vi kỳ còn hãy ham phần vui chơi,
Triệu quân ruổi đến tận nợi
Máy thiêng đã mất, thế người cũng suỵ
Vội vàng đến lúc lưu li,
Còn đem ái nữ đề huề sau yên
Nga mao vẫn cứ lời nguyền,
Để cho quân Triệu theo liền bông tịnh
Kim qui đâu lại hiện linh;
Mới hay giặc ở bên mình không xa,
Bây giờ Thục chúa tỉnh ra,
Dứt tình, phó lưỡi Thái a cho nàng,
Bể Nam đến bước cùng đường,
Văn tê theo ngọn suối vàng cho xuội
Tính ra nước Thục một đời,
Ở ngôi vừa được năm mươi năm trọn
Nghe thần rồi lại tin con;
Cơ mưu chẳng nhiệm, thôi còn trách ải

ịii Nhà Triệu (207 - 111 trước TL)

1. Triệu Vũ vương thần phục nhà Hán


Triệu Vương thay nối ngôi trời,
Định đô cứ hiểm đóng ngoài Phiên ngu .
Loạn Tần gặp lúc Ngư Hồ ,
Trời nam riêng mở dư đồ một phượng
Rồng Lưu bay cõi Phiếm dương ,
Mới sai Lục Giả đem sang ấn phù .
Cõi nam lại cứ phong cho,
Biên thuỳ gìn giữ cơ đồ vững ạn
Gặp khi gà Lữ gáy càn ,
Chia đôi Hán, Việt lại toan sinh lọng
Vì ai cấm chợ ngăn sông,
Để cho dứt nẻo quan thông đôi nhạ
Thân chinh hỏi tội Tràng sa
Mân, Âu muôn dặm mở ra một lận
Hán Văn lấy đức mục lân,
Sắc sai Lục giả cựu thần lại sạng
Tỉ thư một bức chiếu vàng,
Ngỏ điều ân ý, kể đường thuỷ chụng
Triệu vương nghe cũng bằng lòng,
Mới dâng tạ biểu một phong vào chậu
Ngoài tuy giữ lễ chư hầu,
Trong theo hiệu đế làm đầu nước tạ
Trăm hai mươi tuổi mới già,
Tính năm ngự vị kể già bảy mượi

2. Triệu Văn vương và Triệu Minh vương

Văn vương vừa nối nghiệp đời,
Lửa binh đâu lại động ngoài biên cượng
Phong thư tâu với Hán hoàng,
Nghĩa thanh sớm đã giục đường cất quận
Vương Khôi vâng lịnh tướng thần,
Ải lang quét sạch bui trần một phượng
Hán đình có chiếu ban sang,
Sai con Triệu lại theo đường cống nghị
Xe rổng phút bỗng mây che,
Minh vương ở Hán lại về nối ngội
Bợm già bỗng rấm hoạ thai,
Vợ là Cù thị vốn người Hàm đan
Khuynh thành quen thói hồng nhan,
Đã chuyên sủng ái lại toan tranh hạnh
Dâng thư xin với Hán đình,
Lập con thế tử, phong mình cung phị

3. Cù thị xin nhập Hán

Ai vương thơ ấu nối vì,
Mẹ là cù hậu, nhiều bề riêng tậy
Cầu phong đã rắp những ngày,
Ngoài thông Bắc sứ trong gầy lệ giại
Khéo đâu dắc díu lạ đời,
Sứ là Thiếu Quý vẫn người tình nhận
Hoa tàn lại bén hơi xuân,
Giao hoan đôi mặt, hoà thân một lọng
Nghĩ rằng: về Hán là xong,
Tình riêng phải mượn phép công mới giạ
Làm thư gửi sứ đưa qua;
Mẹ con đã sắm sửa ra sang chậu

4. Lữ Gia phá mưu Cù Thị

Lữ Gia là tướng ở đậu
Đem lời can gián bây mưu xa gận
Một hai ngăn đón hành trần:
" Để cho Triệu bích về Tần sao nện"
Nàng Cù đã quyết một bện
Lại toan mượn lấy sứ quyền ra tạy
Tiệc vui chén cúc giở say,
Mắt đưa cao thấp, giáo lay dùng dặng
Đang khi hoan yến nửa chừng,
Lữ Gia biết ý ngập ngừng bước rạ
Chia quân cấm lữ về nhà,
Tiềm mưu mới họp năm ba đại thận
Đôi bên hiềm khích thêm phần
Mụ Cù yếu sức, sứ thần non gạn

5. Hán đánh Nam Việt

Vũ thư đạt đến Nam quan,
Hán sai binh mã hai ngàn kéo sang
Lữ Gia truyền hịch bốn phương:
Nỗi Hưng thơ dại, nỗi nàng dâm ô;
Tình riêng chim Việt ngựa Hồ,
Chuyên vần báu ngọc các đồ sạch khộng
Rắp toan bán nước làm cộng
Quên ơn thủa trước, không lòng mai sạu
Cũng tuồng Lữ Trĩ khác đâu,
Chồi non chẳng bẻ, rễ sâu khó đạo
Quan binh một trận đổ vào,
Lửa nào tiếc ngọc, nắng nào tiếc hoạ

6. Nhà Triệu mất

Vệ Dương lên nối nghiệp nhà,
Trong là quốc nạn, ngoài là địch nhận
Hai nghìn giết sạch Hán quân,
Đem cờ sứ tiết để gần ải quạn
Tạ từ giả tiếng nói van,
Mấy nơi yếu hại sai quan đề phòng,
Bỗng đâu Hán lại tiếp sang,
Một kỳ tịnh tiến, năm đường giáp cộng
Trong thành một ngọn lửa thông,
Chiêu hàng ngoài mạc, hội đồng các dịnh
Chạy ra lại gặp truy binh,
Vệ vương, Lữ tướng buộc mình cửa hiện
Kể từ Triệu lịch kỷ niên,
Năm ngoài chín chục, ngôi truyền năm vụa
Trách ai gây việc tranh đua,
Vắn đài vận nước, được thua cơ trợi

ỊI Thời kỳ chống Bắc thuộc (Thế kỷ 2 trước TL - thế
kỷ 10 sau TL)

ịv Nhà Hán và Hai bà Trưng (111 trước TL 43 sau TL)

1. Chính sách nhà Tây Hán


Giao Châu mới thuộc nước người,
Ấy về Tây Hán là đời Nguyên phong .
Bản đồ vào sách hỗn đồng,
Đất chia chín quận , quan phong thú thần .
Đầu sai Thạch Đái trị dân,
Cầm quyền tiết việt giữ phần phong cượng
Tuần tuyên mới có Tích Quang,
Dạy dân lễ nghĩa theo đường hoa phong .
Nhâm Diên khuyên việc canh nông,
Đổi nghề ngư liệp về trong khuê điền .
Sính nghi lại giúp bổng tiền,
Khiến người bần khổ thoả nguyền thất giạ
Văn phong nhức dấy gần xa,
Tự hai hiền thú ấy là khai tiện
Luân hồi trăm có dư niên,
Trải qua Đông Hán thừa tuyên mấy ngượi

2. Hai bà Trưng dựng nền Dộc lập

Đường ca lâu đã vắng lời,
Đến như Tô Định là người chí hụng

Bà Trưng quê ở châu Phong,
Giận người tham bạo thù chồng chẳng quện
Chị em nặng một lời nguyền,
Phất cờ nương tử thay quyền tướng quận
Ngàn Tây nổi áng phong trần,
Ầm ầm binh mã xuống gần Long biện
Hồng quần nhẹ bước chinh yên,
Đuổi ngay Tô Định dẹp tan biên thạnh
Đô kỳ đóng cõi Mê Linh,
Lĩnh nam riêng một triều đình nước tạ
Ba thu gánh vác sơn hà,
Một là báo phục, hai là bá vượng
Uy thanh động đến Bắc phượng
Hán sai Mã Viện lên đường tiến cộng
Hồ Tây đua sức vẫy vùng,
Nữ nhi chống với anh hùng được nảo
Cấm Khê đến lúc hiểm nghèo,
Chị em thất thế cũng liều với sộng
Phục Ba mới dựng cột đồng,
Ải quan truyền dấu biên công cõi ngoại
Trưng vương vắng mặt còn ải
Đi về thay đổi mặc người Hán quan

v. Giao Châu trong thời Bắc thuộc (43 - 544)

1. Chính sách nhà Đông Hán


Trải Minh, Chương đến Hiếu, An ,
Tuần lương đã ít, tham tàn thiếu đậu
Mới từ Thuận đế về sau,
Đặt quan thứ sử thuộc vào chức phương .
Kìa như Phàn Diễn, Giả Xương,
Chu Ngu, Lưu Tảo dung thường kể chị
Trương Kiều thành tín phủ tuy ,
Chúc Lương uy đức, man di cũng gận
Hạ Phương ân trạch ngấm nhuần,
Một châu tiết việt hai lần thừa tuyện

2. Lý Tiến, Lý Cầm làm quan nhà Hán

Tuần lương lại có Mạnh Kiên,
Khúc ca Giả phủ vang miền trung chậu
Ba năm thăng trạc về chầu,
Thổ quan Lý Tiến mới đầu Nam nhận
Sở kêu:" Ai chẳng vương thần,
Sĩ đồ chi để xa gần khác nhảu"
Tình từ động đến thần lưu,
Chiếu cho cống sĩ bổ châu huyện ngoại
Lý Cầm chầu chực điện đài,
Nhân khi Nguyên đán kêu lời xa xội
Rằng:" Sao phủ tái hẹp hỏi
Gió mưa để một cõi ngoài Viêm phương " .
Tấm thành cũng thấu quân vương,
Trung châu lại mới bổ sang hai ngượi
Nước Nam mấy kẻ nhân tài,
Mới cùng người Hán chen vai từ rạy

3. Họ Sĩ tự chủ

Lửa lò Viêm Hán gần bay,
Thế chia chân vạc, nào hay cơ trợi
Tranh nhau ba nước ba nơi,
Cầm quyền sinh sát mặc người phong cượng
Nho lưu lại có Sĩ vương,
Khơi nguồn Thù Tứ , mở đường lễ vặn
Phong tiêu rất mực thú thần,
Sánh vai Đậu Mục, chen chân Triệu Đạ
Sĩ Huy nối giữ tước nhà,
Dứt đường thông hiếu, gây ra cừu thụ
Cửa hiên phút bỗng hệ tù,
Tiết mao lại thuộc về Ngô từ rậy

4. Bà Triệu Ẩu đánh Ngô

Binh qua trải bấy nhiêu ngày,
Mới sai Lục Dận sang thay phiên thận
Anh hùng chán mặt phong trần,
Nữ nhi lại cũng có lần cung đạo
Cửu chân có ả Triệu kiều,
Vú dài ba thước tài cao muôn ngượi
Gặp cơn thảo muội cơ trời,
Đem thân bồ liễu theo loài bồng tạng
Đầu voi phất ngọn cờ vàng,
Sơn thôn mấy cõi chiến trường xông phạ
Chông gai một cuộc quan hà ,
Dù khi chiến tử còn là hiển lịnh

5. Ngô Tấn tranh nhau Giao Châu

Từ giờ Ngô lại tung hoành,
Đặt làm Giao, Quảng hai thành mới phận
Tôn Tư rồi lại Đặng Tuân,
Lữ Hưng, Dương Tắc mấy lần đổi thạy
Đổng Nguyên, Lưu Tuấn đua tay,
Kẻ Ngô, người Tấn những ngày phân trạnh
Đào Hoàng nối dựng sứ tinh,
Tân xương, Cửu đức, Vũ bình lại chịa
Mười năm chuyên mặt phiên ly,
Uy gia bốn cõi, ân thuỳ một chậu
Khi đi, dân đã nguyện lưu ,
Khi già, thương khóc khác nào từ thận

6. Chính sách nhà Tấn

Ngô công nối dấu phương trần ,
Hai mươi năm lẻ nhân tuần cũng yện
Dân tình cảm kết đã bền,
Tước nhà Cố Bật lại truyền Cố Thạm
Dân tình khi đã chẳng kham,
Dẫu là Cố Thọ muốn làm ai nghẹ
Quận phù lại thuộc Đào Uy,
Rồi ra Đào Thục, Đào Tuy kế truyện
Bốn đời tiết việt cầm quyền,
Phiên bình muôn dặm, trung hiền một mộn
Tham tàn những lũ Vương Ôn,
Binh qua nối gót, nước non nhuộm trận
Tấn sai đô đốc tướng quân,
Sĩ Hành là kẻ danh thần chức cạo
Dẹp yên rồi lại về trào,
Uy danh nào kém họ Đào thuở xựa
Nguyễn Phu tài trí có thừa,
Phá năm mươi luỹ tảo trừ giặc Mạn

7. Họ Đỗ ba đời làm thứ sử

Châu diên lại có thổ quan,
Đỗ công tên Viện dẹp đoàn Cửu chận
Tướng môn nối chức phiên thần,
Con là Tuệ Độ thêm phần uy dạnh
Bổng riêng tán cấp cùng manh,
Cơm rau áo vải như hình kẻ quệ
Dâm từ cấm thói ngu mê,
Dựng nhà học hiệu giảng bề minh luận
Ân uy ra khắp xa gần,
Cửa thành đêm mở, gió xuân một trợi
Hoàng Văn phủ ngữ cũng tài,
Một nhà kế tập ba đời tuần lượng

8. Giao châu loạn

Đến triều Lưu Tống hưng vương,
Hoà Chi, Nguyên Cán sai sang hội động
Đuổi Dương Mai, giết Phù Long,
Khải ca một khúc tấu công về trạo
Gió thu cuốn bức chinh bào,
Y thường một gánh, qui thiều nhẹ khộng
Từ khi vắng kẻ chiết xung,
Tràng Nhân, Lưu Mục tranh hùng mấy phẹn
Pháp Thừa cũng chức tuần tuyên,
Những chăm việc sách để quyền lại tỵ
Dưới màn có Phục đăng Chi,
Cướp quyền châu mục, lộng uy triều định
Tề suy, Nguyên Khải tung hoành,
Hùng phiên chiếm giữ cô thành một phượng
Bắc triều đã thuộc về Lương,
Lại sai Lý Thốc chiêu hàng nẻo xạ
Giao châu một giải sơn hà,
Ái Châu lại mới đặt ra từ rạy

vị Nhà Tiền Lý (544 - 603)

1. Lý Nam Đế dựng nền độc lập


Kể từ Ngô, Tấn lại đây,
Hai trăm mười bốn năm chầy cát phận
Cỏ cây chan chứa bụi trần,
Thái bình mới có Lý Phần hưng vượng
Vốn xưa nhập sĩ nước Lương,
Binh qua gặp lúc phân nhương lại vệ
Cứu dân đã quyết lời thề,
Văn thần, vũ tướng ứng kỳ đều ra,
Tiêu Tư nghe gió chạy xa,
Đông tây muôn dặm quan hà quét thạnh
Vạn Xuân mới đặt quốc danh,
Cải nguyên Thiên đức, đô thành Long biện
Lịch đồ vừa mới kỷ niên,
Hưng vương khí tượng cũng nên một đợi
Quân Lương đâu đã đến ngoài,
Bá Tiên là tướng đeo bài chuyên chịnh
Cùng nhau mấy trận giao binh,
Thất cơ Tô Lịch, Gia ninh đôi đượng
Thu quân vào ở Tân xương,
Để cho Quang Phục chống Lương mặt ngoại
Mới hay " nhật phụ mộc lai,"
Sấm văn trước đã an bài những khị

2. Triệu Quang Phục phá Lương

Bấy giờ Triệu mới thừa ky ,
Cứ đầm Dạ trạch, liệu bề tấn cộng
Lý vương phút trở xe rồng ,
Triệu Quang Phục mới chuyên lòng kinh doạnh
Hương nguyền trời cũng chứng minh,
Rông vàng trao vuốt giắt vành đầu mậu
Từ khi long trảo đội đầu,
Hổ hùng thêm mạnh, quân nào dám đượng
Bá Tiên đã trở về Lương,
Dương Sằn còn ở chiến trường tranh đụa
Một cơn gió bẻ chồi khô ,
Ải lang dứt dấu ngựa Hồ vào ra,
Bốn phương phẳng lặng can qua ,
Theo nền nếp cũ, lại ra Long thạnh

3. Lý Phật Tử đánh Triệu quang Phục

Lý xưa còn có một cành,
Tên là Thiên Bảo náu mình Ai Lạo
Chiêu binh lên ở Động đào,
Họ là Phật Tử cũng vào hội minh .
Đào lang lại đổi quốc danh,
Cũng toan thu phục cựu kinh của nhạ
Cành dâu mây toả bóng tà ,
Bấy giờ Phật Tử mới ra nối giòng,
Rừng xanh gió phất cờ hồng,
Đề binh kéo xuống bẹn sông tung hoạnh
Triệu vương giáp trận Thái bình,
Lý thua rồi mới thu binh xin hoạ
Triệu về Long đỗ Nhị hà,
Lý về Hạ mỗ, ấy là Ô diên .
Hai nhà lại kết nhân duyên,
Nhã lang sánh với gái hiền Cảo nượng
Có người: Hống, Hát họ Trương,
Vũ biền nhưng cũng biết đường cơ mựu
Rằng:" Xưa Trọng Thuỷ, Mỵ Châu,
Hôn nhân là giả, khấu thù là chận
Mảnh gương vãng sự còn gần,
Lại toan dắc mối Châu Trần sao nển"
Trăng già sao nỡ xe duyển
Để cho Hậu Lý gây nền nội cộng
Tình con rể, nghĩa vợ chồng,
Tin nhau ai biết ra lòng lừa nhạu
Lâu la mới ngỏ tình đâu,
Nhã lang trộm lấy đâu mâu đổi liện
Trở về giả chước vấn yên,
Giáp binh đâu đã băng miền kéo sạng
Triệu vương đến bước vội vàng,
Tình riêng còn chửa dứt đường cho quạ
Đem con chạy đến Đai nha,
Than thân bách chiến phải ra đường cùng!

4. Lý Phật Tử hàng Tuỳ

Từ nay Phật Tử xưng hùng,
Hiệu là Nam đế nối dòng Lý vượng
Phong châu mới mở triều đường .
Ô diên, Long đỗ giữ giàng hai kịnh
Tuỳ sai đại tướng tổng binh,
Lưu Phương là chức quản hành Giao chậu
Đô long một trận giáp nhau,
Xin hàng Lý phải sang chầu Tấn dượng
Từ giờ lại thuộc Bắc phương,
Mấy năm Tuỳ loạn rồi Đường mới rạ

vịi Nền đô hộ của nhà Đương (603 - 905)

1. An nam đô hộ phủ


Quan Tuỳ lại có Khâu Hoà,
Đem dâng đồ tịch nước ta về Đượng
An nam mới lại canh trương,
Đặt Đô hộ phủ theo đường Trung Hoạ
Mười hai châu lại chia ra:
Giao, Phong, Lục, Ái, Chi, Nga, Diễn, Trạng
Vũ an, Phúc Lộ, Hoan, Thang,
Cơ mi các bộ man hoang ở ngoại

2. Mai Thúc Loan khởi nghĩa

Quan Đường lắm kẻ tham tài,
Binh dân hàm oán, trong ngoài hợp mựu
Mai Thúc Loan ở Hoan Châu,
Quân ba mươi vạn ruổi vào ải xạ
Hiệu cờ Hắc đế mở ra,
Cũng toan quét sạch sơn hà một phượng
Đường sai Tư Húc tiếp sang,
Hợp cùng Sở Khách hai đàng giáp cộng
Vận đời còn chửa hanh thộng
Nước non để giận anh hùng nghìn thụ

3. Giặc Đồ Bà

Trấn nam lại đổi tên châu,
Một đời canh cải trước sau mấy kỵ
Xa khơi ngoài chốn biên thuỳ,
Đồ bà giặc mọi đua bề phân trạnh
Bá Nghi hợp với Chính Bình,
Dẹp đoàn tiểu khấu, xây thành Đại Lạ

4. Phùng Hưng khởi nghĩa

Xiết bao phú trọng, chính hà,
Sinh dân sầu khổ ai là xót chẳng
Đường lâm mới có Phùng Hưng,
Đã tài kiêu dũng, lại lưng phú hạo
Cõi Tây nổi việc cung đao,
Đô quân tôn hiệu, Tản Thao hiệp tịnh
Đem quân thẳng đến vây thành,
Đại La thế bức, Chính Bình hồn tiệu
Nhân phủ trị mở ngôi triều,
Phong châu một giải nhiếp điều mấy niện
Đế hương phút trở xe biền,
Đại vương Bố Cái tiếng truyền muôn thụ
Phùng An con nối thơ ngu,
Nghe quan nhu viễn bầy mưu hàng Đượng

5. Chuyện Lý Ông Trọng

Kể từ đô hộ Triệu Xương,
Thành La xây lại vững vàng hơn xựa
Thuyền chơi qua bến sông Từ,
Giấc nồng đâu bỗng tình cờ lạ sạo
Thấy người hai trượng dài cao,
Bàn kinh, giảng truyện khác nào văn nhận
Cùng nhau như gửi tâm thần,
Tỉnh ra mới rõ nguyên căn tỏ tượng
Lý Ông Trọng ở Thuỵ hương,
Người đời vua Thục mà sang thi Tận
Hiếu liêm nhẹ bước thanh vân,
Làm quan hiệu uý đem quân ngữ Hồ .
Uy danh đã khiếp Hung nô,
Người về Nam quốc, hình đồ Bắc phượng
Hàm dương đúc tượng người vàng,
Uy thừa còn giúp Tần hoàng phục xạ
Hương thơm cổ miếu tà tà,
Từ nay tu lý mới là phong quạng

6. Quan lại nhà Đường

Triệu công tuổi tác về Đường,
Quý Nguyên, Bùi Thái tranh quyền với nhạu
Triều đình kén kẻ trị châu,
Triệu công vâng mệnh xe thiều, lại sạng
Bản kiều vừa nhận dấu sương,
Bến hồng đã định, khói lang cũng tạn
Trương Đan thay chức phiên hàn,
Tập nghề thuỷ chiến, tạo thuyền đồng mộng
Đại la mới đắp luỹ vòng,
Ái, Hoan thành cũ đều cùng tái tụ
Quan tham ai chẳng oán thù,
Kìa như Tượng Cổ sư đồ bạn lỵ
Quan hiền ai chẳng uý uy,
Kìa như Mả Tổng man di đầu hạng
Nguyên Gia dời phủ Tô giang,
Đến năm Bảo lịch dời sang Tống bịnh
Giao châu binh mã tung hoành,
Thăng Triều đã dẹp, Dương Thanh lại nộng
Kìa ai tôn trở chiết xung,
Mã công tên Thực anh hùng kém chị
Tiết thanh cảm vật mới kỳ,
Dưới dòng Hợp phố châu đi cũng vệ
Kiềm châu xa ruỗi mã đề,
Hồng bay còn dấu tuyết nê chưa mọn
Nhũng quan lại gặp Vũ Hồn,
Thành lâu lửa cháy, dinh đồn quân rẹo
Đoàn công vâng mệnh Đường triệu
Trước xe phủ dụ, giặc nào chẳng tạn
Thôi trung thổ, lại ngoại man,
Châu Nhai, Nguyên Hựu sai quan mấy lận
Nho môn có kẻ tướng thần,
Họ Vương tên Thức kinh luân gồm tại
Thành môn nghiêm nghị trong ngoài,
Trồng cây trúc mộc, tập bài cung đạo
Châu dân đều thấm ân cao,
Chiêm thành, Chân lạp cũng vào hiệu cụng

7. Giặc Nam Chiếu

Xe thiều vừa trở về Đông,
Giặc Man thừa khích ruổi giong cõi ngoại
Vương Khoan, Lý Hộ phi tài,
Đường sai Thái Lập lĩnh bài Giao Chậu
Biên thư mấy bức về tâu,
Kẻ xin lưu thú, người cầu bãi bịnh
Ghen công vi hoặc, Thái Kinh,
Thờ ơ để việc biên tình mặc ại
Tiếc thay muôn dặm thành dài,
Cô quân nên nỗi thiệt tài chiết xụng
Ngu Hầu tiếp chiến bên sông,
Quyết liều một trận đều cùng quyên sịnh
Vua Đường tuyên chỉ triệt binh,
Bỏ hàm Đô hộ, đặt hành Giao Chậu
Trấn, đồn, cửa bể, đâu đâu,
Tống Nhung, Thừa Huấn hợp nhau một đượng
Dùng dằng nào dám tiến sang,
Tám ngàn quân bỏ cương tràng sạch khộng
Dối tâu lại muốn cầu công,
Rồi ra sự phát đều cùng nghị lựu

 

8. Cao Biền dẹp Nam Chiếu

Cao Biền là tướng lạc điêu,
Tài danh sớm đã dự vào giản trị
Quân phù vâng lệnh chỉ huy,
Tiệp thư sai một tiểu ty về chậu
Gia quan cho lĩnh tiết mao,
Đặt quân Tĩnh hải biên vào bản chượng
Một châu hùng cứ xưng vương,
Thành La rộng mở, kim thang vững bện
Tuần hành trải khắp sơn xuyên,
Đào Thiên uy cảng, thông thuyền vãng lại
Chín năm khép mở ra tài,
Thành trì truyền dấu, miếu đài ghi cộng
Rồi khi trở ngựa Hán trung,
Cao Tầm là cháu nối dòng xưng phiện
Họ Tăng, tên Cổn cũng hiền,
Giao Châu di ký còn truyền một chượng

IIDD Thời kỳ xây dựng Độc lập và thống nhất (Thế kỷ
thứ 10)

vịii Nhà Ngô (906 - 967)

.(thiếu)

ịx Nhà Đinh và nhà Tiền Lê (967 - 1009)

1. Thập nhị sứ quân


Nghiệp Ngô rầy có ai thảy
Đua nhau lại, phó mặc tay quần hụng
Tiên du riêng một đề phong,
Nguyễn Công Thủ Tiệp cứ vùng Nguyệt Thiên
Đường lâm riêng một sơn xuyên,
Ngô Công Nhật Khánh cứ miền Tản Thạo
Tây phù liệt có Nguyễn Siêu,
Ngô Xương Xí giữ Bình kiều một phượng
Tế giang này có Lữ Đường,
Nguyễn Khoan hùng cứ Vĩnh tường phải chẳng
Phạm Phòng Át giữ châu Đằng,
Kiều Tam Chế giữ ngàn rừng châu Phọng
Đỗ Giang kìa Đỗ Cảnh Công;
Kiều công tên Thuận ở trong Hồi hồ .
Kiến ong Siêu loại tranh đua,
Lý Khuê một cõi trì khu dầu lọng
Kình nghê Bố hải vẫy vùng,
Trần công tên Lãm xưng hùng một nợi
Phân tranh hội ấy nực cười!
Mười hai quan sứ mỗi người mỗi phượng

2. Đinh Bộ Lĩnh hợp nhất quốc gia

Xây vần trong cuộc tang thương,
Trải bao phân loạn mới sang trị bịnh
Có ông Bộ Lĩnh họ Đinh,
Con quan thử sử ở thành Hoa lự
Khác thường từ thuở còn thơ,
Rủ đoàn mục thụ mở cờ bông lạu
Dập dìu kẻ trước người sau,
Trần ai đã thấy vương hầu uy dụng
Một mai về với Trần công,
Hiệu xưng Vạn thắng, anh hùng ai quạ
Bốn phương thu lại một nhà,
Mười hai sứ tướng đều là quét thạnh

3. Chính sách nhà Đinh

Trường yên đầu dựng đô thạnh
Cải nguyên là hiệu Thái bình từ đậy
Ngìn năm cơ tự mới xây,
Lên ngôi hoàng đế đặt bầy trăm quạn
Có đường bệ có y quan,
Đẳng uy có biệt, giai ban có thượng
Tống phong giao chỉ quận vương,
Cha con đều chịu sủng chương một ngạy
Hồng Bàng để mối đến nay,
Kể trong chính thống từ đây là đậu
Tiếc không học vấn công phu,
Chuyện xưa ít biết, lo sau vụng đượng
Già tăng cũng dự quan sang,
Bặc, Điền, Cơ, Tú đều phường vũ nhận
Nội đình năm vị nữ quân ,
Nặng tình kiêm ái , quên phần di mựu
Đã phong Đinh Liễn con đầu,
Hạng Lang là thứ nhẽ nào đổi thảy
Pháp hình cũng lạ xưa nay,
Hùm nuôi trong cũi, vạc bày ngoài sận

4. Nhà Đinh mất ngôi

Chơi bời gần lũ tiểu nhân,
Rượu hoa ngọt giọng, đền xuân mê lọng
Trùng môn thưa hở đề phòng,
Để cho Đỗ Thích gian hùng nỡ tạy
Nối sau Thiếu đế thơ ngây,
Lê Hoàn tiếp chính từ rầy dọc ngạng
Tiếm xưng là Phó quốc vương,
Ra vào cùng ả họ Dương chung tịnh
Bặc, Điền vì nước liều mình,
Trách sao Cự Lạng tán thành mưu gian

5. Lê Hoàn phá quân Tống

Chợt nghe binh báo Nam quan,
Cùng nhau phù lập Lê Hoàn làm vượng
Trước mành, vâng lệnh nàng Dương,
Trong cung đã thấy áo vàng đưa ra,
Trường yên đổi mặt sơn hà,
Đại Hành trí lược thực là cũng ghê!
Vạc Đinh đã trở sang Lê,
Nàng Dương chăn gối cũng về hậu cụng
Nguy nga ngói bạc, cột đồng,
Cung đài trang sức buông lòng xa hoang,
Tự mình đã trái luân thường,
Lấy chi rủ mối, dựng giường , về sạu

6. Nhà Lê thất chính

Đoàn con đích, thứ tranh nhau,
Để cho cốt nhục thành cừu bởi ải
Trung tông vừa mới nối đời,
Cấm đình thoắt đã có người sính hung,
Ngoạ triều thí nghịch hôn dung,
Trong mê tử sắc, ngoài nồng hình danh,
Đao sơn, kiếm thụ đầy thành,
Thuỷ lao bào lạc ngục hình gớm thạy
Bốn năm sầu oán đã đầy,
Vừa tuần Lê rụng đến ngày Lý sịnh

ỊV Thời kỳ phát triển (Thế kỷ 11 - đầu thế kỷ 19)

x. Nhà Hậu Lý (1010 - 1225)

1. Lý Thái Tổ


Bắc giang trời mở thánh minh ,
Lý Công tên Uẩn nhân tình đới suy .
Lê triều làm chức chỉ huy,
Lũ Đào Cam Mộc ứng kỳ phù lện
Đầu năm cải hiệu Thuận Thiên,
Thăng Long mới đổi đặt tên kinh thạnh
Định ra thuế lệ phân minh,
Túc xa, quản giáp quân danh cũng tượng
Hỗn dồng một mối phong cương ,
Hai mươi bốn lộ các đường mới chịa
Cử long sấm dậy binh uy ,
Diễn châu gió động tinh kỳ thân chinh .
Biện loan gặp lúc hối minh ,
Hương nguyền cảm cách, sóng kình cũng ệm
Bốn phương trong trị, ngoài nghiêm,
Chiêm Thành, Chân Lạp xa đem cung cầu .
Ngựa man sang tiến Bắc triều,
Tống hoàng ban thưởng quan bào thêm vịnh
Ví hay đạo học tinh minh ,
Đế vương sự nghiệp nước mình ai hởn
Có sao tin hoặc dị đoan,
Say vui đạo Phật lưu tiên cảnh chủa
Để cho dân tục tranh đua,
Ni cô nối gót, tăng đồ chen vại
Bởi vì sinh cửa Như lai ,
Tiêu sơn từ thuở anh hài mới rạ
Sóng tình chìm nổi ái hà ,
Chín ngôi hoàng hậu, phép nhà cũng sại
Tự mình đã dựng lệ giai ,
Khiến nên con cái, thêm bài tương tranh .

2. Lý Thái Tông bình Nùng, phục Chiêm

Thái Tông nối nghiệp thủ thành,
Anh em lại rắp đua giành ngôi cạo
Cùng nhau binh mã sấn vào,
Cấm thành bỗng chốc xôn xao chiến trượng
Trận tiền giết Vũ đức Vương,
Đông Chinh, Dực Thánh tìm đường chạy xạ
Khoan hình lại xuống chiếu tha,
Thân phiên đã định, nước nhà mới yện
Ban hình luật, canh tịch điền ,
Mở đồ nhất thống cầm quyền tứ chinh .
Mừng xem " Phiên phục, Nùng bình" ,
Huy xưng có chữ rành rành biểu tiên .
Vắn dài là số tự nhiên,
Tụng kinh cầu thọ , khéo nên chuyện cượi

3. Lý Thánh Tông, một ông vua nhân dũng

Thánh Tông văn học hơn đời,
Bình Chiêm, đánh Tống, đủ tài kinh luận
Khuyến nông chăm việc cần dân ,
Chiếu chăn thương kẻ tù nhân lạnh lụng
Thánh hiền tô tượng học cung ,
Đặt khoa bác sĩ, ưu dung đại thận
Ân riêng mưa móc đượm nhuần,
Đã tiền lại lúa ân cần dưỡng liêm .
Hồ tây vui thú Dâm đàm ,
Nỡ đem của nước xây làm cung tiện
Chuông Sùng Khánh , tháp Báo Thiên ,
Phật vàng đúc tượng, say thiền lạ sạo

4. Bà Ỷ Lan nhiếp chánh

Nhân Tông tuổi chửa là bao,
Ngoài ra triều yết , trong vào giảng minh .
Thụ di có Lý Đạo Thành,
Ỷ Lan hoàng hậu buông mành giúp nện
Mở khoa bác học cầu hiền ,
Ba thăng một mẫu, thuế điền nhẹ thay!
Có khi xem gặt, xem cầy,
Lòng chăm điền dã , một ngày mấy tao .
Mưa ân ngấm khắp dồi dào,
Chuộc người bần nữ gả vào quan phu .

5. Lý Thường Kiệt bại Chiêm, phá Tống

Thân chinh xe ngựa trì khu ,
Phá Sa động bắt man tù Nguỵ Phang .
Chiêm Thành nộp đất xin hàng,
Ba châu qui phụ một đường thanh di .
Tống binh xâm nhiễu biên thuỳ,
Tướng quân Thường Kiệt dựng cờ Bắc chinh .
Bên song Như Nguyệt trú dinh ,
Giang sơn dường có thần linh hộ trì .
Miếu tiền phảng phất ngâm thi,
Như phân địa thế, như trì thiên binh .
Bấy giờ Tống mới hư kinh ,
Giảng hoà lại trả mấy thành cố cương .
Lại còn hối hận một chương:
" Tham voi Giao Chỉ, mất vàng Quảng nguyên"
Năm mươi năm lẻ lâu bền,
Vũ công văn đức rạng truyền sử xạnh
Thượng dương sao nỡ bạc tình,
Để bà Dương hậu một mình ngậm oạn
Kìa Lê văn Thịnh mưu gian,
Thương chi quái hổ mà khoan lưới hình!
Phật từ như quả chứng minh ,
Chuông chùa Diên Hựu đã thành phúc cai .
Cớ sao Trừ quân lại thác vào người hoá duyển

6. Lý Thần Tông khuyến khích việc nông

Thần Tông sinh cửa Sùng hiền,
Dấu hang thi giải còn truyền Sài sợn
Thức nồng nhộm vẻ chi lan ,
Thông minh học vấn kiêm toàn cả hại
Năm đầu vừa mới lên ngôi,
Giảng cầu trước đã mở bài kinh diên .
Qui nông cho lính canh phiên,
Rộng ân lại trả quan điền cho dận

7. Đỗ Anh Vũ lộng quyền

Anh Tông còn thuở xung nhân ,
Đỗ Anh Vũ lấy ngoại thân lộng hành .
Ra vào trong trướng, ngoài mành,
Cùng Lê Thái Hậu có tình riêng chụng
Tống giam đã bắt vào trong,
Mà Lê Hậu lại còn lòng đeo đại
Rượu cơm vẫn cứ đưa mời,
Vàng cho ngục tốt liệu bài thoát rạ
Nghị đồ rồi lại được tha,
Để đoàn Vũ Đái đều là thác oạn

8. Tài kinh quốc của Tô Hiến Thành

Rồi ra vắng mặt quyền gian ,
Hiến Thành hết sức cán toàn mới nện
Khi triều Tống, khi sính Nguyên ,
Một niềm cung thuận , đôi bên được lọng
An nam Tống mới cải phong ,
Quốc danh từ ấy rạng dòng viêm phương .
Thành nam mở chốn võ tràng ,
Tập tành cung ngựa phô trương tinh kỳ .
Uy danh rậy đến biên thuỳ,
Chiêm thành, Ngưu hống man di cũng bịnh
Tuần du đã tỏ dân tình,
Sơn xuyên trải khắp địa hình gần xạ
Trừ quân vì một ấu niên .
Thác cô nhờ có tôi hiền,
Dẫu người hối chúc mà quyền chẳng sại
Cao Tông ba tuổi nối đời,
Hiến Thành cư nhiếp , trong ngoài đều yện
Di lưu còn muốn tán dương .

9. Lý Cao Tổ thất chính

Tiếc không dùng kẻ trung tương ,
Cao Tông hoang túng mọi đường ai cản
Dấu xe quanh khắp giang san,
Chính mình lỗi tiết , du quan quá thường .
Lại thêm thổ mộc cung tường ,
Mua quan bán ngục nhiều đường riêng tậy
Nhạc Chiêm rầu rĩ khéo bầy,
Những là tai biến từ này hiện rạ
Trâu đâu lên ngọn am la ,
Thước đâu làm tổ góc nhà Kính thiên .
Bốn phương trộm cướp nổi lên,
Quân Chiêm, người Tống Quyền cương ngày một đổi
dời,
Phạm Du đã phản lại vời về kịnh
Bỉnh Di là kẻ trung thành,
Nghe dèm mà nỡ kim giai .
Xe loan lánh chạy ra ngoài,
Hoàng thân đế thích mỗi người một phượng

11. Họ Trần giúp vua Lý

Trừ quân đi đến Thiên trượng
Tình cờ lại gặp một nường tiểu thự
Con nhà Trần Lý công ngư .
Lưới chài nhưng cũng phong tư khác thượng
Trăng già đưa mối tơ vương,
Mới hay con tạo mở đường di duyên .
Họ Trần từ ấy nổi lện
Kết bè thích lý , dựng nền tiếm giai .
Trần Tự Khánh ở phương ngoài,
Đem quân Hải ấp vào nơi đô thạnh

12. Lý Huệ Tông phát điên

Huệ tông gặp bước gập ghềnh,
Nhẹ ân mẫu hậu , nặng tình phu nhân .
Lạng châu xe đã Bắc tuần ,
Nửa đêm riêng với nàng Trần lẻn đị
Gặp quân Tự khánh rước về,
Đương cơn gió bụi bốn bề chưa ệm
Huệ tông cuồng tật lại thệm
Khi ngày đứng múa khi đêm nằm dại
Xuất gia lại muốn tu trai ,
Ngôi thiêng phó thác cho người đào thơ .
Đằng sơn bóng nhật đã mờ,
Hai trăm mười sáu Lý cơ còn gỉ"

13. Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng

Chiêu hoàng là phận nữ nhi,
Phấn son gánh việc gian nguy được nào!
Xây vần cơ tạo khéo sảo
Bỗng xui Trần Cảnh hiện vào hầu trọng
Người yểu điệu, kẻ thư phong ,
Bén hơi rơm lửa, động lòng mưa mây ,
Vẩy nước chậu, vắt khăn tay,
Khi đêm đập bóng, khi ngày ngồi chung .
Hoa đào đã dạn gió động
Vua tôi phận đẹp, vợ chồng duyên mạy
Chiếu rồng ban xuống năm mây .
Mừng rằng nữ chúa ngày nay có chộng

xị Nhà Trần (Thời kỳ thịnh trị: 1226 - 1340)

Thời Kỳ Thịnh Trị (1226 1340)

1. Những việc cải cách đầu tiên


Đông A tỏ mặt vừng hồng,
Thái tông cải hiệu Kiến trung rõ rạng
Trần Thừa là Thái thượng hoàng,
Chuyên quyền thính đoán , gồm đường kinh luận
Soạn làm thông chế lễ văn ,
Thuế điền đã định, số dân cũng tượng
Tướng thần mới đặt bình chương ,
Huyện châu sai kẻ khoa trường trị dân,
Bạ đầu thi kẻ lại nhận
Hiệu quân Tứ thánh, Tứ thần mới chịa
Hà phòng rày mới có đê,
Trăm quan áo mạo, dù xe thêm tượng
Việc ngoài đánh dẹp bốn phương,
Phó cho Thủ Độ chuyên đường trị dận

2. Văn học và võ công

Thượng hoàng phút đã từ trần,
Thái tông tuổi mới đến tuần mười hại
Cao minh đã có tư trời ,
Lại thêm Thủ Độ vẽ vời khôn ngoạn
Sùng văn , tô tượng Khổng, Nhan ,
Dựng nhà Quốc học , đặt quan Giám thần ,
Bảy năm một hội thanh vân ,
Anh tài náo nức dần dần mới rạ
Trạng nguyên, bảng nhỡn, thám hoa,
Kẻ kinh, người trại cũng là tài danh
Lại thi thái học chư sinh,
Lại thi tam giáo chia rành ba khoạ
Thân chinh trỏ ngọn thiên qua ,
Chiêm nam, Nguyên bắc đều là dẹp tạn

3. Phong tục đời Trần

Vì ai, đạt gánh giang sản
Mà đem cố chúa gia oan nỡ nào!
Chiêu hoàng duyên trước làm sảo
Gả đi bán lại , coi vào khó nghe!
Phép nhà chẳng sửa buồng the,
Vợ anh sao nỡ đem về hậu cung
Bởi ai đầu mở hôn phong,
Khiến nên một đạo khuê phòng thẹn riêng!
Thuần bôn dong thói ngửa nghiêng,
Họ đương lấy lẫn nào kiêng sợ gị
Thiên Thành công chúa vu quy,
Sao Trần Quốc Tuấn cướp đi cho đảnh
Sính nghi đem tiến thiên đình
Thuỵ bà lăng líu, Trung Thành ngẩn gơ:
Dị đoan mê hoặc khôn chừa,
Chùa tô phật tượng, đình thờ Thích cạ
Tin lời phong thuỷ khi tà,
Đào sông đục núi cũng là nhọc thay!
Lễ đâu yến ẩm quá say,
Đội mo rót rượu, dan tay vui cượi
Ba mươi năm chán cuộc đời,
Truyền cho con nối, ra ngoài Bắc cụng

4. Đức độ và chánh trị của Trần Thánh tông

Thánh tông hiếu hữu một dòng,
Sớm hôm chầu chực, mát nồng thảnh thợi
Anh em đệm cả gối dài,
Sân trong yến lạc , cõi ngoài ấm phọng
Một thiên truyền thụ phép lòng,
Di mưu cho kẻ nối dòng ngày sạu
Văn nho khuya sớm giảng cầu,
Kẻ tu sử ký, người chầu kinh diện
Bề ngoài nghiêm việc phòng biên,
Kén quân đoàn luyện tập thuyền Cửu sạ

5. Trần Hưng Đạo phá Mông Cổ

Trao truyền theo lối phép nhà,
Nhân tông hùng lược lại là tài hơn,
Rợ Nguyên quen thói tham tàn,
Quân năm mươi vạn, những toan tranh hành,
Sắc sai Hưng Đạo tổng binh,
Với Trần Quang Khải các dinh tiến vạo
Chương dương một trận phong đào,
Kìa ai cướp giáo, ra vào có cổng
Hàm quan một trận ruổi giong,
Kìa ai bắt giặc, uy phong còn truyển
Giặc Nguyên còn muốn báo đền,
Mượn đường hộ tống binh thuyền lại sạng
Xương bày trắng đất, máu màng đỏ sộng
Trần Hưng Đạo đã anh hùng,
Mà Trần Nhật Duật kể công cũng nhiệu
Hoài Văn tuổi trẻ trí cao,
Cờ đề sáu chữ quyết vào lập cộng
Trần Bình Trọng cũng là trung,
Đành làm Nam quỷ, không lòng Bắc vượng
Khuyển ưng còn nghĩa đá vàng,
Yết Kiêu, Dã Tượng hai chàng cũng ghê!
Mà trong ngọc diệp kim chi,
Lũ Trần Ích Tắc sao đi đầu hảng
Nhân khi biến cố vội vàng,
Kẻ trung người nịnh đôi dàng tỏ ra,
Trùng hưng đem lại sơn hà,
Đã hay thiên tướng cũng là tài sịnh
Nước nhà khi ấy thanh bình,
Truyền ngôi thái tử, lánh mình Ngoạ vận

6. Anh tông và Minh tông

Anh Tông nối giữ nghiệp Trần,
Trong tu văn đức, ngoài cần vũ cộng
Có châm để dạy Đông cụng
Thuỷ vân có tập vui cùng bút nghiện
Ví không mến phật, say thiền,
Cũng nên một đứng vua hiền Đông Ạ
Quyện cần rồi lại xuất giá,
Minh tông kế thống cũng là hiền vượng
Mười lăm năm giữ phép thường,
Rạng nền nếp cũ, mở giường mối sạu
Tiếc không biện biệt ngư châu
Để cho tà nịnh ở đầu giai bạn
Khắc Chung thêm dệt lời gian,
Quốc Chân mắc phải tiếng oan thiệt mịnh

7. Việc đánh dẹp về đời Hiến tông

Hiến tông làm máy lung linh,
Nghiêm xem tinh độ vận hành không sại
Thạch đê mới đắp đường dài,
Nước sông thuận lối về ngoài biển Động
Thừa bình lại hiếu vũ công,
Đà giang xa mã, Nam nhung tinh kỳ
Cổ quăng mấy kẻ truy tuỳ,
Nhữ Hài, Chiêu Nghĩa đều về thuỷ cung
Kiềm châu có đá kỷ công,
Oán dày vẻ triện, sầu đông ngấn rệu

xịi Nhà Trần (Thời kỳ suy vi: 1341 - 1400)

1. Nhà Trần bắt đầu suy


Dụ tông em lại thừa diêu,
Ngôi thay anh cả, quyền theo Thượng hoạng
Thượng thư mới đặt tỉnh đường,
Đề hình chuyển vận chức thường có tện
Khuyến nông sai sứ đồn điền,
Vân đồn đặt trấn tra thuyền khách nhận
Khu tào thống lĩnh cấm quân,
Phong đoàn lại mới kén dần các độ
Uy thanh xa động biên ngu,
Chiêm thành Chế Mộ dâng đồ thổ nghi
Mong nhờ đưa lối về quê,
Hay đâu gặp gió trở về luống cộng
Thượng hoàng đã vắng mặt trong,
Nào ai kiêng sợ mà lòng chẳng dỉ
Đền Song quế, ao Thanh trì,
Muông chim hoa cỏ thiếu gì trò chơi!
Trong cung cờ bạc chơi bời,
Tiệc vui chuốc chén, trận cười leo dây!
Đạo thường chẳng cẩn phòng vi,
Chị em chung chạ loạn bề đại luận

2. Dương Nhật Lễ tiếm vị

Truyền ngôi con đứa ưu nhân,
Để Dương Nhật Lễ tiếm trần dựng lện
Thói nhà bài hước đã quen,
Tiếng hoà nhịp phách, hát chen cung đạn
Hiến từ đã phãi hàm oan,
Trần công mưu hở thân tàn cũng thương!
Nghệ tông dòng dõi thiên hoàng,
Đà giang lánh dấu, liệu đường khuất thân,
Tiềm mưu với kẻ tôn thần,
Đem về xã tắc nhà Trần thủa xựa
Yêu phân dành đã tảo trừ,
Cũng là nối một mối thừa lại sạu

3. Chiêm thành xâm nhiễu

Tiếc sao một bực ưu nhu,
Đông A từ ấy cơ đồ mới suỵ
Giậu phên trống trải biên thuỳ,
Giặc Chiêm giong ruổi đô kỳ xôn xạo
Quý Ly cho dự khu tào,
Báu thiêng lại để gian haokhải du
Duệ tông hăm hở phục thù,
Đánh Chiêm nào quản tri khu dặm trượng
Khinh mình vào động Ky mang,
Tinh kỳ tan tác gió sương mịt mụ
Em là Phế đế hôn ngu,
Chôn tiền giấu của như đồ trẻ chợi

4. Lê Quý Ly phế lập

Quý Ly quyền lấn trong ngoài
Buông lời sàm gián quên bài tôn thận
Truyền vời Phế Đế vào sân,
Lụa đào một tấm bể trần kết oạn
Thuận tông tuổi mọn tài hèn,
Ngồi không mà để chính quyền mặc ại
Phải chăng bởi tại mưu người,
Mà điềm trẫm triệu cơ trời lạ sao!
Thượng hoàng một giấc chiêm bao,
" Bạch kê, xích chuỷ" ứng vào câu thợ
Loạn trưng đã hiện từ giờ,
Mà đồ tứ phụ ai ngờ vẽ ra!
Chim con đem gửi ác già,
Chắc đâu phó thác hẳn là đắc nhân!

xịii Nhà Hồ và giặc nhà Minh (1400 - 1418)

1. Nhà Hồ cướp ngôi nhà Trần


Quý Ly gắm ghé vạc Trận
Quyết dời kẻ chợ về gần An tộn
Đã xui truyền vị cho con,
Ngọc Thanh lại kết oan hồn một giậy
Gặp khi Thiếu Đế thơ ngây,
Khát Chân, Trần Hãng đêm ngày hợp mựu
Hội minh vừa mới lên lầu,
Ba trăm đồ đảng cùng nhau hiệp tịnh
Dùng dằng chưa kịp cất binh,
Hở cơ một phút tan tành như trọ
Quý Ly mới đổi họ Hồ,
Quốc danh là hiệu Đại Ngu chương hoạng
Truyền ngôi con cả Hán Thương,
Tự xưng là Thái thượng hoàng ở trọng
Sai người dâng biểu cầu phong,
Dối Minh xin để nối dòng quốc quận

2. Quân Minh diệt nhà Hồ

Nguyễn Khang giả tiếng họ Trần,
Sang Minh xin lấy viện quân đưa vệ
Chi lăng nghe động cổ bề,
Lý Bân, Mộc Thạnh trỏ cờ tới nợi
Quân Minh nhân thế đuổi dài,
Nhị Hồ mới chạy ra ngoài phương xạ
Núi Cao vọng, bến Kỳ la,
Đường cùng phải bắt cũng là trời xui!
Tôn vinh kể được mấy hơi,
Sáu năm tiếm vị, muôn đời ô danh

3. Trần Giản Định chống Minh

Quý Ly tội ác đã đành,
Rồi ra lại gặp người Minh hung tạn
Chia phủ, huyện, đặt quân quan,
Cỏ cây đều phải lầm than hội này
Dòng Trần chưa dứt một dây,
Triệu Cơ còn rắp ra tay đồ hội
Lại phù Giản Định lên ngôi,
Cảnh Chân, Đặng Tất vua tôi hiệp tịnh
Mở cờ đánh với quân Minh,
Phá đồn Cổ lộng, đốt thành Bô cộ
Ví hay nhân thế tràng khu,
May ra khôi phục cơ đồ cũng nện
Trùng hưng cơ tự chưa bền,
Bỗng không đem kẻ tướng hiền giết đi,
Cho nên hào kiệt bạn ly,
Cánh vây không có, còn gì mà mỏng

4. Trần Trùng Quang chống Minh

Tướng môn lại có con dòng,
Đặng Dung, Cảnh Dị mới cùng hợp mựu
Một hai quyết chí đồng cừu
Cùng đem binh sĩ ruổi vào Chi lạ
Lại tìm dòng dõi Trần gia,
Tôn phù Quý Khoáng, ấy là Trùng Quạng
Đem binh vào phủ Thiên tràng,
Đón vua Giản Định về đàng Nghệ ạn
Cùng nhau gánh việc gian nan,
Hạ hồng tế ngựa, Bình than đỗ thuyện
Quân Minh cố giữ thành bền,
Bỗng đâu Trương Phụ băng miền lại sạng

5. Quân Minh chiếm toàn cõi Đại Việt

Từ khi Giản Định đầu hàng,
Nghệ an đất cũ Trùng Quang lại vệ
Quân Minh chiếm giữ Bắc kỳ,
Vua Trần lánh ở Nam thuỳ một nợi
Đặng Dung, Cảnh Dị mấy người,
Thế cùng dù có tướng tài cũng thụa
Trước sau mười bốn đời vua,
Một trăm tám chục xuân thu chưa chậy
Loạn cơ bởi tự ai gẩy
Quý Ly tiếm thiết tội dây muôn đợi
Chẳng qua lịch đổi, số dời,
Xui ra cho đứa gian hồi nhuốm tạy

6. Chính sách nhà Minh

Cốc lăng trời khéo đổi thay,
Giận riêng bờ cõi từ nầy thuộc Mịnh
Người trí thức, kẻ tài danh,
Nam sơn đào độn, Bắc đình câu lưu,
Thuế tơ, thuế thóc tham cầu,
Mỏ vàng mỏ bạc, trưng thâu cũng nhiều;
Săn bạch tượng, hái hồ tiêu,
Mò châu, cấm muối, lắm điều hại dận

xịv Nhà Hậu Lê (Thời kỳ thống nhất: 1418 - 1526)

1. Lê thái Tổ phá giặc Minh

Mới hay cơ tạo xoay vần,
Có khi bĩ cực đến tuần thái lại
Thiếu chi hào kiệt trong đời,
Non xanh nước bạc có người kinh luận
Lương giang trời mở chân nhân,
Vua Lê Thái tổ ứng tuần mới rạ
Lam sơn khởi nghĩa từ nhà,
Phong trần lắm lúc kể đà gian nguỵ
Lạc xuyên đầu giết Mã Kỳ,
Nghệ, Thanh một giải thu về bản chượng
Chia quân kinh lược mọi đường,
Hai kinh đã định, bốn phương cũng bịnh
Vương Thông bền giữ cô thạnh
Viện binh hai đạo Bắc đình tiếp sạng
Trời nam đã có chủ trương,
Mà cơ chế thắng miếu đường cũng tịnh
Chi lăng các đạo phục binh,
Liễu Thăng, Mộc Thạnh liều mình nẻo xạ
Vương Thông thế túng cầu hoà,
Quyền phong Trần Cảo gọi là Quốc vượng
Ngôi thiêng sao xứng tài thượng
Trần Công trẫm sát để nhường long phị

2. Nhà Lê kiến quốc

Thuận thiên niên hiệu cải đề,
Non sông mới thuộc về Lê từ rầy,
Quan danh, quân hiệu mới thay,
Bản đồ đổi lại huyện này, phủ kịa
Dựng nhà học, mở khoa thi,
Triều nghi, quốc luật một kỳ giảng tu
Mười năm khai sáng cơ đồ,
Sáu năm bình trị qui mô cũng tượng
Thái tông rộng mở khoa trường,
Lập bia tiến sĩ trọng đường tư vặn
Chín năm noi nghiệp cơ cần,
Viễn di mến đức, cường thần sợ uỵ
Tuổi xanh hoang túng nhiều bề,
Vườn xuân lắm lúc say mê vì tịnh
Đông tuần về đến Bắc ninh,
Riêng cùng Thị Lộ quên mình bởi ải
Nhân tông tuổi mới lên hai,
Quyền trong mẫu hậu, chính ngoài thần cộng
Mười năm một hội đại đồng,
Văn mô rạng trước, vũ công phục ngoại
Đánh Chiêm thành, cằt Bí cai,
Đổ bàn, Cổ luỹ các nơi hướng tiện

3. Lê Nghi Dân cướp ngôi

Diên ninh vừa độ trung niên,
Nhân tông tuổi cả mới lên ngự trạo
Nghi Dân cốt nhục nỡ nào,
Tiềm mưu đêm bắc thang vào nội cung
Mẹ con đương thủa giấc nồng,
Hồn tiên liều với gian hùng một tạy
Nghi Dân chuyên tiếm từ đây,
Lương tâm đã dứt, ác cai lại nộng
Đình thần nghị tội truất phong,
Rước Gia vương, ngự đền rồng cải nguyện

4. Thời kỳ toàn thịnh: Lê Thánh Tông

Thánh tông cốt cách thần tiên,
Lại thêm kinh thánh truyện hiền gia công,
Quốc âm, Đường luật tinh thông,
Thiên văn, toán pháp, binh nhung cũng tượng
Tài cao mại, đức thù thượng
Kiến văn đã rộng, thi trương cũng già,
Ba năm lại mở một khoa,
Tân hưng, đại tị theo nhà Thành Châu,
Nhạc âm, lễ chế giảng cầu,
Quan danh, phục sắc theo trào (triều) Đại Mịnh
Mở Quảng nam, đặt Trấn ninh
Đề phong muôn dặm uy linh ai bị
Kỷ công núi có Đá bia,
Thi văn các tập ' Thần khuê còn truyện
Thừa diêu lại có con hiền,
Hiến tông nhân thứ rạng nền tiền huỵ

5. Nhà Lê bắt đầu suy

Túc tông số lẻ vận suy,
Để cho Uy Mục thứ chi nối đợi
Đêm ngày tửu sắc vui chơi,
Tin bè ngoại thích hại người từ thận
Văn Lang xướng suất phủ quận
Thần phù nối áng phong trần một phượng
Giản Tu cùng phái ngân hoàng,
Vào Thanh hợp với Văn Lang kết thệ
Đem binh vây bức đô kỳ,
Quỷ vương khuất mặt, quyền về Trư vượng
Lại càng dâm ngược kiêu hoạng
Trăm gian, nghìn nóc, cung tường xa hoạ
Lại càng bác tước họ nhạ
Cành vàng lá ngọc đều là điêu lịnh

6. Loạn Trần Cảo và Trịnh Duy Sản

Phương ngoài Trần Cảo lộng binh,
Mà trong Duy Sản mống tình bạn quận
Đem binh vào cửa Bắc thần,
Bích câu một phút mông trần bởi ại
Giềng Lê khi đã đổi dời,
Mặc tay Duy Sản đặt người chủ trương
Đã tôn con Mục ý vương,
Lại mưu phù lập Chiêu hoàng cớ sảo
Thị thành vừa lúc xôn xao,
Lại đưa xa giá ruổi vào cõi Tây,
Lòng trời khử tật mới háy,
Giết Duy Sản lại mượn tay giặc Trận
Tướng tài còn có Trần Chân,
Nguyệt giang chống với giặc Trần mấy phen
Nguỵ Trần vào cứ Đồng Nguyên,
Truyền ngôi con cả, cải nguyên Tuyên hoà,
Cạo đầu vào cửa Thích già,
Y qui nương bóng Di đà độ thận

7. Chính quyền tan rã

Trời sinh ra hội phong trần,
Mạc Đăng Dung lại cường thần nổi lện
Trần Chân tay giữ binh quyền,
Trên ngờ thế cả, dưới ghen tài lành
Tiếc thay có tướng can thành,
Tin sàm mà nỡ dứt tình chẳng thạ
Vì ai gây gỗi oan gia,
Để cho Nguyễn Kính lại ra báo thụ
Kinh sư khói lửa mịt mụ
Xe loan ra cõi Bảo châu tỵ trận
Nguyễn Sư cũng đảng nghịch thần,
Nửa năm phù lập hai lần quốc vượng
Ngàn Tây một cõi chiến trường,
Phó cho Mạc suý sửa sang một mịnh

8. Mạc Đăng Dung chuyên quyền

Đăng Dung cậy có công danh,
Thuyền rồng, tán phượng lộng hành sợ chị
Chiêu Tông gặp lúc hiềm nghi,
Nửa đêm lén bước chạy về Tây phượng
Đăng Dung lập lại Cung hoàng,
Hành cung tạm trú Hải dương cõi ngoại
Xe loan về đến kinh đài,
Sẵn sàng thiền chiếu ép bài sách phọng
Hoạ tâm từ ấy càng nồng
Lương châu Tây nội cam lòng cho đạng

xv. Nhà Mạc (1527 1592)
1. Ngoại giao và nội chính của Mạc Đăng Dung

Mạc rầy rõ mặt tiếm cường,
Thăng long truyền nước, Nghi dương dựng nhạ
Dỗ người lấy vẻ vinh hoa,
Nhưng lòng trung nghĩa ai mà sá thẹo
Cầu phong sai sứ Bắc triều,
Dâng vàng, nộp đất nhiều điều dối Mịnh
Lê thần có kẻ trung trinh,
Trịnh Ngung sang đến Bắc đình tỏ kệu
Minh tham lễ hậu của nhiều,
Phụ tình trung nghĩa, quên điều thị phị
Đăng Dung thoả chước gian khi,
Tuổi cao rồi lại truyền về Đăng Doạnh
Mã giang đầu xướng nghĩa thanh,
Gần xa đâu chẳng nức tình cần vượng
Được thua mấy trận chiến trượng
Nghìn thu tiết nghĩa đá vàng lưu dạnh

 

 

2. Nguyễn Kim khởi nghĩa phù Lê

Cành Lê có độ tái vinh,
Xui nên tá mệnh trời sinh thánh hiện
Đức vua Triệu tổ ta lên,
Cất quân phù nghĩa giúp nền trung hưng,
Sầm châu ỷ thế nguồn rừng,
Mười năm khai thác mấy từng nước non,
Dù khi đỉnh tộ suy mòn,
Cương trù chưa nát vẫn còn tôn Lệ
Trang tông lưu lạc tìm về,
Chia binh Thuý đả, mở cờ Ai lạo
Lôi dương một trận binh giao,
Phá tan nghịch đảng tiến vào Nghệ an
Cỏ hoa mừng rước xe loan,
Thổ hào ứng nghĩa dân gian nức lòng,
Tây đô quét sạch bụi hồng,
Dặm tràng thẳng trỏ ngọn đòng tràng khu
Hẹn ngày vào tới Đông đô,
Một hai thu phục cơ đồ thủa xựa
Độc sao hàng tướng tiến dưa!
Trước dinh Ngũ trượng bỗng mờ tướng tịnh

3. Trịnh Kiểm tiến quân ra Bắc

Tiếc thay công nghiệp thuỳ thành,
Dể cho Trịnh Kiểm thay mình thống quân
Sáu năm vừa hội hanh truân,
Đỉnh hồ đâu đã đến tuần mây chẹ
Trung tông nhờ cậy dư uy,
Mạc thần mấy kẻ cũng về hiệu trụng
Biện dinh quân mạnh, tướng hùng,
Bốn phương hào kiệt nức lòng y quạng
Đông kinh trỏ ngọn việt vàng,
Phúc Nguyên Mạc chúa chạy sang Kim thạnh
Thần phù thuyền giã lênh đênh,
Lại còn Kính Điển đeo tình quấy trệu
Quan binh theo ngọn thuỷ triều,
Duyên giang một trận, nước bèo chảy tạn
Anh tông nối nghiệp gian nan,
Tây đô một giải giang san cõi nhạ
Mạc vào xâm nhiễu Thanh hoa,
Thái sư Trịnh Kiểm lại ra tiễu bịnh

4. Nguyễn Hoàng vào Hoá Châu

Hoá châu có đất biên thành,
Bốn bề sơn hải trời dành kim thạng
Trịnh công tâu với Lê hoàng,
Chọn người ra giữ một phương thành dại
Bản triều Thái tổ hùng tài,
Gióng cờ ra trấn cõi ngoài từ đậy
Việt mao khi đã đến tay,
Hoành sơn một giải mới gây cơ độ

5. Trịnh Mạc phân tranh

Mặt trong đành đã khỏi lo,
Trịnh công chuyên ý trì khu cõi ngoại
Quận Gia, quận Định mấy người,
Hưng, Tuyên binh hợp các nơi thêm dậy
Mạc dần suy yếu từ nay,
Vận Lê xem đã đến ngày trùng hạnh
Đem quân về giữ Tây kinh,
Bể Thanh lại lặng tăm kình như khộng
Nhân khi Mậu Hợp ấu trùng,
Mở đường Phố cát, qua sông Bồ đệ
Mạc vào, quân lại rút về,
Mạc lui, quân lại bốn bề kéo rạ
Tuyết sương trăm trận xông pha,
Trịnh Công vì nước cũng đà cần lạo

6. Trịnh Tùng chấp chính

Tuổi già vừa giải tiết mao,
Con là Trịnh Cối lại vào đổng nhụng
Kiêu hoang quen thói con dòng,
Binh quyền lại để Trịnh Tùng thay anh,
Cối, Tùng một gốc đôi cành,
Vinh khô đã khác, ân tình cũng khuê,
Anh em mâu thuẫn hai bề,
Thừa cơ Mạc lại kéo về nội xậm
Mạc lui, Tùng mới manh tâm,
Ngoài trương thanh thế, trong cầm quyền cượng
Lại mưu tàn hại trung lương,
Vàng đưa ngoài cửa, búa trương dưới mạn
Tạ tình phụ tấm niềm đan,
Đem Lê Cập Đệ giết oan nỡ nào!
Bằng không nổi trận ba đào,
Để cho xa giá chạy vào Nghệ ạn
Giá điền vừa mới hồi loan,
Lôi dương đã nổi tiếng oan giữa vợi
Thế tông con thứ nối đời,
Trịnh Tùng phù lập cùng loài giả dạnh

7. Trịnh Tùng diệt Mạc

Cõi ngoài giặc Mạc tung hoành,
Bắc hà cát cứ mấy thành nhân dận
Giáng uy nhờ có lôi thần,
Nhân khi Mậu hợp đến tuần thiên tru
Mạc thần mấy kẻ vũ phu,
Sao mai lác đác, lá thu rụng rợi
Xuất binh vừa gặp cơ trời,
Đường ghềnh len lỏi ra ngoài Thiên quạn
Tràng khu một lối duyên san,
Huyện châu gió lướt, Tràng an lửa nộng
Bỏ thành, Mạc chạy qua sông,
Đuổi sang Phượng nhỡn đường cùng mới thôi,
Kể từ Nguỵ Mạc tiếm ngôi,
Năm đời truyền kế sáu mươi năm chậy
Trần ai quét sạch từ rày,
Về kinh ban yến, tiệc bầy thưởng cộng

xvị Nhà Lê Trung hưng (Vua Lê Chúa Trịnh: 1593 1729)
1. Giao thiệp buổi đầu với Trung hoa

Mới sai sứ giả cầu phong,
Nghe gièm, Minh hãy còn lòng tin nghị
Sai quan hội khám một kỳ,
Phong làm Đô thống, cơ mi gọi là!
Phùng Khoan sứ tiết cũng già,
Biểu từ biện chiết thật đà thiết mịnh
Mấy lời ôn dụ đinh ninh,
Phong vương còn đợi biểu tinh có ngạy

2. Trịnh Tùng xưng chúa

Hổ lui, lang tới khéo thay!
Mạc kia vừa dẹp, Trịnh nầy lại lện
Tùng xem căn cứ đã bền,
Công danh càng thịnh, uy quyền càng cạo
Rỡ ràng ngọc sách, tinh bao,
Gia phong Nguyên suý, dự vào sủng chương
Bình an lại tiến tước vương,
Gầy nên tiếm thiết, mở đường khải dụ
Kính Tông còn độ ấu cô,
Đống lương ai kẻ xanh phù vạc Lể
Triều thần những lũ Bùi Khuê,
Lại tìm Mạc nghiệt theo về Kính Cụng
Nghi dương tro tắt lại nồng,
Thị thành nổi áng bụi hồng bởi ải
Nhân khi giá ngự ra ngoài,
Thừa hư Mạc lại vào nơi đô thạnh
Quan quân ra đánh lại bình,
Thặng dư mới phát tự Thanh ngự vệ
Chông gai tuy sạch mọi bề,
Mà trong quyền cả chuyên về một tạy
Bốn phương tai biến đã đầy,
Đầm khô, núi lở, cát bay mù trời
Chẳng qua trăm sự tại người,
Gẫm cơ hưu cữu biết đời thịnh suỵ
Súng đâu phục trước đường đi,
Để cho Trịnh chúa lại nghi Lê hoạng
Sinh con gặp đứa vô lương,
Châu liên sao nỡ quên đường quân thẩn

3
. Trịnh Tráng tăng quyền phủ chúa

Thừa gia theo lối cường thần,
Vua Lê, chúa Trịnh nhân tuần đã quen,
Thần tông vừa mới cải nguyên,
Sách phong Trịnh Tráng đã ban từ giợ
Thành đô quyền trọng hơn xưa,
Nhà Lê cũng một giải thừa mà thôi!
Nước nhà đang buổi yên vui,
Xin vua xuống chiếu truyền ngôi nhẽ gỉ
Chẳng qua là dạ gian khi,
Làm cho rõ mặt phúc uy tự nhạ
Chân Tông tuổi mới mười ba,
Hững hờ quyền chúa, ngôi cha mặc lọng
Quốc vương Minh mới cải phong,
Bảy năm lịch số vừa chung một đời
Xoay quanh mới tỏ đạo trời,
Báu thiêng đem lại cho người truyền gia
Thần tông thay giữ nghiệp nhà,
Thượng hoàng lại đổi mặt ra tân hoạng
Thờ ơ cờ đạo nhà vàng,
Chính quyền phó mặc Trịnh vương, biết gị
Nhà Minh thuở ấy đã suy,
Mượn binh lại sắp nhờ uy cường thận
Sắc phong chiếu dụ ân cần,
Phó vương Trịnh lại thêm phần tôn vịnh
Cả giầu sang, lớn quyền hành,
Giang sơn chung một triều đình chia đội

4. Trịnh Tạc đánh Nguyễn và Mạc

Tiếm phong, Trịnh Tạc nối ngôi,
Tước vương mình lại tài bồi cho cọn
Càn cương ngày một suy mòn,
Cuộc đời chìm nổi, ai còn hiệu trung,
Bản triều mở dấu Kỳ phong,
Thánh thần truyền dõi một lòng tôn Lệ
Quyền gian giận Trịnh nhiều bề,
Sắc sai Chiêu, Thuận khắc kỳ tiến chịnh
Sáu năm rồi mới bãi binh,
Luỹ dài còn dấu uy linh để truyện
Vận Lê còn buổi truân chuyên,
Huyền tông thơ ấu để quyền Tây vượng
Đẳng uy đã biến lễ thường,
Vào chầu không lạy, miếu đường có ải
Thiên nhan lại muốn sánh vai,
Giường ngồi đem đặt bên nơi ngự tiện
Dọc ngang dưới phủ trên đền,
Mống tình cải bộ gây nền tranh vượng
Vũ công lại muốn phấn dương,
Đem quân đánh Mạc lại sang Cao bịnh
Mạc vào cầu viện Yên kinh,
Phong làm Đô thống tung hoành cõi xạ
Bốn châu riêng một sơn hà,
Danh tuy phụ Hán, thực là thê Ngộ
Gia tông vừa nối cơ đồ,
Xe loan đã giục trì khu ra ngoại
Phòng biên đã có tướng tài,
Quân ta một trận, luỹ dài phá tan,
Mã đầu đã trở quy an,
Hà trung Trịnh lại đặt quan lưu độn

5. Trịnh Căn và nhà Thanh

Về nhà lập lại Trịnh Côn (Căn)
Nam vương theo lối quyền môn một dọng
Đêm ngày bí các thong dong,
Văn thần thay đổi vào trong chực hầu,
Quốc Trinh tham tụng ở đầu,
Bởi sao nên nỗi gây thù ưu bỉnh
Hy tông hoàng đệ thay anh,
Ngôi không luống giữ, quyền hành mặc ai!
Bấy lâu chiếm giữ cõi ngoài,
Hãy còn Mạc nghiệt mấy đời đến nạy
Di thư sang với Quảng tây,
Một lần hội tiễu từ này chạy xạ
Quân Thanh xâm chiếm đất ta,
Vị xuyên, Bảo lạc, Nà oa, Lộc bịnh
Thổ quan lại có tư tình,
Tham vàng đem giới kệ chuyển dị

6. Triều thần nhà Lê

Bên ngoài xâm tước nhiều bề,
Ở trong chính sự chỉnh tề được bảo
Lễ gì hơn lễ bang giao,
Mà cho quan thị đứng vào đầu bạn
Thế mà những kẻ cư quan,
Cũng đành ngoảnh mặt cho toàn tôn vịnh
Tại triều mấy kẻ trâm anh,
Nguyễn Đang, Đồng Trạch công thanh một đượng
Thế Vinh tài học ưu trường,
Nguyễn Hành, Hà Mục văn chương cũng giạ
Bởi ai thiên hạ âu ca,
Chẳng quan tham tụng Vãn hà là chỉ
Bởi ai thiên hạ sầu bi,
Chẳng quan tham tụng Lê Hy hãnh thẩn
Tính đi nghĩ lại xa gần,
Nhiều phần vì Trịnh, ít phần vì Lệ
Mồi giầu sang đã say mê,
Lấy ai chỉ trụ làm bia trong đời!

7. Những việc cải cách về thời Trịnh Cương

Dụ tông nối giữ ngôi trời,
Trịnh Cương chuyên chế theo loài cố gia
Lục phiên lại đặt tư nha,
Bao nhiêu tài phú đều là về tạy
Các quan trấn thủ mới thay,
Hưng Tuyên thống hạt từ rầy chia hại
Vũ thần mỗi trấn một người,
Để cho vững thế mặt ngoài phiên lỵ
Lấy năm điều khảo trấn ti,
Cứ trong điến tối mà suy hay hẹn
Thẩm hình đặt viện phủ tiền,
Sai quan tra kiện thay quyền pháp tị
Vũ khoa mới đặt phép thi,
Hỏi đường thao lược, thử nghề dao cụng
Ba trường phúc thí đã xong,
Đề danh tạo sĩ bảng rồng cũng vịnh
Kén thêm tứ trấn binh đinh,
Vệ quân mới đặt sáu dinh từ rậy
Công tư điền thổ xưa nay,
Sai quân khám đạc san tay dân cùng
Tuần hành có sứ khuyến nộng
Giữ gìn đê lộ, xét trong dân tịnh
Đem thư biện với nhà Thanh,
Mỏ đồng, mỏ kẽm lại giành về tạ
Lập bia trên Đổ chú hà,
Giới cương tự đó mới là phân mịnh
Qui mô cũng muốn sức bình,
Mà lòng lăng tiếm tự mình ra chỉ
Lập phủ đường ở Cổ bi,
Toan đem kinh quốc dời về cố hương
Đông cung đã lập Duy Tường,
Bỗng không lại đổi Duy Phường cớ sảo

xvịi Nhà Lê suy vi (Trịnh Nguyễn phân tranh: 1729 - 1782)

1. Chính sách đồi bại của Trịnh Giang


Trịnh Giang quen lối gian hạo
Truất ngôi Vĩnh Khánh hãm vào tội nhận
Thuần Tông đặt bỏ mấy lần,
Phúc uy mặc sức cường thần mới ghệ
Ý tông còn tuổi hài đề
Danh tuy chính thống , quyền về phó vượng
Trịnh càng dâm ngược kiêu hoang,
Đêm ngày luống những tham đường vui chợi
Dấu xe giong ruổi quanh trời,
Sửa sang cảnh Phật, vẽ vời động tiện
Quỳnh lâm, Hương hải, Hồ thiên ,
Của thiên hạ chất cửa thiền biết bảo
Kho tàng ngày một tiêu hao ,
Bán khoa, mua tước tiền vào sáu cung
Phó vương còn chửa cam lòng,
Thượng vương lại giả sắc rồng nhà Thạnh
Tội trời kể đã quánh doanh ,
Sao cho nghiệp báo đến mình mới thội
Bỗng đâu một tiếng thiên lôi ,
Thất kinh ngơ ngác như người chứng điện
Ở hang lại gọi cung tiên,
Để đoàn nội thụ chuyên quyền lộng uy .

2. Sự loạn lạc ở Bắc hà

Lòng người đâu chẳng bạn ly ,
Ếch kêu, ác họp thiếu gì gần xa!
Sơn nam có giặc Ngân già,
Nguyễn Cừ, Nguyễn Tuyển ấy là giặc Động
Sơn tây: nghịch Tế, nghịch Bồng ;
Động ngoài ba mặt, nhộn trong bốn bệ
Nằm hang Trịnh có biết gì!
Quận Bào, quận Thực đua bì tranh cộng

3. Trịnh Doanh và Lê Hiển tông

Phó vương quen lối nhà dòng,
Chẳng phò Trịnh thị sao xong việc đởi
Nguyễn công Quí Cảnh mấy người,
Vào trong định sách ra ngoài diệu binh .
Cùng nhau phù lập Trịnh Doanh,
Thái vương Trịnh lại tôn anh làm vị
Sai quan kinh lược bốn bề ,
Khải ca mấy khúc đều về tấu công .
Cơ mưu Trịnh cũng gian hùng,
Nghĩ mình chuyên tiếm ắt lòng ai ựa
Có Lê mới có đến giờ,
Phải cầu hiền đức để nhờ phúc chung .
Kìa người mắt phượng râu rồng,
Duy Diêu vốn cũng là dòng thần minh .
Hạ đài khuất bóng tiền tinh ,
Khuôn thiêng còn để một cành phúc chi .
Hay đâu cầu ứng cũng kỳ,
Bỗng xui Trịnh chúa tạm di ra ngoại
Vũ công một giấc hiên mai,
Mơ màng dường thấy phong tài đế vương .
Tinh kỳ nhã nhạc lạ nhường,
Thái bình nghi vệ rõ ràng chẳng ngoạ
Sáng mai vừa mới tỉnh ra,
Duy Diêu xảy đến chơi nhà lạ sảo
Thấy người mà nghiệm chiêm bao,
Mới hay trẫm triệu ứng vào tự nhiện
Nghe lời Trịnh mới phù lên,
Hiển tông từ ấy chịu truyền nối ngội

4. Trịnh Doanh và Trịnh Sâm dẹp loạn

Vận Lê đến lúc suy đồi,
Chắp tay rủ áo lặng ngồi mặc ại
Gặp khi nhiều việc chông gai,
Loạn trong Ba phủ, giặc ngoài bốn phương
Văn thần có kẻ phấn dương ,
Phạm công Đình Trọng gồm đường lược thao .
Phao sơn trỏ ngọn cờ đào,
Nguyễn Cừ đã phá, Nguyễn Cầu cũng tạn
Nguyễn Phương cứ Độc tôn sơn ,
Tuyên, Hưng là đất, lâm man là nhạ
Trịnh vương quyết chí xông pha,
Huyệt sào quét sạch, binh xa mới vệ
Quyền gian kế tập quen lề ,
Trịnh Sâm lại cũng sính nghề vũ cộng
Mạnh thiên hang thẳm núi cùng,
Hãy còn Hoàng Chất lâm tùng ẩn thận
Sai Đoàn Nguyễn Thục đem quân,
Cùng rừng săn thú một lần mới thanh .
Lại toan dẹp cõi Trấn ninh,
Chỉn e địa thế, dân tình chưa quẹn
Địa đồ ai khéo vẽ nên,
Thu ngoài man cảnh về bên khuyết đình .
Gần xa đã tỏ tình hình,
Mới sai chư tướng đề binh đánh liền,
Chiềng quang thành luỹ vững bện
Bồ chông núi cả cũng nên hiểm trợi
Biến đâu trửu dịch lạ đời!
Nửa đêm mở luỹ cho người tiến sạng
Bởi mưu Ngũ Phúc chiêu hàng
Nguyễn Thiều trong lại đem đàng nội công .
Vậy nên Duy Mật thế cùng,
Hoả viêm một phút cô dung cũng liệu

5. Trịnh Sâm đánh chúa Nguyễn

Cậy công Trịnh mới thêm kiêu,
Càng đầy đức sắc , càng nhiều ác cai ,
Vu oan nỡ đặt nên lời,
Để cho thái tử thiệt tài thông mịnh
Phúc uy chuyên tiếm một mịnh
Mạo giầy điên đảo , nghĩa danh còn gỉ
Thế mà vạc cả duy trì ,
Bởi tiên liệt thánh Nam Kỳ Nối ngội
Nền danh phận, đạo vua tôi,
Gian hùng mất vía đứng ngồi sao ạn
Bây giờ có giặc Tây san,
Ở trong lại có Phúc Loan lộng hành .
Thừa cơ Trịnh mới sai binh,
Đưa thư vào trước kể tình ngoại thân .
Rằng: " Toan trừ đứa lộng thần ,
Cùng nhau quét sạch bụi trần cõi Tây ."
Lá cờ theo ngọn gió bay,
Thừa hư trực để vào ngay nhà Hồ .
Phúc Loan đem lại hiến phù ,
Trịnh binh nhân thế tràng khu dưới thạnh
Đôi bên lập luỹ phân dinh,
Trầm than mấy trận quan binh hiểm nghẹo
Độ quân nó bắc phù kiều ,
Thuý hoa phất phới qua đèo Hải vận
Quảng nam đồn trú lục quân ,
Trong Tây ngoài Trịnh, xa gần với ải
Thuyền rồng vào bến Đồng nai,
Long hưng còn đợi cơ trời có khị

6. Trịnh Sâm hỏng mưu thoán đoạt

Gió thu lần úa cành Lê,
Ác bay chưa biết đỗ về nhà ại
Nguỵ Tây gắm ghé mặc ngoài,
Trịnh Sâm trong lại sai người cầu phọng
Vũ Trần Thiệu kể là trung,
Mặt tuy ứng mệnh , nhưng lòng vẫn kiện
Động đình xa vượt bè tiên ,
Trên trời dưới nước tấm nguyền sạch trọng
Biểu tiên phó ngọn đuốc hồng,
Ngậm cười thề với chén nồng , cho xuội
Làm cho vỡ mật gian hồi ,
Mà người chìm nổi trong đời thẹn riệng

7. Đặng Thị Huệ lộng quyền

Xoay vần hay có khuôn thiêng ,
Càng già cỗi ác, càng nghiêng sóng tịnh
Tuyên phi là gái khuynh thành ,
Đem bề ân ái chuyên vành phúc uỵ
Cướp quyền đích trưởng dựng bè đồng mông
Yêu cơ khí diễm càng nộng
Khiến nên Trịnh Khải sinh lòng âm mựu
E khi sự thế đáo đầu ,
Ước cùng các trấn đều vào giúp công
Điển thư có đứa hầu trong,
Tin lòng nên mới ngỏ cùng Ngô Nhâm .
Người sao chẳng chút lương tâm!
Khoa danh đã nhục, quan trâm cũng hoài!
Lòng riêng tham đắm mùi đời,
Phụ tình thầy tớ , cãi lời phụ thân
Quyết đem sự ấy củ trần ,
Làm cho Trịnh Khải một lần châu liện

xvịii Cuối đời nhà Lê (1783 - 1786)

1. Loạn kiêu binh ở kinh thành


Sâm già, Cán lại thiếu niên
Phó cho Hoàng Bảo giúp nên sao đảnh
Tuyên phi học thói buông mành,
Trong dưa dưới mận nhân tình đều nghị
Ở trong Khải mới thừa ky,
Ngoài quân ba phủ nhân khi lộng hành
Cùng nhau sáp huyết hội minh,
Trống hồi chửa dứt, các dinh đã vạo
Cửa thành binh lửa xôn xao,
Một cơn cỏ nội cá ao còn gì!
Cán vong, Khải lại tiếm vì,
Phủ binh từ ấy nhiều bề tuyên kiêu,
Hung hăng ngoài phố trong triều,
Phá nhà cướp của, dập dìu vào rạ
Đầy đường những tiếng oán ta,
Văn thần, võ tướng đều là bó tạy

2. Nguyễn Huệ ra Bắc lần thứ nhất

Tiến đồn nghe đến giặc Tây,
Tiềm mưu còn rắp đợi ngày xuất chịnh
Có tên Nguyễn Chỉnh tài danh,
Nhân khi tao loạn đem mình hàng Tậy
Cơ quan mưu lược vẽ bầy,
Cam lòng nước cũ, mượn tay người ngoại
Tây sơn biết tỏ một hai,
Chia quân thuỷ bộ quyết bài kéo rạ
Ngọn cờ trổ lối sơn pha,
Hải vân đồn trấn, đâu là chẳng tản
Cánh buồm đè lớp cuồng lan,
Cát dinh, Động hải quân quan chạy dại
Nguỵ Tây còn sợ mặt ngoài,
Rắp ngăn Tràng luỹ tính bài phân vương
Khéo đâu Chỉnh lại đưa đường,
Rằng: " Trong sự thế chi nhường cho ải
Tướng công uy nhức bên trời,
Này cơ phát trúc hẳn mười chẳng xạ
Bấy lâu họ Trịnh gian tà,
Binh kiêu, dân oán ắt là bại vọng
Uy trời ai giám tranh phong,
Hãy xin thừa thắng ruổi giong cõi ngoại"
Phải chăng Huệ mới nghe lời,
Lại cho Nguyễn Chỉnh, lĩnh bài tiên phọng
Lá buồm theo ngọn gió đông,
Vượt qua cửa bể vào sông Vị Hoạng
Quân dung, đâu mới lạ nhường!
Mão mao, áo đỏ chật đường kéo rạ

3. Chúa Trịnh Khải bị bắt

Bụi hồng mờ mịt kinh hoa,
Lục môn, Thuý ái gần xa tan tạnh
Quyết liều Trịnh mới thân chinh,
Tây luông giáp trận quân mình đảo qua
Nài voi toan trở lại nhà,
Cờ Tây sơn đã mở ra đầy thạnh
Qua Hạ lôi rắp lánh mịnh
Giữa đường gặp đứa phụ tình bắt rạ

4. Nguyễn Huệ trả quyền Lê Hiển tông

Nguỵ Tây vốn kẻ hung tà,
Còn e người chốn Bắc hà khó xọng
Phù Lê có biểu mật phong,
Mặt ngoài trung nghĩa, trong lòng gian phị
Hiển tông tuổi tác đã suy,
Nghe tin binh biến biết gì là đậu
Vừa khi Nguyễn Huệ vào hầu,
Vấn an lại kể gót đầu đinh nịnh
Rằng: " Nghe họ Trịnh cường hoành,
Vậy đem quân nghĩa quét thanh bụi trận
Chủ trương mừng thấy đông quận
Thái bình cây cỏ được nhuần hơi mựa"
Phúc lành chúc chữ cửu nhự
Của tin mấy quyển đồ thư dâng vào,
Bệ rồng ban chiếu tinh bao,
Gia phong Nguyễn Huệ đương trào quốc cộng
Ngọc Hân vừa trạc đào hồng,
Ép duyên kim cải kết lòng sài lang,
Đương cơn đòng bác ngổn ngang,
Thực hư chưa tỏ, biến thường ai tịn
Hơi tàn gần trở gót tiên,
Lại vời Nguyễn Huệ gửi quyền quốc giạ
Một hai xin trở về nhà,
Bóng đèn, tiếng búa giám là di duyện

5. Quân Tây sơn rút về Nam

Bảo thành kinh lý đã yên,
Ngôi cao phó lại cháu hiền thừa giạ
Duy Kỳ nối giữ nghiệp nhạ
Cải nguyên Chiêu thống mới là sơ niện
Huệ còn lưu ở Long biên,
Anh là Nguyễn Nhạc theo miền lại rạ
Rước mời ngày tiếp đôi ba,
Bệ từ, Nhạc mới lân la tự tình
" Đất, dân đâu cũng triều đình,
Giao lân rồi sẽ cất mình Nam quị"
Nửa đêm ám hiệu cuốn kỳ
Bao nhiêu tài hoá chuyên về sạch khộng
Bỏ Nguyễn Chỉnh ở Thăng lọng
Cũng toan cắt cánh mở lồng với ại
Về quê Chỉnh mới giả bài,
Rằng vâng mật chỉ hồi sai đất nhạ
Mộ quân hương dõng đem ra,
Ngoài là chống giặc, trong là giữ kịnh

6. Triều đình vua Lê Chiêu Thống

Cựu thần mấy kẻ công khanh,
Thoái hưu để việc miếu đình mặc ải
Tân khoa còn có một hai,
Bùi Dương, Trần Án cũng người trung trịnh
Cùng nhau phụng sắc triệu binh,
Thổ hào củ tập vào kinh hộ tuỵ
Phân vân tranh lập nhiều bề,
Kẻ phò Trịnh Lệ, người suy Trịnh Bộng
Yến đô lại cứ tập phong,
Những mưu phò Trịnh, quên lòng tôn Lệ
Mậu Xưng, Tích Nhưỡng kể chi,
Phùng Cơ còn biết thị phi nhẽ thương,
Trách thay Trọng Tế họ Dương,
Cũng trong khoa bảng, cùng phường đai cân
Sao không biết nghĩa quân thần
Bầy mưu phế lập sắp quân vây thạnh
Non sông còn mặt triều đình,
Bạc đen xem thấy nhân tình mà ghệ

7. Nguyễn Hữu Chỉnh chuyên quyền

Lê hoàng căm giận nhiều bề,
Mật thư sai sứ đưa về Nghệ ạn
Chỉnh xưa tuy giả mưu gian,
Được thư rầy mới nở gan anh hụng
Hịch bay đâu cũng nức lòng,
Tứ thành Tứ đột quân ròng hơn muôn,
Dặm trường thẳng ruổi chinh an
Nghệ, Thanh quét sạch mấy đoàn kiến ong,
Yến đô sức yếu thế cùng,
Theo Dương Trọng Tế qua vùng Bắc nịnh
Đại quân tiến đến kinh thành,
Long tân ngự duyệt, đại đình thưởng cộng
Loan thư ban trước thềm rồng
Cha phong Bằng quận, con phong tước hậu
Trăm quan ngôi thứ ở đầu,
Cánh vây sum họp, phủ lầu nghênh ngạng

xịx Nhà Nguyễn Tây Sơn (1787 - 1802)

1. Quân Tây sơn ra Bắc lần thứ hai

Bốn phương lại động khói lang,
Nguỵ Tây riêng mặt bá vương một trời,
Nhạc, Qui Nhơn; Lữ, Đồng nai;
Quảng Nam, Nguyễn Huệ; trong ngoài chia nhạu
Nhân cơ lại dấy qua mâu,
Văn Nhâm vâng lệnh quân phù kéo rạ
Qua Nghệ an, đến Thanh hoa,
Thổ sơn giáp trận Trinh hà áp bịnh
Giặc ra đến đất Ninh bình,
Chỉnh đem hai vạn tinh binh quyết liệu
Một đêm thuyền trái buồm xiêu,
Vì con sơ suất, đền điều thua cộng

2. Lê Chiêu Thống chạy dài

Văn Nhậm kéo đến Thăng long,
Lê Hoàng thảng thốt qua sông Nhị hạ
Bắc ninh cũng đất dân nhạ
Bạc thay Cảnh Thước sao mà bất nhân!
Nỡ nào quên nghĩa cố quân
Đóng thành không rước, sai quân cướp đượng
Ngự bào cũng nhuộm mầu sương,
Nguyệt giang, Mục thị nhiều đường gian nguỵ
Tây binh thừa thế cùng truy,
Cha con Nguyễn Chỉnh một kỳ trận vọng
Bắt phu canh giữ bên sông,
Kìa Dương Đình Tuấn cũng mong phù trị
Chước đâu phản gián mới kỳ,
Để cho xa giá chạy về Chí lịnh
Vội vàng chưa định hành dinh,
Mà Đinh Tích Nhưỡng nỡ tình đuổi theo!
Giải vây lại có thổ hào,
Lũ Hoàng Xuân Tú cũng đều cần vương,
Thừa dư vừa đến Thuỷ đường,
Kẻ về tấu tiệp, người sang đầu thạnh
Bỗng đâu thuyền bạt vào Thanh,
Nước non man mác, quân tình ngẩn ngợ

3. Nguyễn Huệ đặt chức Giám quốc ở Bắc hà

Văn Nhâm tự ấy lại giờ,
Vỗ về sĩ tốt, đợi chờ chúa cộng
Huệ sao tàn nhẫn cam lòng,
Một gươm nỡ quyết chẳng dong tướng thận
Mới đòi hào mục xa gần,
Xem nhân tình có mười phần thuận khổng
Nguyễn Huy Trạc cũng hào hùng,
Một thang tiết nghĩa quyết lòng quyên sịnh
Biết thiên hạ chẳng thuận tình,
Lập người giám quốc đem binh lại vệ

4. Quân nhà Thanh sang nước ta

Lê Hoàng truân kiển nhiều bề,
Mẹ con cách trở biết về nơi đẩu
Thái từ lạc tới Long châu,
Thổ quan dò hỏi tình đầu thuỷ chụng
Cứ lời đạt đến Quảng đông,
Gặp Tôn Sĩ Nghị cũng lòng mục lân,
Một phong biểu tấu chín lần,
Càn long có ý ân cần vì Lệ
Đền rồng ban ấn tử nê,
Đem quân bốn tỉnh trao về một tạy
Nam quan thẳng lối đường may,
Tắt qua trấn Lạng, sang ngay sông Cậu
Tập công phá trại Nội hầu,
Theo đường Kinh bắc, tới đầu Nhị giạng
Rượu trâu đâu đã sẵn sàng,
Vua Lê mừng thấy đón đàng khao bịnh
Tôn công quân lệnh túc thanh,
Tơ hào chẳng phạm, tấm thành cũng phu
Qua sông mới bắc cầu phù,
Tây luông quân đóng, Đông đô ngự vạo
Quốc vương sẵn ấn tay trao,
Truy tuỳ thưởng kẻ công lao nhọc nhặn

5. Triều đình thời Lê mạt

Bao nhiêu hào kiệt xa gần,
Đua nhau đều đến cửa quân đầu thầm
Xưa sao vắng vẻ hơi tăm!
Rầy sao hiệp lực đồng tâm lắm người!
Viêm lương mới tỏ thói đợi
Dạ trong đã chán, mặt ngoài cũng khịnh
Song mà ỷ thế nhà Thạnh
Thờ ơ với kẻ nước mình mặc ai!
Cơ mưu những chắc lưng ngượi
Để cho đất nước trong ngoài mất trông!

6. Quang Trung đại phá quân Thanh

Quân Thanh đã được Thăng long,
Một hai rằng thế là xong việc mịnh
Dùng dằng chẳng chịu tiến binh,
Nhác đường phòng thủ, mống tình đãi hoạng
Nguỵ Tây nghe biết sơ phòng,
Giả điều tạ tội, quyết đường cất quận
Dặm tràng nào có ai ngăn,
Thừa hư tiến bức đến gần Thăng lọng
Trực khu đến luỹ Nam đồng,
Quan Thanh dẫu mấy anh hùng mà đảng
Vua Lê khi ấy vội vàng,
Cùng Tôn Sĩ Nghị sang đàng Bắc kịnh
Qua sông lại sợ truy binh,
Phù kiều chém dứt, quân mình thác oạn

7. Cuộc lưu vong của Lê Chiêu thống

Ngẩn ngơ đến ải Lạng sơn,
Theo sau còn có quân quan mấy ngượi
Cầm tay Sĩ Nghị than giài,
Vì mình kiển bộ nên người luống công,
Nhẽ đâu lại giám bận lòng,
Xin về đất cũ để mong tái độ
Tôn công cũng có tiên trù,
Đã dâng một biểu xin cầu viện bịnh
Quế lâm còn tạm trú mình,
Bỗng đâu nghe chiếu nhà Thanh triệu vệ
Phụng sai có sứ hộ tuỳ,
Sự đâu lại gặp những bề trở nạn
Sứ thần là Phúc Khang An,
Đã e xa cách, tại toan dối lựa
Dần dà ngày tháng thoi đưa,
Lê hoàng luống những đợi chờ Yên kịnh
Tấc gang khôn tỏ sự tình,
Dẽ xem xon Tạo giúp mình hay khổng
Từ khi tam phẩm gia phong,
Mới hay Thanh đế cam lòng thế thôi!
Lỡ làng đến bước xa xôi,
Nhưng trong đạo chúa nghĩa tôi chẳng dợi
Lê Hân, Lê Quýnh mấy người,
Như Tòng, Ích Hiểu cũng lời thệ minh,
Tòng vong đều kẻ trung trinh,
Mã đồng khen cũng có tình tôn quận
Vua Lê phút lánh cõi trần,
Non sông cách diễn mấy lần xa xa,
Bình Tây nhờ Thánh triều ta,
Kẻ gần an chốn, người xa tìm về,
Sang Thanh mấy kẻ theo Lê,
Còn ai cũng động lòng quê ngậm ngụi
Vận Lê đến thế là thôi,
Ba trăm sáu chục năm rồi còn chỉ

8. Tổng kết

Mới hay có thịnh, có suy,
Hang sâu, núi cả có khi đổi dợi
Trước sau tính lại trăm đời,
Có trời, có đất, có người chủ trượng
Khai tiên là họ Hồng Bàng,
Thuỵ thay, Triệu đổi thường thường suy di,
Rồi ra hợp hợp chia chia,
Trải Đinh, Lê, Lý, Trần, Lê mấy đời,
Thiếu chi chuyện vãn đầy vơi!
Hiếm điều đắc thất, hiếm người thị phi!
Lại còn nhiều việc tín nghi,
Sự muôn năm cũ chép ghi rành rạnh
Bút son vâng mệnh đan đình,
Gác lê lần giở sử xanh muôn đợi
Chuyện xưa theo sách diễn lời,
Phải chăng xin đã gương Trời rạng sọi

Hội Khoa Học Lịch Sử Bình Dương


Các tin khác
Một nét Bình Dương Một nét Bình Dương Một nét Bình Dương Một nét Bình Dương Một nét Bình Dương Một nét Bình Dương Một nét Bình Dương
Thống kê
Lượt truy cập: 24934883