Kiến thức lịch sử chung

Câu chuyện triết học

  • Trí Hải và Bửu Đích
  • 25/07/2012

Nha Tu Thư và Sưu Khảo Viện Đại Học Vạn Hạnh (1971)

Nguyên tác : The Story of Philosophy - Will Durant

Trí Hải và Bửu Đích dịch

Chương 1

PLATON

 1. BỐI CẢNH:

Nếu bạn nhìn vào một bản đồ của Âu châu, bạn sẽ thấy rằng Hy Lạp giống như một bàn tay chìa các ngón ra biển Địa trung hải. Phía nam là hòn đảo Crète hình như nằm gọn trong các ngón tay, ngàn năm trước Tây lịch (tTL) đó là nơi khởi đầu của văn minh nhân loại. Về phía đông là lãnh thổ thuộc về Á châu tuy ngày nay có vẻ lạc hậu nhưng dưới thời Platon là một lãnh thổ rất trù phú với một nền thương mãi, kỹ nghệ cực thịnh và một nền văn hoá phong phú. Về phía tây là nước Ý giống như một toà lâu đài ở giữa biển, các đảo Sicile và nước Y-pha-nho (Tây Ban Nha). Tại những nơi đó có những nhóm người Hy lạp sinh sống; cuối cùng là xứ Gibraltar, nơi đầy nguy hiểm cho các thuỷ thủ mỗi khi muốn vượt eo biển này. Về phía bắc là những xứ man rợ nhưThessaly, Epirus và Macédonie. Từ những xứ ấy nhiều bộ lạc xuất phát và mở những cuộc tấn công về phía nam, những trận đánh do những văn nhân Hy lạp như Homère kể lại mà những chiến sĩ như Périclès chỉ huy. Hãy nhìn một lần thứ hai vào bản đồ, bạn sẽ thấy nhiều chỗ lồi lõm ở bờ biển và núi đồi trong đất liền, đâu đâu cũng có những vịnh nhỏ và những mỏm đá trồi ra biển. Nước Hy lạp bị chia cắt và cô lập bởi những chướng ngại thiên nhiên đó. Sự đi lại và liên lạc ngày xưa khó khăn hơn bây giờ rất nhiều. Do đó mỗi vùng tự phát triển lấy nền kinh tế, tự thành lập lấy nền hành chánh chính trị, tự phát huy tôn giáo, văn hoá và ngôn ngữ của mình. Những quốc gia như Locris, Etolia, Phocis, Béothia v.v.

Hãy nhìn vào bản đồ một lần thứ ba và quan sát vị trí của tiểu quốc Athènes: đó là một tiểu quốc nằm về phía cực đông của Hy lạp. Đó là cửa ngõ của Hy lạp để giao thiệp với các quốc gia thuộc vùng Á châu, đó là cửa ngõ để Hy lạp thu nhận những sản phẩm và ánh sáng văn hoá từ bên ngoài. Ở đây có một hải cảng rất tiện lợi, hải cảng Pirus, rất nhiều tàu bè đến trú ẩn để tránh những lúc sóng to gió lớn. Ngoài ra Pirus còn là nơi xuất phát một hạm đội chiến tranh hùng mạnh.

Vào khoảng năm 490 trước Tây lịch, hai tiểu quốc Sparte và Athènes quên mối hận thù để hợp lực cùng nhau đánh đuổi quân xâm lăng Ba Tư lăm le biến Hy lạp thành một thuộc địa của mình. Trong cuộc chiến tranh này, Sparte cung cấp lục quân và Athènes cung cấp thuỷ quân. Khi chiến tranh chấm dứt, Sparte giải ngũ quân đội và chịu sự khủng hoảng kinh tế do sự giải ngũ này sinh ra. Trong khi đó thì Athènes khôn ngoan hơn, biến hạm đội tàu chiến thành một hạm đội tàu buôn và trở nên một nước buôn bán giàu mạnh nhất thời thượng cổ. Sparte điêu tàn trong nghề canh nông và bị cô lập với thế giới bên ngoài, trong khi Athènes trở nên thịnh vượng và là một nơi giao điểm của nhiều chủng tộc, nhiều nguồn tư tưởng, văn hoá, sự chung đụng nảy sinh sự so sánh, phân tích và suy nghiệm.

Những truyền thống, lý thuyết gặp gỡ nhau, chống đối nhau, tự đào thải nhau và được cô đọng lại. Trong khi có hàng ngàn tư tưởng chống đối nhau, người ta có khuynh hướng hoài nghi tất cả những tư tưởng ấy. Có lẽ những thương gia là những người nhiều hoài nghi nhất vì họ thấy quá nhiều, bị tuyên truyền quá nhiều, họ có khuynh hướng coi người khác nếu không phải là những người ngu thì cũng là những người lưu manh, họ hoài nghi tất cả những nguồn tư tưởng. Theo với thời gian họ phát triển khoa học; toán học nảy sinh nhờ sự giao hoán, thiên văn học nảy sinh với nhu cầu hàng hải. Với sự phát triển nền kinh tế, con người có nhiều thì giờ nhàn rỗi, được hưởng nhiều tiện nghi trong một không khí trật tự và an ninh. Đó là những điều kiện tiên quyết để nghiên cứu và suy tư. Người ta nhìn vào các ngôi sao trên trời không những để tìm phương hướng cho chiếc tàu đang lênh đênh trên mặt biển mà còn để tìm bí mật của vũ trụ: những triết gia Ha lạp đầu tiên là những nhà thiên văn. Aristote nói rằng sau khi thắng cuộc chiến tranh, các người Hy lạp tìm cách phát huy chiến quả và mở rộng nỗ lực vào nhiều lãnh vực khác. Người ta cố tìm những lời giải đáp cho những bài toán trước kia được giao phó cho các thần linh quản trị, những tế lễ tà thuyết nhường bước cho khoa học, triết lý bắt đầu từ đó.

Khởi đầu triết lý là một môn học có tính cách vật lý, người ta quan sát thế giới hữu hình với hy vọng tìm thấy yếu tố khởi thuỷ của tất cả vạn vật. Một lối giải đáp tự nhiên là thuyết duy vật của Démocrite (460 - 360 tTL). Démocrite nói rằng: "trong vũ trụ chỉ có nguyên tử và hư không", đó là nguồn tư tưởng chính của Hy lạp, người ta lãng quên nó trong một thời gian nhưng nó lại được sống dậy với tư tưởng của Epicure (342-279 tTL) và Lucrèce (98-55 tTL). Tuy nhiên khía cạnh quan trọng nhất và đặc sắc nhất của nền triết học Hy lạp được thể hiện trong tư tưởng của những nguỵ luận gia đó là những người đi lang thang rày đây mai đó để tuyên truyền cho chủ nghĩa của mình, họ gắn bó với tư tưởng của mình hơn tất cả mọi vật trên đời. Phần đông họ là những người rất thông minh hoặc rất thâm thuý, họ bàn cãi về tất cả những vấn đề mà người đương thời thắc mắc, họ đặt câu hỏi cho tất cả các vấn đề, họ không sợ đụng chạm đến các tôn giáo hoặc các tư tưởng chính trị của các vua chúa, họ mạnh dạn chỉ trích tất cả các định chế xã hội hoặc lý thuyết chính trị trước công luận. Về mặt chính trị họ được chia làm hai phái. Một phái giống như Rousseau cho rằng thiên nhiên là tốt, văn minh xã hội là xấu, trong thiên nhiên tất cả mọi người đều bình đẳng và con người trở nên bất bình đẳng với các định chế xã hội, luật lệ là những phát minh của những kẻ mạnh để trói buộc và thống trị kẻ yếu. Một nhóm khác giống như Nietzsche cho rằng thiên nhiên vượt ra ngoài phạm vi của cái xấu và cái tốt, trong thiên nhiên con người đã mất bình đẳng, luân lý là một phát minh của kẻ yếu để giới hạn và doạ nạt kẻ mạnh, sức mạnh là nền đạo đức tối thượng và sự ao ước tối thượng của con người, và chế độ chính trị cao đẹp nhất hợp thiên nhiên nhất là chế độ quý tộc.

Sự tấn công tư tưởng dân chủ là phản ảnh của sự thịnh vượng của một nhóm người giàu có ở Athènes họ tự lập một đảng gọi là lực lượng những người ưu tú. Đảng này chỉ trích tư tưởng dân chủ là vô hiệu lực. Thật ra cái dân chủ mà họ chỉ trích khác xa cái dân chủ mà chúng ta quan niệm ngày hôm nay. Trong số 400 ngàn dân của Athènes, đã có 250 ngàn thuộc vào hạng nô lệ bị tước đoạt tất cả quyền chính trị, trong số 150 ngàn người còn lại chỉ có một thiểu số được đại diện tại quốc hội để bàn cãi và quyết định về các vấn đề của quốc gia. Tuy nhiên cái nền dân chủ còn lại đó là một nền dân chủ có thể nói là hoàn hảo nhất từ xưa đến nay. Quốc hội có quyền tối thượng và là cơ quan tối cao của quốc gia, tối cao pháp viện gồm trên 1000 thẩm phán (để làm nản lòng những kẻ hối lộ), số thẩm phán này được tuyển chọn theo thứ tự ABC trong danh sách của toàn thể công dân. Không một chế độ chính trị nào dám thực hành tư tưởng dân chủ đi xa đến mức độ ấy.

Trong cuộc chiến tranh giữa Sparte và Athènes (430 - 400 tTL) lực lượng các người ưu tú của Athènes do Critias lãnh đạo, chủ trương nên bãi bỏ chế độ dân chủ vì cho đó là mầm mống của cuộc chiến bại và thành lập một chính thể giống như chính thể quý tộc của thành Sparte. Kết quả là nhiều lãnh tụ của lực lượng bị lưu đày. Sau khi chiến tranh chấm dứt với sự đầu hàng của Athènes, một trong các điều kiện đình chiến là phải đại xá cho những người trong lực lượng bị lưu đày. Những người này tôn Critias làm minh chủ và lăm le đảo chánh để thành lập một chính phủ của lực lượng ưu tú. Cuộc đảo chánh thất bại, Critias tử trận. Critias là môn đệ của Socrate và có họ hàng với Platon.

 

2. SOCRATE

Nếu chúng ta suy xét trong khi ngắm bức tượng bán thân của Socrate còn sót lại trải qua bao nhiêu điêu tàn hoang phế thì ta sẽ nhận thấy rằng Socrate có một diện mạo không đẹp đẽ gì. Một cái đầu hói, cái mặt lớn và tròn, một cặp mắt sâu và nhìn thẳng, lỗ mũi lớn ... Cái mặt đó làm ta liên tưởng đến một người gác cổng hơn là một triết gia danh tiếng vào bậc nhất. Nhưng nếu nhìn lại lần thứ hai ta sẽ thấy rằng, qua những nét khắc trong đá, một cái gì hoà nhã và bình dị thoát ra từ bộ mặt đó, những nét ấy đã làm cho Socrate được hầu hết các thanh niên thành Athènes kính mến. Ta biết rất ít về Socrate, nhưng đồng thời ta hiểu Socrate hơn triết gia có vẻ quý phái như Platon hoặc thông thái như Aristote. Sau hơn hai ngàn năm, ta còn mường tượng được hình dáng của Socrate với chiếc áo choàng thụng thịnh bước từng bước khoan thai trước các đền thờ, tâm tư hoàn toàn không bị ảnh hưởng bởi các biến cố chính trị. Ông tụ họp những thanh niên và những học giả xung quanh mình vào những nơi có bóng mát trước cửa các đền thờ để cùng nhau đàm đạo.

Những người đi theo Socrate thuộc rất nhiều thành phần khác nhau, chính những người này đã tạo nên nền triết lý tây phương. Có những người con nhà giàu như Platon và Alcibiade, họ thích lối chỉ trích chế độ dân chủ của Socrate, cũng có những kẻ về phe xã hội chủ nghĩa ưa thích nếp sống nghèo nàn của Socrate và cho đó là một dấu hiệu của sự thánh thiện, cũng có những kẻ chủ trương diệt trật tự như Aristippe, họ chủ trương một xã hội không có nô lệ cũng không có chủ nô lệ, tất cả đều sống tự do và không lo lắng như chính Socrate. Tất cả những vấn đề làm con người suy nghĩ và làm cho những thiếu niên bàn cãi suốt ngày đều được đem ra mổ xẻ trong cái nhóm nhỏ ấy, họ tin tưởng một cách thành thật rằng nếu cuộc đời mà không có bàn luận về triết lý thì đó là một cuộc đời không đáng sống. Trong nhóm nhỏ ấy hầu hết các nguồn tư tưởng của nhân loại đều được đại diện.

Socrate làm gì để sống ? Ít ai biết đến. Ông không bao giờ làm việc, không bao giờ nghĩ đến ngày mai. Ông ăn khi nào có người mời, có lẽ người ta rất thích mời ông vì xem ra ông cũng béo tốt phương phi như ai. Đối với vợ con thì ông ta không được hoan nghênh lắm. Theo Xanthippe, Socrate là một kẻ du thủ du thực chỉ đem về cho gia đình một ít tiếng tăm mà không bao giờ đem về tiền bạc hoặc lương thực. Xanthippe cũng thích đàm đạo như Socrate, những cuộc đàm đạo này, rũi thay, không được lưu truyền. Nhưng chúng ta biết rằng bà ta yêu Socrate và rất đau buồn trước cái chết của người bạn tinh thần.

Tại sao những môn đệ kính mến Socrate đến thế ? Có lẽ tại rằng Socrate là một người trước khi là một triết gia: ông đã khinh thường gian nguy để cứu Alcibiade trong vòng tên đạn khói lửa, ông có tửu lượng rất khá, không từ chối mà cũng không đi đến chỗ say sưa. Nhưng điều làm người ta yêu thích Socrate nhất có lẽ là sự khiêm nhượng của ông ta: ông không tự cho rằng mình hiểu triết lý, ông chỉ đi tìm triết lý, ông là người thích triết lý, không phải là triết gia nhà nghề. Một câu sấm tại đền Delphe cho biết rằng Socrate là người thông minh nhất của xứ Hy lạp. Socrate cho rằng câu sấm này ám chỉ đến thuyết bất tri của ông ta: "Tôi chỉ biết một điều, đó là tôi không biết gì hết". Triết lý bắt đầu khi người ta biết hoài nghi, nhất là hoài nghi những niềm tin của chính chúng ta. Biết đâu rằng chính những niềm hy vọng ao ước thầm kín, những khao khát đã trở thành những niềm tin đối với chúng ta ? Biết đâu rằng những tư tưởng có vẻ khách quan chỉ là những niềm ước vọng trá hình. Sẽ không có triết lý nếu chúng ta không chịu khó đi một vòng quanh và quan sát lại chính chúng ta: "Hãy tự biết mình !" Socrate nói thế.

Trước Socrate cũng đã có nhiều triết gia. Những người với lý luận đanh thép như Thalès và Héraclite, tế nhị như Parménide và Zénon, sâu sắc như Pythagore và Empedocle. Nhưng phần nhiều những người ấy là những triết gia hướng về vật lý, họ tìm bản thể của sự vật định lý và yếu tố của thế giới bên ngoài. Những nỗ lực ấy rất đáng khen, Socrate nói, nhưng có một điều vô cùng quý giá hơn những cây cỏ, sông núi, trăng sao, đó là con người. Con người là gì, và con người sẽ đi đến đâu ?

Rồi từ đó ông chuyên chú vào tâm hồn con người, tìm hiểu những định lý, hoài nghi những tư tưởng sẵn có. Người ta thường nói đến hai chữ công bằng, Socrate liền hỏi công bằng là gì ? Anh hiểu gì về hai chữ ấy, tại sao anh dám đem hai chữ ấy để giải quyết vấn đề sống chết của đồng loại ? Danh dự là gì ? Đạo đức là gì ? Bản ngã của anh là gì ? Đó là những vấn đề đạo đức và tâm lý mà Socrate thường tự hỏi. Có những người lấy làm khó chịu về phương pháp của Socrate, một phương pháp đòi hỏi những định nghĩa chính xác, những tư tưởng minh bạch, những phân tích xác đáng. Họ cho rằng Socrate hỏi nhiều hơn trả lời và làm rối trí con người nhiều hơn sau khi đã thụ huấn với ông. Tuy nhiên Socrate đã để lại cho triết học hai câu trả lời minh bạch cho hai bài toán khó khăn nhất của chúng ta: Đạo đức là gì? Quốc gia tốt đẹp nhất là gì ?

Không một vấn đề nào thiết yếu hơn những vấn đề trên. Những nguỵ luận gia đã làm tan rã sự tin tưởng của đám thanh niên thành Athènes đối với các vị thần thánh và những điều khoản luân lý căn cứ vào sự thưởng phạt của các vị thần thánh, bây giờ không có lý do nào kềm giữ họ trong các hành vi của họ nếu không bị pháp luật ràng buộc. Một chủ nghĩa cá nhân lan tràn và làm suy yếu đức tính của người Athènes khiến cho nước này trở nên một món mồi ngon của liên bang Sparte. Về phương diện chính trị, thuyết dân chủ cực đoan đã làm say mê dân Athènes cũng đem đến nhiều điều bất tiện. Quá nhiều quyền hành đã được giao cho quốc hội, các cuộc bầu cử được tổ chức quá vội vàng, người có trách nhiệm như các tướng lãnh đã được tấn phong và cách chức một cách quá dễ dàng, sự chỉ định những nông phu, thương gia làm thẩm phán trong tối cao pháp viện theo thứ tự ABC là những yếu tố làm tan rã một nền hành chính và chính trị vững mạnh. Làm thế nào để thiết lập một nền đạo đức mới, làm thế nào để cứu vãn tình trạng suy đồi của quốc gia do các định chế dân chủ cực đoan gây nên ?

Chính vì trả lời cho các câu hỏi trên mà Socrate đã nhận lấy cái chết và đồng thời trở nên bất tử. Phái thủ cựu có lẽ sẽ thương tiếc ông ta nếu ông lên tiếng bênh vực lối thờ phượng đa thần của ngày xưa, nếu ông xúi giục các môn đệ của ông đến các nơi thờ phượng và dâng lễ cúng cho những đấng thần linh ngày trước. Trái lại, Socrate cho rằng làm như vậy tức là đi ngược với nền tiến triển của nhân loại, đó là một sự tiến tới diệt vong. Ông chủ trương rằng chỉ có một đấng tối cao mà thôi, nhưng ông lại cho rằng một nền đạo đức thực tiễn không thể căn cứ vào một giáo lý mơ hồ, ta có thể tạo dựng một nền luân lý hoàn toàn không lệ thuộc thần học, hoàn toàn thích hợp với người có tôn giáo cũng như không có tôn giáo thì xã hội có thể được ổn định mà không cần đến thần học.

Nếu có ai nhận thức rằng con người tốt là con người thông minh, con người đức hạnh là con người khôn ngoan, nếu họ nhận thức được đâu là quyền lợi chính đáng, thấu triệt được luật nhân quả, kiểm soát được lòng ham muốn để khỏi cảnh hỗn độn tự diệt và đi đến một xã hội có kỷ cương, thì họ đã nắm được cái tinh hoa của nền luân lý, họ không cần dựa theo lời răn dạy của thần học hay những điều ngăn cấm khác.

Tất cả tội lỗi đều do vô minh mà ra. Người trí huệ cũng bị cám dỗ bởi tham sân si như người vô minh nhưng họ biết dùng trí huệ để chế ngự sự cám dỗ và không rơi vào vòng tội lỗi. Một xã hội sáng suốt là một xã hội trong đó người dân cảm thấy được hưởng quyền lợi thì nhiều, mà bị hạn chế tự do thí ít. Trong xã hội ấy, ăn ở ngay thẳng là giữ đúng quyền lợi mình và an ninh trật tự cũng như thiện chí trong xã hội đều phát xuất từ sự nhận định sáng suốt của cá nhân.

Nhưng nếu chính phủ là một sự hỗn độn và phi lý, nếu chính phủ cai trị mà không giúp đỡ, chỉ huy mà không lãnh đạo thì làm sao có thể thuyết phục người dân đồng hoá quyền lợi cá nhân với quyền lợi xã hội ? Alcibiade nổi loạn chính vì để chống một chính phủ lung lạc nhân tài và mị dân. Không suy nghĩ sáng suốt tất nhiên đi đến cảnh hỗn độn, đám đông quyết định trong hấp tấp và vô ý thức tất nhiên có ngày phải hối hận vì sai lầm. Ai có thể tin rằng đám đông có lẽ phải ? Sự thật thì đám đông luôn luôn ngông cuồng hơn, độc ác hơn những cá nhân hành động đơn độc. Để cho kẻ miệng lưỡi lung lạc quần chúng là một điều sỉ nhục, họ chỉ là những cái máy nói, mỗi khi vặn lên là thao thao bất tuyệt. Việc trị nước an dân là một việc tối quan trọng đòi hỏi nhiều kinh nghiệm và suy xét. Xã hội chỉ có thể được cứu vãn và trở nên hùng mạnh nếu được lãnh đạo bởi những người khôn ngoan và sáng suốt nhất.

Các bạn thử tưởng tượng phản ứng của nhà cầm quyền Athènes khi nghe những lời trên đúng vào lúc phải giải quyết chiến tranh, đúng vào lúc một thiểu số trí thức và quí tộc đang âm mưu một cuộc đảo chánh. Các bạn hãy đặt mình vào địa vị của Anytus nhà lãnh đạo thành Athènes bị cậu con trai về nhà đổ lư hương vì cậu này là một môn đệ của Socrate.

Rồi cuộc nội chiến bùng nổ, phe trí thức và quý tộc choảng nhau hết mình với phe nhân dân. Cuối cùng phe nhân dân thắng. Biến cố này quyết định luôn cả số phận của Socrate : ông là nhà lãnh đạo tinh thần của phe nổi loạn, dù ông có yêu chuộng hoà bình đến mấy cũng mặc, chính ông đã chủ trương thuyết quý tộc cầm quyền, chính ông đã xúi giục đám thanh niên hội thảo. Anytus kết luận: Socrate cần phải chết.

Cái chết của Socrate được Platon kể lại trong một quyển sách bất hủ. Với những lời lẽ cảm động Platon suy tôn bậc Thầy đã hy sinh vì chân lý, vì tự do tư tưởng, thà chết chứ không chịu xin đám đông tha tội vì xưa nay Socrate vẫn khinh thường phán quyết của đám đông.

Socrate bị xử phải uống thuốc độc. Môn đệ của ông tìm cách cứu ông một lần chót: những kẻ giữ ngục đồng ý nhận một món tiền hối lộ và làm ngơ cho Socrate trốn đi. Socrate từ chối. Ông đã bảy mươi tuổi, có lẽ ông nghĩ rằng có chết cũng vừa, vả lại đây cũng là một cơ hội tốt để mà chết. Với các môn đệ đến ngục thất để tiễn đưa Socrate về cõi chết, Socrate nói: Hãy cứ vui đi, các con chỉ chôn cái thể phách của thầy.

Nói xong ông đứng dậy và đi vào phòng tắm với Criton. Chúng tôi (theo Platon kể lại) ngồi đợi ở ngoài, lòng buồn vô hạn. Ông cũng như cha, bây giờ ông chết, chúng tôi không khác gì những kẻ mồ côi. Giờ mặt trời lặn đã gần kề. Khi ông trở ra, ông lại ngồi với chúng tôi, chuyện trò rất ít. Chằng bao lâu người giữ ngục đi vào, đến gần ông và nói như sau: - Ông thật là người cao quý nhất, hiền lành nhất trong đời. Chắc rằng ông không có ý nghĩ giận tôi giống như những kẻ thường chửi bới mắng nhiếc tôi khi tôi tuân lệnh trên, đem chén thuốc độc vào đây cho họ uống. Xin ông thông cảm, tôi với ông không thù hằn gì. Chúc ông can đảm chịu đựng. Nói xong người giữ ngục oà khóc và ôm mặt đi ra ngoài. Socrate trả lời như sau: - Tôi sẽ làm như lời ông nói và chúc ông mọi sự tốt lành. Quay về phía chúng tôi Socrate nói như sau: - Người đó rất tốt với thầy từ lúc thầy vào đây, y đến thăm hỏi luôn, bây giờ y thực tình mến tiếc, nhưng Criton ơi, hãy đem chén thuốc vào đây nếu thuốc đã chế xong. Nếu thuốc chưa chế xong, hãy nói người ta chế. Criton nói: - Thưa sư phụ, mặt trời còn trên đỉnh đồi. Nhiều kẻ đợi trời tối mới uống và trước khi uống họ được quyền ăn uống no say thoả thích. Xin sư phụ chớ gấp gáp, hãy còn thì giờ. Socrate nói: - Những kẻ ấy làm rất phải, vì họ có lợi trong sự chần chờ, nhưng ta thì không thấy có lợi gì khi uống chén thuốc độc chậm hơn một chút, đời của ta kể như đã hết. Hãy làm như ta đã nói và xin đừng từ chối. Criton ra dấu cho người giúp việc, người này đi ra một lúc rồi trở lại với người giữ ngục, tay cầm chén thuốc. Socrate nói: - Ông bạn là người thông thạo về vấn đề này, xin ông cho biết tôi phải làm thế nào? Người giữ ngục trả lời: - Uống xong ông nên đi dạo một lúc, khi nào cảm thấy nặng ở hai chân thì nằm xuống, thuốc sẽ ngấm dần lên đến tim. Nói xong hắn đưa chén thuốc cho Socrate. Socrate nhận lấy một cách vô cùng nhã nhặn, không chút sợ sệt hoặc thay đổi sắc mặt. - Trước khi uống, tôi cần dành một phần chén thuốc để dâng cúng thần linh không ? - Chúng tôi chế thuốc vừa đủ. - Tôi hiểu rồi, nhưng dù sao tôi cũng cầu nguyện thần linh phù hộ cho tôi trong cuộc hành trình sang thế giới bên kia. Nói xong Socrate cầm chén thuốc đưa lên môi và uống một cách vui vẻ.

Từ trước đến giờ chúng tôi cố nén sự đau buồn thương tiếc, nhưng khi thấy ông uống cạn chén thuốc, chúng tôi không còn cầm lòng được nữa. Nước mắt tôi tuôn trào, tôi ôm mặt khóc. Không phải tôi khóc ông, mà chính là tôi khóc tôi từ nay vĩnh biệt tôn sư. Criton khóc trước tôi, y ôm mặt đi lãng xa vì không thể chứng kiến nổi cảnh ấy. Tôi cũng ôm mặt theo Criton. Trong lúc ấy thì Apollodorus đang khóc bỗng thét lên một tiếng làm tất cả chúng tôi đều giật mình. Socrate vẫn bình tĩnh, ông nói: - Cái gì lạ vậy ? Không cho phụ nữ vào đây là để tránh cái cảnh này. Người ta cần phải chết trong thanh tịnh. Các con hãy bình tĩnh và nhẫn nại. Nghe những lời nói ấy chúng tôi hổ thẹn và thôi không khóc. Ông đi dạo một hồi cho đến khi cảm thấy nặng ở chân, rồi nằm xuống đúng theo lời dặn. Người giữ ngục quan sát tay chân ông, đè mạnh xuống hai bàn chân và hỏi: - Ông cảm thấy gì không ? - Không. Người ấy đi lần lên phía trên, vừa đè vừa hỏi. Chúng tôi thấy hai chân ông đã cứng và lạnh, Socrate cũng lấy tay ấn thử và nói: - Khi nào thuốc ngấm đến tim là xong. Khi lạnh đến thắt lưng, ông bỏ miếng vải che mặt và nói: - Criton, thầy nợ Asclepius một con gà, con nhớ trả món nợ ấy. - Con sẽ trả, còn gì nữa không ?

Không có tiếng trả lời, vài phút sau Socrate cử động, người giữ ngục bỏ miếng vải che mặt ra, Criton vuốt mắt và miệng cho người chết. Đó là giây phút cuối cùng của tôn sư chúng tôi, ông là người minh triết nhất, công bằng nhất và tốt nhất.

 

3. THỜI KỲ HỌC HỎI CỦA PLATON:

Cuộc gặp gỡ giữa Platon và Socrate có một tầm quan trọng đặc biệt. Platon thuộc về giai cấp trung lưu, đẹp trai và khoẻ mạnh. Ông đã từng ở trong quân ngũ và đã đoạt giải quán quân về thể thao. Không ai có thể ngờ rằng một người như vậy có thể trở nên một triết gia. Tâm hồn tế nhị của Platon tìm thấy vui thích trong biện chứng pháp của Socrate. Platon rất sung sướng khi nghiền ngẫm những lý thuyết của Socrate nhằm đả kích các luận điệu sai lầm đương thời: Platon dự vào cuộc tranh luận triết lý cũng như ông ta đã dự vào những cuộc tranh giải thể thao, và từ những cuộc tranh luận đó Platon đã đi đến những suy tư thâm thuý hơn. Chàng ta trở thành một người yêu triết lý và một môn đệ ưu tú của Socrate. Chàng thường nói rằng: "Tôi cám ơn trời đã cho tôi làm một người Hy lạp chứ không phải một dân mọi rợ, một người tự do chứ không phải một người nô lệ, một người đàn ông chứ không phải một người đàn bà, và quan trọng nhất là được sinh vào thời Socrate."

Khi Socrate chết, Platon mới được 28 tuổi, và biến cố cảm động này đã in sâu vào tâm thức của Platon. Nó làm cho Platon thù ghét những tư tưởng dân chủ, thù ghét quần chúng thêm vào sự thù ghét phát sinh từ giai cấp quý tộc của Platon. Do đó ông ta chủ trương rằng cần phải tận diệt chế độ dân chủ và thay vào đó một chính thể do những phần tử quý tộc và sáng suốt lãnh đạo. Một trong những vấn đề trọng đại mà Platon đã nghiên cứu suốt đời là làm sao tìm ra người khôn ngoan nhất để giao phó việc lãnh đạo quốc gia.

Trong lúc đó những liên hệ giữa Platon và Socrate làm cho chính quyền đương thời nghi ngờ Platon. Những bạn bè của ông khuyên ông nên trốn khỏi Athènes và ông cũng cho rằng đây là một dịp tốt để chu du thế giới. Năm 399 tTL ông xách gói ra đi.

Những nơi nào ông đã đi qua chúng ta không được biết rõ. Hình như ông đã đi Ai cập trước tiên và ông rất bất bình khi nghe các nhà lãnh đạo tôn giáo cai trị xứ này nói rằng Hy lạp là một quốc gia ấu trĩ không có truyền thống và văn hoá và không thể so sánh được với quốc gia Ai cập. Sự bất mãn này làm ông ta suy nghĩ nhiều hơn và chuyến đi Ai Cập đóng một vai trò quan trọng trong tác phẩm của ông nhan đề là Utopia. Sau đó ông đáp tàu qua Sicie và đến Ý. Ở đó ông gia nhập nhóm triết gia do Pythagore sáng lập. Cảnh tượng một nhóm người có quyền chính trị rộng rãi lại say mê trong việc nghiên cứu và học hỏi, sống một cuộc đời bình dị mặc dù nắm nhiều quyền thế trong tay là một đề tài để Platon suy nghĩ. Ông đi chu du suốt 12 năm, học hỏi tất cả các chính thể, họp bàn với tất cả các nhóm, tìm hiểu tất cả các học thuyết. Một vài người cho rằng ông đã đến Judée và đã nghiên cứu học thuyết đượm tính chất xã hội của các triết gia ở đây. Có người cho rằng ông đã đến tận bờ sông Hằng và học hỏi tư tưởng các triết gia Ấn độ.

Ông trở về Athènes năm 387 tTL, lúc này ông đã 40 tuổi, một người già dặn sau nhiều năm học hỏi ở nhiều nước. Ông vẫn còn giữ sự hăng hái của tuổi trẻ nhưng ông đã nhận thức được rằng tất cả những tư tưởng quá khích chỉ là những chân lý nửa vời. Ông vừa là một triết gia, vừa là một thi sĩ, lối văn của ông vừa khúc chiết như một bài luận triết học, vừa đẹp đẽ như một bài thơ: đó là lối văn đàm thoại. Chưa bao giờ triết học trải qua một thời gian sáng lạn như vậy. Văn thể của ông sáng chói ngay cả trong những bản dịch. Shelley nhận xét rằng văn thể của Platon kết hợp luận lý sắc bén và hồn thơ lai láng, vừa dịu dàng trong âm điệu vừa hùng hồn trong lập luận. Nên biết rằng trước khi trở thành một triết gia Platon là một nhà soạn kịch.

Sự kết hợp của văn chương và triết lý, của khoa học và nghệ thuật trong các tác phẩm của Platon đôi khi làm chúng ta khó hiểu: chúng ta không biết rằng những nhân vật của Platon diễn tả tư tưởng của mình trong trường hợp nào, châm biếm, pha trò hay nói đứng đắn. Khuynh hướng pha trò châm biếm của Platon đôi khi làm chúng ta bỡ ngỡ. Những cuộc đối thoại do Platon viết ra là để cho đại chúng: nhờ trình bày những luận điệu bênh vực và đả kích, nhờ lập đi lập lại những ý tưởng nòng cốt, các tác phẩm của Platon rất thích hợp với những người muốn học triết lý cho qua thì giờ. Do đó những lối ngụ ngôn, những giọng văn hài hước thường rất nhiều. Ngoài ra lẽ cố nhiên còn có những tư tưởng liên quan đến những biến cố mà Platon cùng người đương thời thường bàn bạc đến, những tư tưởng này rất khó hiểu đối với một độc giả thế kỷ thứ hai mươi.

Chúng ta phải công nhận rằng Platon có những đặc tính mà ông thường chỉ trích. Ông không ưa những thi sĩ với trí tưởng tượng quá dồi dào. Ông không ưa những giáo sĩ, nhưng chính ông là một giáo sĩ, một giảng sư. Giống như Shakespeare, ông cho rằng mọi sự so sánh đều nhầm lẫn, nhưng ông lại luôn luôn dùng phương pháp so sánh. Ông chỉ trích các triết gia đương thời là những kẻ miệng lưỡi nhưng chính ông cũng dùng phương pháp này. Faguet đã nhại lối văn của Platon như sau: - Toàn thể lớn hơn một phần, phải chăng ? - Chắc chắn như vậy. - Và một phần nhỏ hơn toàn thể phải chăng ? - Đúng như thế. - ... Do đó rõ ràng là triết gia phải lãnh đạo quần chúng. - Ông nói cái gì ? - Thật là rõ ràng, chúng ta hãy lý luận trở lại.

Mặc dù tất cả những lời chỉ trích, những cuốn đối thoại của Platon là một trong những tác phẩm hay nhất của thế giới. Tác phẩm Cộng hoà là một công trình rộng lớn dưới hình thức một cuốn sách nhỏ trong đó tập trung những tư tưởng của Platon về siêu hình, thần học, đạo đức học, tâm lý học, sư phạm, chính trị và thẩm mỹ. Chúng ta có thể tìm thấy trong đó những vấn đề mà ngày nay chúng ta đang băn khoăn suy nghĩ: thuyết Cộng sản và xã hội, thuyết nam nữ bình quyền, thuyết hạn chế sinh sản và phương pháp dạy trẻ. Những vấn đề của Nietzsche về đạo đức và quý tộc, những vấn đề cũng Rousseau về trạng thái thiên nhiên và tự do giáo dục, những vấn đề của Bergson về đà sống (élan vital) và những vấn đề của Freud về phân tâm học. Emerson nói rằng : "Platon là triết lý, và triết lý là Platon". Đối với ông, thì quyển Cộng hoà của Platon cũng như kinh Coran và người ta có thể đốt tất cả các thư viện, vì tinh hoa của các thư viện đều nằm trong cuốn sách này.

Chúng ta hãy nghiên cứu tác phẩm Cộng hoà !

 

4. VẤN ĐỀ ĐẠO ĐỨC:

Cuộc tranh luận xảy ra trong nhà của Cephalus, một người giàu có thuộc giai cấp quý tộc. Trong cuộc tranh luận còn có Glaucon và Adeimantus, anh của Platon, Thrasymachus, một triết gia đương thời. Socrate (mà Platon dùng như một nhân vật để diễn tả những tư tưởng của chính mình) hỏi Cephalus: - Lợi ích quan trọng nhất mà tiền của đem lại cho ta, theo ý ông là gì ? Cephalus trả lời: tiền của cho phép ông ta có thể độ lượng, thật thà và công bằng. Socrate hỏi: công bằng nghĩa là gì ? Và mở ra một cuộc tranh luận dài. Không gì khó hơn một định nghĩa, vì nó đòi hỏi nhiều khôn khéo và sáng suốt trong tư tưởng. Socrate đả phá tất cả những định nghĩa do cử toạ đưa ra cho đến lúc Thrasymachus mất bình tĩnh và la lên: - Socrate, ông có điên không ? Tại sao các ông lại dẫm chân nhau như vậy ? nếu ông muốn biết công bằng là gì, ông phải trả lời chứ không được hỏi, ông không nên tự hào vì đả phá được kẻ khác... Có rất nhiều người có thể đặt câu hỏi nhưng không thể trả lời. Socrate không nao núng. Ông vẫn hỏi chứ không trả lời, và sau cùng Thrasymachus đưa ra một định nghĩa: "Hãy nghe đây: tôi cho rằng sức mạnh là lẽ phải, và công bằng là quyền lợi của kẻ mạnh ... Những chính thể khác nhau làm nên luật, dù đó là chính thể dân chủ, quý tộc hay độc tài, tất cả đều nhắm đến quyền lợi của mình; và những điều luật ấy, làm ra để phụng sự quyền lợi của chúng, được đặt lên đầu nhân dân và gọi là công bằng, những kẻ nào cưỡng lại sẽ bị phạt và bị xem là không công bằng...

Tôi nói về sự bất công một cách tổng quát, và ý nghĩ của tôi rất rõ ràng khi nghiên cứu chính thể độc tài. Trong chính thể này, người ta dùng sức mạnh và sự gian trá để xâm chiếm tài sản kẻ khác. Khi một người đã lấy tất cả tài sản của dân chúng và bắt dân chúng làm nô lệ người ta xem nó không phải là một kẻ thượng lưu. Người ta chỉ trích sự bất công khi người ta là nạn nhân chứ không phải vì bị lương tâm cắn rứt mỗi khi có hành vi bất công."

Đó là học thuyết mà ngày nay được gán ít nhiều cho Nietzsche. "Tôi thường cười những kẻ yếu tưởng rằng mình là tốt, chỉ vì chúng nó chân tay què quặt". Stirner diễn đạt tư tưởng một cách gọn gàng hơn: "một nắm quyền hành tốt hơn một bao lẽ phải". Tư tưởng trên cũng được Platon diễn tả trong Gorgias. Calliclès chỉ trích rằng đạo đức là một phát minh của kẻ yếu để vô hiệu hóa quyền lực của kẻ mạnh.

"Chúng nó khen và chê tuỳ theo quyền lợi của chúng: chúng nói rằng gian manh là bất công và nhục nhã, chúng nó cho rằng gian xảo là ý muốn có nhiều hơn người hàng xóm, vì tự biết trình độ thấp kém của mình, chúng chỉ mong được bình đẳng... Nhưng nếu có một người với đầy đủ quyền lực, người ấy sẽ vượt lên trên những lý luận này, sẽ chà đạp tất cả những công thức, những luật lệ ...

"Những kẻ sống thực sự cần phải cho ý chí của mình phát triển đến tột độ; và khi đã phát triển ý chí đến tột độ, họ phải có đủ can đảm và thông minh để phụng sự ý chí, để thoả mãn tất cả những điều ham muốn. Đó là lẽ công bằng tự nhiên, sự quý phái tự nhiên. Nhưng đa số không thể làm như vậy, do đó họ chỉ trích người khác. Chính vì họ nhục nhã trong sự bất lực, chính vì họ muốn che dấu sự nhục nhã ấy, họ tuyên bố rằng lòng tham vô độ là thấp kém... Họ muốn kìm hãm những kẻ quý phái hơn và cổ võ sự công bằng chỉ vì họ là những kẻ nhút nhát".

Sự công bằng ấy là một đạo đức không phải đối với người xuất chúng mà đối với người hạ cấp; đó là một thứ đạo đức nô lệ không phải là đạo đức xuất chúng, những đức tính thực sự là của người ta là lòng can đảm và trí thông minh.

Có lẽ rằng những tư tưởng phi đạo đức kể trên phản ảnh sự bành trướng của chủ nghĩa đế quốc trong chính sách ngoại giao của tiểu quốc Athènes, chính sách này đối xử rất tàn bạo với những dân tộc nhỏ bé. Trong một bài văn tế, Periclès nói: "Đế quốc của ngài căn cứ vào quyền lực của ngài chứ không phải là thiện chí của thần dân". Các sử gia kể lại công cuộc ép buộc Melos phải về phe Athènes để chống với Sparte như sau: "Ông cũng biết như chúng tôi rằng chỉ có vấn đề lẽ phải đối với những kẻ quyền lực ngang nhau: kẻ mạnh làm cái gì y có thể làm và kẻ yếu chịu đựng cái gì y bắt buộc phải chịu đựng". Chúng ta có ở đây những vấn đề đạo đức căn bản, những lý thuyết căn bản về luân lý. Công bằng là gì ? - Chúng ta cần phải tìm lẽ phải hay cần phải tìm quyền lực ? -Chúng ta nên tốt hay nên mạnh ?

Platon giải quyết vấn đề này như thế nào ? Sự thật thì ông không giải quyết gì cả. Ông nhấn mạnh rằng lẽ công bằng là một sự quan hệ giữa cá nhân, tuỳ thuộc vào tổ chức xã hội và do đó cần phải được nghiên cứu song song với cơ cấu xã hội chứ không thể được nghiên cứu như một thái độ cá nhân. Nếu chúng ta có thể hình dung một quốc gia công bằng, chúng ta mới có đủ yếu tố để định nghĩa một cá nhân công bằng. Platon lấy ví dụ rằng muốn thử con mắt của một cá nhân cần phải cho họ đọc những chữ lớn rồi dần dần đến những chữ nhỏ. Cũng thế, định nghĩa công bằng trong mẫu mực lớn là quốc gia giản dị hơn định nghĩa công bằng trong mẫu mực nhỏ là cá nhân. Sự thật thì Platon muốn dùng lối lý luận này để nối liền hai phần nghiên cứu. Chẳng những ông muốn thảo luận về vấn đề đạo đức cá nhân mà ông còn muốn thảo luận cả về vấn đề xã hội và chính trị. Trong cuộc thảo luận này Platon sắp đưa ra tác phẩm Quốc gia lý tưởng (Utopia).

 

5. VẤN ĐỂ CHÍNH TRỊ:

Công bằng sẽ là một vấn đề giản dị nếu con người cũng giản dị. Platon tưởng tượng như sau: Trước hết chúng ta thử hình dung nếp sống của một xã hội giản dị. Người ta sẽ sản xuất lúa, rượu, áo quần, dày dép, nhà cửa. Họ sẽ làm việc lưng trần và chân không trong mùa hạ, mang giày và áo ấm trong mùa đông. Họ tự nuôi sống bằng lúa mì, xay bột và nướng bánh, họ ngồi ăn trên chiếu hoặc trên lá, ngả lưng vào giường hoặc vào thân cây. Họ ăn uống với gia đình, uống rượu do họ tự làm lấy, mang những vòng hoa trên đầu, hát những điệu ca tụng thần linh, sống trong sự hoà nhã êm ái không để cho nhân khẩu trong gia đình vượt quá phương tiện sinh nhai vì họ biết lo xa, sợ nghèo đói và chiến tranh... Lẽ cố nhiên họ có những món ăn ưa thích: trái ô liu, phó mát, hành, su và những thứ rau khác; họ tráng miệng bằng xoài, mận, đào, họ nướng những loại bánh và uống rượu có chừng mực. Với những món ăn như vậy họ có thể sống an nhàn cho đến tuổi già và để lại cho con cháu một đời sống cũng an nhàn.

Chúng ta hãy để ý đến sự kiểm soát sinh sản, sự ăn chay và sự sống theo thiên nhiên mà các huyền thoại Do thái dùng để tả thiên đường. Toàn thể đoạn văn làm chúng ta liên tưởng đến triết lý của Diogène khuyên ta nên trở về sống với thú vật bởi vì chúng nó sống yên ổn.

Chúng ta cũng còn liên tưởng đến các lý thuyết của Saint Simon, Fourrier, William Morris và Tolstoi. Nhưng Platon có phần hoài nghi hơn những tác giả ấy, ông không đi sâu vào vấn đề: tại sao một đời sống gần như thiên đàng không bao giờ đến với nhân loại ? Tại sao những tiểu quốc thuộc loại Utopia chưa bao giờ nằm trên bản đồ ?

Platon trả lời: Đó là tại lòng tham và sự xa hoa. Con người không chịu bằng lòng với một đời sống giản dị, họ luôn luôn muốn chiếm đoạt, muốn ao ước, muốn ganh đua, muốn ghen ghét. Họ sẽ bất mãn với những gì họ có và chạy theo những gì họ chưa có, họ chỉ muốn những cái gì thuộc về kẻ khác. Kết quả là sự xâm chiếm lãnh thổ kẻ khác, sự cạnh tranh giữa các nhóm để giành giựt tài nguyên và cuối cùng là chiến tranh. Nền kinh tế phát triển đem lại những giai cấp mới. "Tất cả những quốc gia đều gồm có hai quốc gia, quốc gia của những người nghèo và quốc gia của những người giàu, hai quốc gia xung đột nhau gay gắt. Nếu cho rằng đó chỉ là một quốc gia thì chúng ta lầm lỗi lớn". Một giai cấp thương gia trỗi dậy muốn dùng tiền của để chiếm địa vị và cổ võ sự tiêu thụ hàng hoá. "Chúng nó sẽ tiêu những số tiền lớn để các bà vợ trang sức". Những sự thay đổi trong việc phân phối lợi tức gây nên những sự thay đổi về mặt chính trị : khi lợi tức của bọn thương gia vượt quá lợi tức của bọn địa chủ, chính thể phú nông nhường chỗ cho chính thể phú thương. Lúc đó sự phối hợp các lực lượng xã hội và sự điều chỉnh chính sách quốc gia, nói tóm là nghệ thuật trị nước được thay thế bằng những thủ đoạn chính trị phát xuất từ những đảng phái và sự háo danh lợi.

Tất cả những chính thể quốc gia đều có khuynh hướng tự đào thải khi đi vào con đường quá khích. Chính thể quý tộc tự đào thải khi thu hẹp số người nắm giữ quyền hành, chính thể dân chủ tự đào thải vì lòng tham giành giựt danh lợi. Trong cả hai trường hợp thế nào cũng đi đến cách mạng. Khi cách mạng xảy đến, người ta có cảm tưởng rằng nguyên do là những biến cố nhỏ nhặt, sự thật thì cách mạng là hậu quả của vô số lỗi lầm chồng chất lại. "Khi một cơ thể đã suy yếu, những nguyên do rất tầm thường cũng có thể đem đến bệnh tật. Khi chính thể dân chủ đến, kẻ nghèo chiến thắng đối thủ của họ, tàn sát một số, trục xuất một số và cho tất cả mọi người những quyền hành và tự do bình đẳng".

Nhưng chính thể dân chủ tự huỷ vì quá dân chủ. họ muốn rằng tất cả mọi người đều có quyền tham gia chính phủ và ấn định đường lối quốc gia. Mới xem qua thì đó là một lý tưởng quá tốt đẹp, nhưng thực ra nó trở nên vô cùng nguy hiểm vì dân chúng không được giáo dục để có thể lựa chọn người tài giỏi ra cầm quyền và ấn định đường lối thích hợp nhất. "Dân chúng không có kiến thức, họ chỉ lập lại những điều gì nhà cầm quyền nói với họ". Muốn ủng hộ hoặc đả phá một học thuyết, chỉ cần soạn những vở kịch trong đó những học thuyết kia được đem ra chỉ trích hoặc cổ võ trước công chúng. Để cho dân chúng cầm quyền không khác gì cho con thuyền quốc gia lướt trong vùng bão tố, miệng lưỡi của bọn chính trị gia làm nước nổi sóng và lật hướng đi của con thuyền. Không chóng thì chầy, một chính thể như vậy sẽ đi vào con đường độc tài. Dân chúng rất ưa những lời nịnh hót, những kẻ khôn ngoan và vô liêm sỉ tự gán cho mình cái danh nghĩa bảo vệ dân chúng rất có cơ hội cầm quyền tối cao.

Càng nghĩ đến vấn đề này, Platon càng kinh ngạc về sự điên rồ khi giao cho quần chúng trọng trách chọn người cầm giềng mối quốc gia, đó là chưa nói đến những thế lực kim tiền núp sau sân khấu chính trị dân chủ để điều khiển những chính quyền bù nhìn. Platon phàn nàn rằng đối với một việc nhỏ như việc đóng giày, người ta còn phải lựa chọn những người thợ chuyên môn, tại sao trong lãnh vực chính trị là một lãnh vực trọng đại, người ta có thể tin tưởng rằng bất cứ kẻ nào chiếm được nhiều phiếu đều biết cách trị nước an dân. Khi chúng ta bị bệnh, chúng ta mời đến một y sĩ lành nghề đã trải qua nhiều năm đèn sách và thực tập, chúng ta không mời những y sĩ đẹp trai nhất hoặc những y sĩ miệng lưỡi nhất. Thế thì tại sao khi quốc gia lâm nguy, chúng ta không tìm đến những người khôn ngoan nhất, đức hạnh nhất ? Tìm ra một phương pháp để loại bỏ bọn bất tài và bịp bợm ra khỏi chính phủ, chọn lựa những kẻ tài cao đức trọng, đó là vấn đề chính của triết lý chính trị.

 

6. VẤN ĐỀ TÂM LÝ:

Đằng sau vấn đề chính trị là vấn đề tính chất con người. Muốn hiểu chính trị, chúng ta cần phải hiểu tâm lý. " Con người thế nào, quốc gia thế ấy"; "Chính thể thay đổi cũng như tính người thay đổi... Quốc gia được cấu tạo bởi bản chất con người". Do đó, chúng ta không thể mơ tưởng những quốc gia hoàn hảo hơn khi chúng ta chưa có những con người hoàn hảo. Chúng ta là những người thật kỳ lạ, luôn luôn uống thuốc chữa bệnh làm cho bệnh trạng càng rắc rối và nặng hơn, luôn luôn tưởng rằng có thể được chữa lành bởi một vài thứ thuốc rẻ tiền do một vài người chỉ bày, nhưng không bao giờ khá hơn, trái lại chỉ nặng thêm mà thôi... Những kẻ ấy thật kỳ lạ khi họ muốn trở thành nhà lập pháp và tưởng tượng rằng với một vài cải cách họ có thể chấm dứt nạn tham nhũng của nhân loại. Họ không biết rằng tham nhũng cũng như con rắn thần thoại, chặt đầu này nó mọc đầu khác".

Chúng ta hãy xem xét con người, chất liệu cấu tạo triết lý chính trị. Hành động con người có ba nguyên do: tham, sân và trí. Lòng tham muốn, khao khát, dục, bản năng, tất cả đều thuộc một loại; sân si, giận dữ, can đảm, tất cả đều thuộc một loại; trí huệ, hiểu biết lý luận, tất cả đều thuộc một loại. Lòng tham nằm nơi thận, nó là một kho chứa năng lực phần lớn là thuộc tính dục. Sân si nằm ở trái tim, và bị chi phối bởi áp lực máu trong huyết quản. Trí huệ nằm trong đầu, và có thể trở thành kẻ hướng đạo cho linh hồn.

Những yếu tố ấy có trong tất cả mọi người, nhưng với mức độ khác nhau. Một số người chỉ là sự thể hiện của lòng tham, luôn luôn muốn chiếm đọat tiền của, muốn sống xa hoa và phô trương, muốn chạy theo những gì họ chưa có. Đó là những người cầm đầu trong giới làm ăn. Một số khác ưa gây gỗ và can đảm, họ thích gây gỗ chỉ để gây gỗ, họ muốn có quyền hơn là có của, họ sung sướng trên chiến trường hơn là ngoài đồng áng, những người này cấu tạo những lực lượng lục quân và hải quân trên thế giới. Cuối cùng, có những người ưa thích suy nghĩ và hiểu biết, họ không chạy theo của cải hoặc chiến thắng mà chạy theo sự hiểu biết. Họ tránh xa thị trường và chiến trường để suy tư trong cảnh tịch mịch. Họ là những người khôn ngoan đứng riêng rẽ và không được ai sử dụng.

Hành vi của con người có giá trị khi lòng tham sân si được hướng dẫn bởi trí tuệ. Trong một quốc gia lý tưởng, những lực lượng sản xuất chỉ lo sản xuất mà không cai trị, những lực lượng võ trang chỉ lo bảo vệ mà không cai trị, những lực lượng trí huệ phải được nuôi dưỡng và bảo vệ và phải cầm quyền cai trị. Nếu không được hướng dẫn bởi trí huệ, dân chúng chỉ là một đám ô hợp, dân chúng cần sự hướng dẫn của triết gia cũng như lòng tham cần sự hướng dẫn của trí huệ. "Sự sụp đổ sẽ xảy đến khi những con buôn nhờ giàu sang đã trở thành những người cai trị". Hoặc khi một tướng lãnh dùng lực lượng võ trang của mình để lập nên một chính thể quân nhân. Những người sản xuất rất thích hợp trong lãnh vực kinh tế, những chiến sĩ rất thích hợp trên chiến trường, nhưng cả hai đều tai hại trong lãnh vực chính trị, trong những bàn tay vụng về của họ, những thủ đoạn chính trị thay thế nghệ thuật trị nước an dân. Thuật trị nước vừa là khoa học vừa là nghệ thuật, nó đòi hỏi nhiều sự tận tâm và học hỏi. Chỉ những triết gia mới thích hợp trong việc trị nước. "Khi nào triết gia trở thành quốc vương và tất cả quốc vương trên thế giới đều trở thành triết gia thì những tệ đoan của xã hội sẽ chấm dứt, đó là tư tưởng nòng cốt của Platon.

 

7. GIẢI PHÁP TÂM LÝ:

Chúng ta phải làm những gì ? Chúng ta phải gởi về đồng quê tất cả những công dân trên 10 tuổi. Một khi đã kiểm soát được đám trẻ con chúng ta sẽ không để cho lũ trẻ con này bị ảnh hưởng xấu của cha mẹ chúng nó. Chúng ta không thể xây dựng một quốc gia lý tưởng mà không hoàn toàn dứt khoát với quá khứ. Có thể dùng một miền đất xa xôi nào đó để thực hiện một quốc gia lý tưởng. Đám trẻ con ấy sẽ được dạy dỗ đồng đều: những kẻ kỳ tài xuất chúng có thể tìm thấy ở tất cả mọi giới vậy cần phải cho tất cả trẻ con những cơ hội học hỏi đồng đều.

Trong 10 năm đầu, nền giáo dục sẽ đặc biệt chú trọng đến thể dục, mỗi trường học đều có một sân chơi và một sân vận động. Chương trình học gồm toàn những môn thể dục và thể thao. Trong 10 năm đó, lũ trẻ sẽ có một sức khoẻ dồi dào khiến cho việc khám bệnh và trị bệnh trở nên hoàn toàn vô ích. Sở dĩ người ta thường mắc bệnh là đã sống một cuộc đời quá nhàn rỗi, quá bê tha, thiếu vận động. Về mục đích của nền giáo dục trong giai đoạn này là làm cho bệnh tật không có cơ hội để phát triển. Chính những kẻ nhà giàu vì cuộc sống quá nhàn rỗi đã tự đem bệnh hoạn đến cho mình. Nếu một kẻ lao động nhuốm bệnh, họ sẽ tìm một loại thuốc nào công hiệu để chóng khỏi. Nếu có người khuyên nhủ họ phải trải qua một thời kỳ điều trị công phu như là lựa chọn các món ăn, tắm hơi, đấm bóp... Kẻ ấy sẽ trả lời rằng họ không có thì giờ và họ cũng không muốn mất công nuôi dưỡng bệnh trạng trong khi còn bao nhiêu việc khác cần phải làm, họ sẽ chế nhạo ông thầy thuốc đã khuyên họ những lời khuyên lố bịch ấy, họ sẽ ăn uống như thường ngày. Nếu họ lành bệnh thì sẽ tiếp tục nghề nghiệp, nếu bệnh không lành họ sẽ chết một cách giản dị. Chúng ta không thể khoanh tay ngồi nhìn một quốc gia gồm toàn những bệnh nhân sống không ra sống, chết không ra chết. Quốc gia lý tưởng cần phải được xây dựng trên sức khoẻ của dân chúng.

Tuy nhiên, những môn thể dục và thể thao có khuynh hướng phát triển con người chỉ về một chiều. Những kẻ can đảm có sức mạnh siêu quần thường không được nhã nhặn. Quốc gia lý tưởng không thể chỉ gồm những võ sĩ và lực sĩ. Vậy cần phải dạy cho dân chúng biết âm nhạc. Nhờ âm nhạc mà tâm hồn con người ý thức được sự điều hoà và nhịp điệu, do đó ý thức được công lý. Sự điều hoà không bao giờ đi đôi với bất công. Nhạc lý sẽ thâm nhập vào linh hồn con người khiến cho linh hồn trở nên đẹp đẽ hơn. Nhạc lý sẽ uốn nắn tính tình con người và do đó đem đến một giải pháp tốt đẹp cho các vấn đề xã hội và chính trị. Mỗi khi tiết tấu của âm nhạc thay đổi thì các nguyên lý căn bản của xã hội cũng thay đổi theo.

Âm nhạc chẳng những sửa đổi tánh tình trở nên tế nhị hơn mà còn giữ gìn hoặc bảo đảm sức khoẻ. Dân Corybantic có tục lệ chữa trị các phụ nữ mắc bệnh điên bằng âm nhạc. Một khi điệu nhạc trỗi lên các bệnh nhân sẽ nhảy nhót một cách cuồng loạn cho đến khi kiệt lực và nằm ngủ. Sau giấc ngủ đa số bệnh nhân đã bình phục. Những tư tưởng bị lãng quên trong vô thức được khơi động bởi những phương pháp kể trên. Những kẻ xuất chúng là những kẻ có những cội rễ thiên tài bắt nguồn từ c

 

Chương 2

ARISTOTE (384 – 322 tTL)

 

1.  MỘT CHÚT LỊCH SỬ:

Aristote sinh tại Stagira tại tiểu quốc Macédoine cách Athènes 200 dặm, vào năm 384 tTL. Cha của ông làm nghề thầy thuốc, bạn thân của quốc vương Macédoine Amyntas. Ông này là tổ phụ của Alexandre đại đế. Hình như Aristote là đoàn viên của một y sĩ đoàn danh tiếng thời ấy, ông có tất cả những cơ hội thuận tiện để học hỏi và phát triển tri thức.

Có hai giả thuyết về thời kỳ niên thiếu của Aristote. Một giả thuyết cho rằng ông là một thiếu niên thích ăn chơi, phung phí tiền của đến nỗi trở nên nghèo nàn đói rách, không có nghề sinh nhai phải vào lính trong một thời gian. Mãi đến năm 30 tuổi mới đến xin học và trở thành môn đệ của Platon (427 – 348 tTL) . Giả thuyết thứ hai không chấp nhận thời kỳ ăn chơi và phung phí tiền của. Theo giả thuyết này Aristote đến Athènes từ lúc 18 tuổi và trở thành môn đệ của Platon bắt đầu từ đó.

 Ông học với Platon vào khoảng từ 8 đến 20 năm, con số 20 năm có lẽ đúng hơn nếu ta xét ảnh hưởng của Platon trong các tác phẩm của Aristote. Người ta có thể tưởng tượng rằng thời kỳ sống với Platon là một thời kỳ lý tưởng trong cuộc đời Aristote. Một môn đệ thông minh xuất chúng được ở gần một giáo sư toàn năng. Sự thật thì mối liên quan giữa hai thầy trò không phải luôn luôn tốt đẹp. Platon lớn hơn Aristote gần 50 tuổi (43 tuổi – chú thích của người đánh máy !), chỉ sự cách biệt ấy cũng không làm dễ dàng sự thông cảm. Platon công nhận rằng Aristote là một môn đệ thông minh xuất chúng, hiếu học vì Aristote là một trong những người đầu tiên trong lịch sử nhân loại biết sưu tầm những tài liệu viết tay thời bấy giờ để lập thành một thư viện. Nhà của Aristote được Platon gọi là nhà đọc sách, nhiều người cho đó là một lời khen, nhưng cũng có người cho đó là một lời chê có ý ám chỉ đến tinh thần quá chú trọng vào sách vở của Aristote. Một sự bất hoà khác quan trọng hơn xảy ra vào cuối đời Platon. Aristote có vẻ chống lại tư tưởng của Platon và nhiều khi không đồng ý với Platon. Thái độ này làm Platon rất bất bình coi Aristote như một đứa con vô ơn. Một vài học giả cho rằng Aristote lập một trường hùng biện. Trong số các môn sinh có Hermias sau này thành người cầm quyền tiểu quốc Atarneus. Để tỏ lòng nhớ ơn thầy cũ,  Hermias mời Aristote về sống tại triều đình và năm 344 tTL, Hermias giới thiệu người chị của mình làm vợ Aristote. Cuộc hôn nhân là một sự thành công mỹ mãn. Sau đó một năm quốc vương Macédoine là Philippe mời Aristote về triều đình để dạy cho thái tử Alexandre. Đó là một vinh dự rất lớn cho Aristote, vì Philippe cũng như Alexandre là những vị vua danh tiếng và hùng mạnh nhất trong lịch sử nhân loại. Philipe chinh phục Thrace năm 356 tTL để chiếm những mỏ vàng vô cùng phong phú gấp 10 lần số vàng của Athènes. Thần dân của Philippe là những nông dân khoẻ mạnh, những chiến sĩ dũng cảm biết chịu đựng gian khổ. Nhờ những yếu tố ấy Philippe và Alexandre đã thôn tính hàng trăm tiểu quốc và thực hiện được sự thống nhất Hy lạp. Philippe không ưa chủ nghĩa cá nhân đương thời mặc dù chủ nghĩa này có kết quả tốt đẹp đối với nghệ thuật và đời sống tinh thần của dân Hy Lạp. Philippe cho rằng chủ nghĩa cá nhân là nguồn gốc của sự đồi truỵ kinh tế cũng như chính trị. Chính dựa vào chủ nghĩa này mà những kẻ lưu manh chính trị có thể lơi dụng sự tin tưởng quá dễ dãi của dân chúng để mặc tình thao túng chính trường gây nên bè phái, giai cấp, âm mưu chống đối nhau. Philippe quyết chấm dứt tình trạng trên để thực hiện một nước Hy Lạp thống nhất và hùng mạnh xứng đáng là trung tâm chính trị của thế giới thời bấy giờ. Trong thời niên thiếu Philippe đã học quân sự tại Thèbes. Năm 338 tTL ông chiến thắng tại  Athènes  và thực hiện được sự thống nhất của nước Hy Lạp. Ông mong mỏi sẽ cùng người con là Alexandre tiếp tục cuộc chinh phục thế giới nhưng giấc mộng của ông bị tan vỡ vì ông bị ám sát.

Khi Aristote đến nhận việc thì Alexandre là một cậu bé 13 tuổi bồng bột và ốm yếu, ưa cưỡi ngựa và tập ngựa. Những cố gắng của Aristote để làm dịu sự bồng bột của Alexandre hình  như không đem lại nhiều kết quả. Theo một vài sử gia Alexandre coi Aristote như cha ruột của mình và về phần Alexandre cũng đã từng tuyên bố muốn học hỏi và coi trọng sự hiểu biết hơn là chinh phục thế giới. Nhưng đó chỉ là những lời lẽ xã giao vì không đúng với sự thật. Alexandre luôn luôn là một chiến sĩ thích chinh phục, sau khi thọ giáo 2 năm với Aristote, Alexandre nối ngôi cha và bắt đầu chinh phục thế giới. Sự thành công của Alexandre có lẽ một phần nào do ảnh hưởng của Aristote và người ta thường so sánh thiên tài của Aristote  trong lãnh vực triết lý với thiên tài của Alexandre trong lãnh vực chính trị. Cả hai vĩ nhân này đều có công với nhân loại: một bên thống nhất thế giới, một bên thống nhất triết lý.

Sau khi cất quân chinh phục Á châu, Alexandre để lại ở Hy Lạp những chính phủ trung thành với ông nhưng không được dân chúng ủng hộ. Truyền thống dân chủ của người Hy Lạp không thể một sớm một chiều bị lu mờ trước sức mạnh của đội quân Alexandre. Tại những chính phủ này, những đảng lên cầm quyền được mệnh danh là đảng Macédoine hay là đảng thân Alexandre. Năm 334 tTL Aristote trở về Athènes sau một cuộc du hành và lẽ cố nhiên không  dấu cảm tình đối với đảng Macédoine tại đó. Công trình khảo cứu khoa học, triết lý, chính trị của Athènes tuy rất bao la nhưng không phải là hoàn toàn theo đuổi trong sự yên tĩnh. Nhiều biến cố chính trị luôn luôn đe doạ Aristote và nhóm cộng sự viên, công trình này hoàn toàn tuỳ thuộc vào sự thành công của Alexandre trên lãnh vực chính trị. Những nhận xét trên đây còn cho phép chúng ta hiểu rõ tư tưởng chính trị của Aristote.

 

 2. CÔNG  VIỆC CỦA  ARISTOTE:

 Mặc dù ở trong một tiểu quốc đang sôi sục vì những biến cố chính trị, Aristote đã thành công trong việc lập nên một trường học lấy tên là Lyceum. Rất nhiều môn đồ đến xin thụ giáo đến nỗi cần phải đặt ra những phép tắc luật lệ để giữ gìn trật tự. Những môn đồ này tự bầu cử một uỷ ban để cai quản các công việc của trường. Họ thường ở lại và ăn uống ngay trong trường, các buổi học thường được tổ chức ngoài đồng trống. Trước kia Platon cũng đã thành lập một trường lấy tên là Academy chuyên nghiên cứu về toán học và chính trị. Lyceum của Aristote chuyên nghiên cứu  về sinh lý học và động vật học. Alexandre ra lệnh cho các nhà săn bắn và chài lưới phải đem nộp cho Aristote tất cả những giống vật mới lạ. Tục truyền có cả thảy một đội quân 1000 người rải rác khắp Hy Lạp và Á châu để sưu tầm những giống vật mới lạ, Aristote là người đầu tiên đã lập nên vườn bách thảo và sở bách thú trên toàn thế giới. Ngoài sự ủng hộ của Alexandre Aristote còn bỏ vào đó một số vốn rất lớn, ông là một người có nhiều tiền của nhờ cưới vợ giàu và có quyền thế, có lần bên nhà vợ đã tặng Aristote một số tiền tương đương với 4 triệu Mỹ kim theo thời giá hiện nay để dùng vào việc nghiên cứu khoa học. Có người cho rằng chính Aristote đã khuyến cáo Alexandre chinh phục Ai cập với mục đích thám hiểm vùng thượng lưu sông Nil để biết rõ nguyên nhân những trận lụt xảy ra ở Ai cập. Ngoài ra, Aristote còn sưu tầm 158 bản hiến pháp.

Tuy nhiên chúng ta phải nhớ rằng những phương tiện nghiên cứu của Aristote vô cùng thô sơ so với những phương tiện nghiên cứu tối tân của chúng ta ngày nay. Ông phải đo lường thời gian mà không có đồng hồ, đo lường nhiệt độ mà không có hàn thử biểu, xem thiên văn mà không có viễn vọng kính, đoán thời tiết mà không có phong vũ biểu. Những phương tiện duy nhất mà Aristote đã sử dụng là một cái thước và một cái compas. Sức hút của trái đất, hiện tượng phát điện, áp lực không khí, nguyên lý ánh sáng, nhiệt lượng và hầu hết những lý thuyết tân tiến của khoa học hiện đại đều hoàn toàn chưa được phát minh.

Những tác phẩm của Aristote lên đến hàng trăm cuốn. Có người bảo 400 cuốn, có người bảo 1000 cuốn. Những cuốn còn lại đến dời nay chỉ là một số nhỏ nhưng cũng có thể lập thành một tủ sách. Trước hết là những tác phẩm về luận lý dạy các cách xếp đặt và phân loại các ý nghĩ. Rồi đến các tác phẩm khoa học như vật lý học, thiên văn học, khí tượng học, vạn vật học, những sách nói về sự phát triển và suy tàn, về linh hồn, về cơ thể sinh vật, về cử động và về sự sinh đẻ. Loại thứ ba là những sách dạy về cách viết văn và làm thơ. Loại thứ tư là những sách về triết lý như đạo đức học, chính trị học và siêu hình học.

Toàn thể các tác phẩm có thể xem là một bộ bách khoa của Hy Lạp nhưng khác với bộ bách khoa của các nước khác ở chỗ chỉ do một người viết ra. Công trình của Aristote xứng đáng được so sánh với công trình của Alexandre. Văn chương của Aristote không bóng bẩy và thi vị như của Platon, đó là một loại văn chương chính xác và khoa học. Aristote phải đặt thêm nhiều từ ngữ mới để có thể diễn tả tư tưởng. Những từ ngữ Âu Mỹ hiện nay phải mượn ở những tác phẩm của Aristote như "faculty, mean, maxim, category, energy, actuality, motive, end, priciple, form ...". Những chữ này không khác gì những viên gạch để xây dựng tư tưởng và góp phần rất lớn trong công cuộc phát triển tư tưởng đời sau. Aristote còn viết nhiều tác phẩm văn chương nhưng đến nay đã thất truyền.

Có người cho rằng những tác phẩm của Aristote không phải do chính Aristote soạn thảo mà do các môn đệ soạn thảo sau khi ghi chú các bài giảng của Aristote. Phần lớn những tác phẩm này được xuất bản sau khi Aristote qua đời. Chỉ có một số ít tác phẩm về luận lý và văn chương được xuất bản khi Aristote còn sống. Một số những tác phẩm khác về siêu hình học và chính trị được sưu tầm từ đống giấy tờ do Aristote để lại. Có người cho rằng trong tất cả các tác phẩm và Aristote chúng ta có thể tìm thấy một lối viết văn giống nhau, điều này chứng tỏ rằng các môn đệ của Aristote thấm nhuần tư tưởng của thầy một cách sâu xa, nếu không phải tự tay Aristote soạn thảo ra các tác phảm của mình thì các tư tưởng trình bày chắc  chắn là của Aristote.

 

 3. NỀN  TẢNG  CỦA  LUẬN    HỌC

Giá trị của Aristote là ở chỗ ông đã phát minh môn học mới, hoàn toàn không dựa vào các tác phẩm từ trước để lại. Lối suy luận của người Hy Lạp trước thời Aristote không được minh bạch, chính Aristote đã chấn chỉnh tình trạng này bằng cách đặt ra những quy luật cho sự suy luận. Ngay cả Platon đôi khi cũng vấp phải lỗi lầm suy luận không chính xác. Dưới thời trung cổ, một ngàn năm sau khi Aristote qua đời người ta còn hăng say dịch lại các sách về luận lý để theo đó mà hướng dẫn tư tưởng.

Luận lý có nghĩa là nghệ thuật và phương pháp suy nghĩ chính xác. Đó là phương pháp của tất cả các khoa học , tất cả các nghệ thuật kể cả âm nhạc. Luận lý học là một khoa học vì nó có thể được trình bày dưới nhiều định luật giống như các định luật vật lý và hình học, nó cũng là một nghệ thuật vì nó tập cho tư tưởng quen với lối suy nghĩ chính xác.

Socrate rất chú trọng đến những định nghĩa, đó là bước đầu của luận lý học. Platon luôn luôn tìm cách làm sáng tỏ các ý niệm của mình. Voltaire thường nói: "Nếu anh muốn nói chuyện với tôi, trước hết hãy định nghĩa các danh từ của anh !". Rất nhiều cuộc tranh luận vô ích, rườm rà, tốn nhiều giấy mực và xương máu có thể tránh khỏi nếu các phe liên hệ định nghĩa rõ ràng những danh từ của mình. Đó là nền tảng của luận lý học, tất cả các ý niệm, các danh từ đều phải được cân nhắc kỹ càng, đó là một công việc khó khăn, nhưng một khi đã làm xong thì mọi khó khăn đã bớt đi được một nửa.

Làm thế nào để định nghĩa một vật hoặc một danh từ ? Aristote trả lời rằng trong mọi định nghĩa chính xác cần phải có 2 phần: phần thứ nhất chỉ rõ vật ấy thuộc loại nào, phần thứ hai chỉ rõ trong loại ấy, vật ấy có những gì đặc biệt ? Ví dụ người là một con vật có lý trí. Định nghĩa này nêu rõ 2 phần: phần thứ nhất chỉ rõ người là một con vật, phần thứ hai chỉ rõ người khác những con vật khác ở chỗ nào: ở lý trí.

Có một vấn đề đã làm cho Aristote bất đồng với Platon và gây ra nhiều cuộc tranh luận sôi nổi. Theo Aristote thì những danh từ như: người, sách, cây ... chỉ những vật tổng quát và trừu tượng không có trên thực tế. Những vật có thật phải được xác định bằng những tên gọi như ông Athènes, ông B.

Theo Platon thì những vật tổng quát có thực chất và tồn tại lâu dài hơn những vật đã được xác định. Vì lẽ ấy mà Platon đã cho rằng Quốc gia có trước cá nhân. Sự cách biệt này có ảnh hưởng rộng lớn trong tư tưởng của hai triết gia. Aristote thì thực tế, luôn luôn chú trọng đến hiện tại và có một thái độ khách quan. Trong khi Platon thì mơ mộng, luôn luôn nghĩ đến tương lai và có một thái độ chủ quan. Một trong các phát minh của Aristote trong lãnh vực luận lý là tam đoạn luận. Đó là một lối suy luận theo 3 phần, phần thứ ba hay là phần kết luận theo sau phần thứ nhất và phần thứ hai. Thí dụ người là con vật có lý trí, Socrate là người, vậy Socrate là một con vật có lý trí. Tam đoạn luận có thể được áp dụng trong toán học theo các công thức sau đây: A = B, B = C vậy  C = A. Điều khó khăn cần phải giải quyết trong một tam đoạn luận là nếu phần thứ nhất không được chính xác thì phần kết luận lẽ cố nhiên cũng sai. Tuy nhiên, người ta thường chú trọng đến phần kết luận hơn là phần thứ nhất, do đó tam đoạn luận không đem đến những kết quả tốt. Với sự trình bày các phương pháp luận lý Aristote đã có công lớn với nhân loại là đặt nền tảng cho phương pháp suy luận chính xác mặc dù môn luận lý học gặp những chông gai và được coi như một môn học khó hiểu.

 

4. HỆ  THỐNG  KHOA  HỌC :

 4.1. Khoa học Hy Lạp trước thời Aristote:

 Học giả Renan cho rằng Socrate đem triết lý cho nhân loại, còn Aristote đem khoa học cho nhân loại. Đành rằng trước Socrate và trước Aristote  cũng có khoa học và triết lý nhưng còn trong trạng thái thô sơ. Đã có nhiều cuộc nghiên cứu của người Hy Lạp để phát triển khoa học nhưng những cuộc nghiên cứu ấy ngày nay không thể xem là khoa học mà chỉ có thể xem như một loại thần học. Nói một cách khác, dân Cổ Hy Lạp có khuynh hướng giảng giải tất cả những hiện tượng thiên nhiên như là hành vi của các thần linh.

 Một vài người tiên phong tìm cách đi ra khỏi ngõ bí ấy. Thalès (649 - 550 tTL) được coi là cha đẻ của triết lý xuất thân là một nhà thiên văn lên tiếng công kích thói mê tín, xem các tinh tú trên trời như những thần linh. Môn đệ của Thalès là Anaximandre có công vẽ những vị trí của những tinh tú và đưa ra thuyết táo bạo rằng vũ trụ trước kia chỉ là một khối loãng, các hành tinh và định tinh từ trong khối ấy mà ra. Vũ trụ xoay vần theo từng chu kỳ hợp rồi tan, tan rồi hợp. Trái đất nằm trên không trung nhờ sức hút, tất cả các hành tinh đều có chất lỏng, dần dần chất lỏng ấy bốc hơi do ảnh hưởng của mặt trời. Đời sống bắt đầu ở dưới biển và lần lần xuất hiện trên mặt đất vì biển bị bốc hơi. Những con vật không còn nước để sống dần dần tập thở không khí, đó là thuỷ tổ của những giống vật sống trên đất. Ngay cả loài người cũng phải có một hình dáng khác bây giờ. Vì nếu loài người quá yếu ớt lúc sơ sinh và đòi hỏi quá nhiều thời gian để trưởng thành như ngày nay thì không sao có thể tồn tại đến ngày nay.

 Một triết gia khác Anaximènes cho rằng vũ trụ bắt đầu bằng một khối chất loãng. Khối ấy dần dần cô đọng lại thành gió, mây, nước, đất và đá. Ba trạng thái của vật là trạng thái khí, lỏng và đặc là 3 giai đoạn của sự cô đọng. Động đất là do sự cô đọng chất lỏng trong lòng đất. Đời sống và linh hồn là một sức mạnh tiềm tàng có mặt khắp nơi.

 Anaxagoras tìm cách giảng giải nhật thực và nguyệt thực. Ông là thầy học của danh tướng Periclès. Ông khám phá sự hô hấp của cây cỏ và loài vật. Ông đưa ra giả thuyết rằng sở dĩ loài người thông minh hơn súc vật là nhờ biết đi 2 chân trong khi dành 2 tay để làm những việc khác.

 Một học giả khác tên là Héraclite đã hy sinh tất cả của cải để hiến mình cho sự nghiên cứu khoa học. Ông tìm thấy rằng tất cả mọi vật đều thay đổi. Tạo hoá xoay vần theo từng chu kỳ. Sự đấu tranh là cha đẻ của vạn vật. Một học giả khác đã đưa ra thuyết tiến hoá: ông cho rằng các bộ phận trong cơ thể của muôn loài đều thay đổi theo với luật đào thải. Những bộ phận nào đáp ứng với nhu cầu và thích hợp với hoàn cảnh sẽ được tồn tại trong khi những bộ phận khác không thích hợp sẽ bị đào thãi. Một vài học giả khác đã đi gần đến thuyết nguyên tử dù một cách rất thô sơ. Họ cho rằng ngoài thế giới hiện tại còn có vô số thế giới khác. Các hành tinh trong vũ trụ thường va chạm nhau và làm tan vỡ nhiều thế giới. Trên đây là những điều mà các học giả Hy Lạp dưới thời Aristote đã tìm thấy. Cần phải công nhận mặc dù với những dụng cụ thô sơ, công trình phát minh của họ không phải nhỏ. Mặt khác, chính chế độ nô lệ làm trì hoãn các phát minh khoa học giúp ích đời sống: trong khi các nô lệ làm tất cả những công việc nặng nhọc thì không ai nghĩ đến việc phát minh máy móc làm gì. Trái lại phần lớn tư tưởng các học giả hướng về các vấn đề chính trị và xã hội trong một nước Hy Lạp bị chia rẽ bởi nhiều phe nhóm chống đối nhau gay gắt. Do đó triết lý và khoa học chính trị có phần phong phú hơn những ngành khoa học khác.

 4.2 Aristote một nhà nghiên cứu thiên nhiên:

 Nếu chúng ta bắt đầu bằng cách khảo sát một tác phẩm của Aristote nhan đề là Vật lý học, chúng ta sẽ bị thất vọng. Sự thật là trong cuốn vật lý học ấy chỉ trình bày những khái niệm siêu hình về vật chất, sự chuyển động, không gian, thời gian, nguyên lý, và những khái niệm tương tự. Một đoạn đặc sắc trong tác phẩm trên là đoạn công kích khái niệm chân không của một học giả đương thời. Aristote cho rằng trong vũ trụ không làm gì có chân không. Ngày nay thuyết của Aristote đã bị khoa học chứng minh là sai, nhưng chính nhờ sự công kích mà chúng ta biết được một thuyết khoa học có giá trị. Về khoa thiên văn Aristote không tiến bộ hơn các học giả đương thời là bao. Ông công kích thuyết của Pythagore cho rằng mặt trời là trung tâm điểm của thái dương hệ, ông một dành vinh dự ấy cho trái đất. Tuy nhiên ông cũng có nhiều nhận xét giá trị về sức nóng của mặt trời làm bốc hơi nước biển, làm cạn sông ngòi, nước bốc hơi thành mây và rơi xuống thành mưa. Ông cho rằng xứ Ai cập là công trình của xông Nil: chính phù sa của nước sông này trong hàng ngàn thế kỷ đã đem lại cho xứ Ai cập những vùng đất phì nhiêu. Aristote cũng đã giảng giải một cách thoả đáng sự thành lập các lục địa trên trái đất, ông cho rằng các lục địa được nảy sinh và dần dần biến mất dưới đáy biển cùng với tất cả những nền văn minh ở trên ấy trong một sự thay đổi tuần hoàn. Con người đi từ trạng thái sơ khai đến trạng thái văn minh cực độ rồi sẽ trở về trạng thái sơ khai do những biến cố vĩ đại của tạo hoá.

 4.3 Nền tảng của khoa sinh vật học:

  Trong khi Aristote quan sát những loại sinh vật trong vườn bách thảo rộng lớn của ông, tự nhiên ông nhận thấy rằng những loại sinh vật có thể được xếp hạng và giữa những hạng ấy có những mối liên hệ mật thiết trong nhiều phương diện khác nhau chẳng hạn như trong sự cấu tạo cơ thể, cách sinh sống, sự thụ thai, sự cảm xúc... Những mối liên hệ này nối liền những loại sinh vật thô sơ nhỏ bé nhất đến những loại sinh vật phức tạp nhất. Trong lĩnh vực những loại sinh vật thô sơ nhỏ bé người ta rất khó lòng phân biệt một sinh vật và một khoáng chất. Aristote cho rằng ranh giới giữa một sinh vật và một khoáng chất trong lãnh vực này rất mơ hồ và đáng nghi ngờ. Mặt khác, người ta không thể phân biệt động vật và thực vật. Đối với một vài loại có thể xem là thực vật cũng được mà xem là động vật cũng được. Trong nhiều trường hợp khác rất khó phân biệt một loại này với một loại khác. Người ta có thể kết luận rằng đời sống trên trái đất phát triển một cách liên tục từ trạng thái thô sơ nhất đến trạng thái phức tạp nhất. Trí thông minh cùng phát triển theo với trạng thái, nói cách khác: trạng thái càng phức tạp, trí thông minh càng phát triển. Đồng thời các cơ quan kiểm soát càng ngày càng tập trung, thần kinh hệ được phát triển cùng với sự tập trung này.

Mặc dù có những nhận xét xác đáng kể trên, Aristote không chủ trương thuyết tiến hoá. Ông đả kích thuyết cho rằng  các sinh vật đấu tranh để sống và chỉ những sinh vật nào thích hợp nhất mới được tồn tại. Ông cũng phủ nhận  thuyết cho rằng con người trở nên thông minh nhờ dùng 2 tay để làm việc thay vì để di chuyển. Ông nói rằng cần phải suy nghĩ ngược lại nghiã là con người biết dùng 2 tay để làm việc vì đã trở nên thông minh.

Vì các phương tiện nghiên cứu và quan sát trong lãnh vực này còn thiếu sót nên Aristote có nhiều lầm lẫn: Ông không biết gì về sự hiện hữu của các bắp thịt trong cơ thể, ông không phân biệt động mạch và tĩnh mạch, ông tưởng rằng khối óc dùng để làm cho máu trở nên lạnh, ông tin rằng đàn ông có nhiều mảnh xương sọ hơn đàn bà, ông tin rằng người ta chỉ có 8 cặp xương sườn và đàn bà có ít răng hơn đàn ông.

Đó là những sự nhầm lẫn tuy rõ ràng nhưng không quan trọng so với sự đóng góp của Aristote vào nền sinh vật học. Ví dụ ông biết rằng loài chim và loài bò sát có cơ thể rất giống nhau, loài khỉ là một loài trung gian giữa người và vật 4 chân. Ông nhận xét rằng linh hồn của trẻ sơ sinh cũng giống như linh hồn của súc vật. Các món ăn quyết định cách sinh sống: có những con thú sống theo đàn, có những con thú sống cô độc, miễn làm sao chúng có thể kiếm ăn một cách dễ dàng. Ông đã tìm ra kết luận gần giống như thuyết của Von Baer về các đặc tính của giống nòi và thuyết của Spencer về sự tương quan của các giống vật và sự phát triển của chúng. Nói một cách khác, một giống vật càng phát triển thì sự sinh đẻ càng ít. Ông nhận xét khuynh hướng bình đẳng của các giống vật nghĩa là những phần tử xuất chúng, do sự giao cấu với các phần tử thấp kém hơn dần dần sẽ mất các đặc tính của mình. Sau hết Aristote tạo nên một khoa học về sự phát triển của bào thai. Ông nói rằng muốn quan sát sự vật một cách chính xác không gì bằng quan sát ngay trong thời kỳ thai nghén. Hyppocrate cũng đã áp dụng phương pháp này bằng cách quan sát trứng gà lộn trong những thời kỳ khác nhau và đã viết cuốn sách nhan đề là Nguồn gốc của đứa trẻ. Aristote cũng nghiên cứu hiện tượng này và những nhận xét của ông còn làm cho các nhà khoa học ngày nay phải ngạc nhiên. Chắc ông đã làm nhiều thí nghiệm về khoa sinh sản vì ông phủ nhận thuyết cho rằng nam tính hoặc nữ tính của bào thai phụ thuộc vào vị trí của ngọc hành. Ông còn đưa ra nhiều vấn đề thời sự về nhân chủng chẳng hạn như ông đã nhận xét một cuộc hôn nhân giữa người đàn bà da trắng và người đàn ông da đen. Tất cả những đứa con sinh ra đều da trắng nhưng đến thế hệ thứ hai thì nhiều đứa con da đen xuất hiện. Đó chỉ là một nhận xét mở đầu cho định luật danh tiếng về nhân chủng học mệnh danh là định luật Mendel. Nói tóm lại mặc dù những sai lầm trong các tác phẩm về sinh lý học của ông, Aristote cũng đã đặt nền móng cho khoa học này. Nếu chúng ta để ý rằng các phương pháp sưu tầm và nghiên cứu thời ấy rất thô sơ, chúng ta phải công nhận thiên tài vĩ đại của Aristote.

 

5. SIÊU  HÌNH  HỌC VÀ  THỰC  CHẤT  CỦA THIÊN  CHÚA:

 Có thể nói rằng siêu hình học theo Aristote là sự tiếp tục của sinh lý học. Tất cả mọi vật trong vũ trụ đều tiến hoá do một sức mạnh nội tâm. Mỗi một thực thể có thể được xem như một hình thể do một nguyên thể mà phát sinh ra. Ví dụ con người là hình thể, do đứa trẻ là nguyên thể phát sinh. Đứa trẻ là hình thể do bào thai là nguyên thể phát sinh. Bào thai là hình thể do noãn châu là nguyên thể phát sinh. Nếu chúng ta đi lần mãi vào nguồn gốc của nguyên thể chúng ta sẽ tìm thấy một ý niệm về nguyên thể mà không có hình thể (tức là Thiên chúa). Tất cả mọi vật trong vũ trụ đều tiến triển đến một cứu cánh, cứu cánh cuối cùng mới là quan trọng. Những sự nhầm lẫn của tạo hoá là nguyên do của những quái thai. Sự phát triển không phải là một việc ngẫu nhiên mà chính đã được hướng dẫn từ bên trong. Ví dụ cái trứng gà được cấu tạo để thành một con gà chứ không phải một con vịt, hột bồ đề được cấu tạo để thành một cây bồ đề chứ không phải một cây lau. Do đó theo quan niệm của Aristote thì quyền lực của Thiên chúa được thể hiện trong các hiện tượng thiên nhiên.

Aristote quan niệm rằng có một Thiên chúa. Ông đi từ quan niệm cử động trong vũ trụ: mọi vật trong vũ trụ đều cử động xoay vần mãi mãi, nguyên do sự cử động ấy là ở đâu ? Aristote cho rằng nguyên do ấy là ở Thiên chúa, đó là vị chúa tể đã làm cho các tinh tú và hành tinh trong vũ trụ hoặc các yếu tố nhỏ hơn được xoay vần cử động theo một định luật bất di bất dịch. Vị chúa tể này không có hình thể, không thể phân chia, không thể thay đổi, không thể bị huỷ diệt. Theo Aristote thì Thiên chúa không tạo nên vũ trụ, ngài chỉ làm cho vũ trụ cử động. Ngài là cứu cánh cuối cùng của sự vật, là nguyên thể của vũ trụ, là lẽ sống, là toàn thể những diễn tiến sinh lý, là động lực của toàn thể. Ngài là năng lực hoàn toàn, có thể so sánh được với quan niệm năng lực của nền khoa học và triết lý hiện đại.

Aristote còn quan niệm rằng thượng đế là một thực thể có nhiều bí hiểm vì ngài không bao giờ làm gì, không có ý muốn, không có mục đích, không có hành động. Vì ngài là đấng toàn năng nên không bao giờ ngài ước muốn, vì không ước muốn nên không bao giờ ngài hành động.

 

 6. TÂM LÝ HỌC VÀ BẢN CHẤT CỦA NGHỆ THUẬT :

 Tâm lý học của Aristote cũng có nhiều khó hiểu và mâu thuẫn. Trong của tác phẩm có nhiều đoạn đáng để ý, chẳng hạn Aristote là người đầu tiên biết đến mãnh lực của thói quen và xem đó như thiên chất thứ hai của con người. Đối với vấn đề tự do của ý chí và bất tử của linh hồn thì ý kiến của Aristote không được đồng nhất, khi thì ông lý luận theo thuyết định mệnh nghĩa là con người không thể làm khác hơn cái gì định mệnh đã an bài. Khi thì ông cho rằng con người có tự do định đoạt số phận của mình bằng cách lựa chọn những bối cảnh của cuộc sống, ví dụ chúng ta có thể tự tạo nên một nhân cách bằng cách chọn lựa bè bạn, sách báo, nghề nghiệp và các trò giải trí. Aristote không tiên liệu rằng những kẻ theo thuyết định  mệnh sẽ cãi lại ông ta bằng cách nói rằng chính tánh tình của chúng ta ảnh hưởng đến sự chọn lựa bè bạn, sách báo, nghề nghiệp và trò giải trí của chúng ta. Aristote còn cho rằng con người muốn được khen và sợ bị chỉ trích, chính yếu tố này làm cho họ phải chọn lựa và cũng chứng minh sự tự do chọn lựa của con người. Lý luận này cũng không đứng vững vì chính sự khen chê định đọat hành vi của con người chứ không phải sự tự do lựa chọn.

Aristote còn đưa ra một lý thuyết về linh hồn. Theo ông thì linh hồn là sức sống của mọi sinh vật. Trong cỏ cây thì linh hồn chỉ là khả năng dinh dưỡng và sinh sản, trong loài động vật linh hồn là khả năng di chuyển và cảm xúc, trong loài người linh hồn là khả năng lý luận và suy tư. Vì là một khả năng, linh hồn không thể tồn tại ngoài thể chất. Tuy nhiên trong một đoạn khác bằng một lối lý luận dông dài, Aristote lại cho rằng linh hồn có thể tồn tại. Lối lý luận này tỏ ra mâu thuẫn và có nhiều chỗ tối nghĩa.

Trong một tác phẩm khác, Aristote bàn về nghệ thuật và thẩm mỹ. Ông nói rằng nghệ thuật phát minh do nhu cầu của con người muốn diễn tả những cảm nghĩ, cảm giác của mình. Trong bản chất, nghệ thuật là một sự bắt chước và phản ảnh thiên nhiên giống như cái kiếng thu những hình ảnh của tạo vật. Trong tất cả mọi người đều có bản năng bắt chước, một bản năng mà thú vật thấp kém không có. Tuy nhiên mục đích của nghệ thuật không phải là diễn tả bề ngoài của sự vật mà chính là diễn tả ý nghĩa ở bên trong.

Nghệ thuật cao cả nhất vừa đánh động lý trí vừa đánh động tình cảm, tạo nên một khoái cảm cao cả nhất cho con người. Do đó các công tác nghệ thuật phải hướng về sự đồng nhất. Ví dụ một vở kịch phải có cốt chuyện đồng nhất, nghĩa là không được có những giai đoạn đi ra ngoài đề. Sau cùng nhiệm vụ của nghệ thuật là sự thanh lọc: những cảm giác chất chứa trong con người do đời sống xã hội tạo nên có thể tìm thấy ở nghệ thuật một lối thoát êm đẹp thay vì gây ra sự bạo động. Những ý nghĩ trên đây ngày nay vẫn còn có giá trị và mở màn cho những thuyết tân kỳ về sức mạnh của nghệ thuật.

 

7. ĐẠO  ĐỨC  HỌC    BẢN  CHẤT  CỦA  HẠNH  PHÚC:

 Số môn đồ đến xin học với Aristote càng ngày càng đông, môn học càng ngày  càng mở rộng từ vấn đề khoa học đến các vấn đề đạo đức. Những câu hỏi sau đây được đặt ra: cuộc đời lý tưởng phải thế nào ? Cái gì là mục đích  tối thượng của cuộc đời ? Đạo đức là gì ? Làm sao có thể tìm thấy hạnh phúc ?

 Thái độ của Aristote rất thực tế trước những vấn đề này. Ông không khuyên bảo môn đệ phải theo những lý tưởng quá cao xa. Quan niệm về bản chất con người của Aristote là một quan niệm rất lành mạnh: tất cả những lý tưởng đều có một căn bản thiên nhiên và tất cả những cái gì thiên nhiên đều có thể nẩy nở thành lý tưởng. Aristote chấp nhận một cách thẳng thắn rằng mục đích trực tiếp của cuộc đời không phải là cái hay cái đẹp mà chính là hạnh phúc. Aristote nói rằng người ta tìm kiếm tiền tài, danh vọng, khoái lạc vì người ta tưởng rằng những thứ đó đem đến hạnh phúc. Tuy nhiên cần phải biết rõ hạnh phúc thật sự là gì và con đường nào đưa đến hạnh phúc. Aristote trả lời câu hỏi này bằng cách tìm những đặc điểm phân biệt loài người và những loài vật khác. Ông cho rằng hạnh phúc là sự phát triển hoàn toàn đầy đủ các đức tính của con người. Đức tính nổi bật nhất của loài người là khả năng suy luận, chính nhờ đức tính này mà loài người đứng trên tất cả loài vật khác. Chính vì vậy mà khả năng suy luận một khi được phát triển hoàn toàn đầy đủ sự đem đến hạnh phúc hoàn toàn cho con người.

 Điều kiện của hạnh phúc do đó là sự phát triển của khả năng suy luận. Đạo đức tuỳ thuộc vào sự suy luận chính xác, sự kiểm soát tinh thần, sự quân bình của lòng ham muốn. đó không phải là những đức tính của những người thường mà là kết quả của sự tập luyện và kinh nghiệm trong những người hoàn toàn trưởng thành. Con đường đi đến mục đích đó là ý niệm trung dung. Mỗi một đặc tính có thể xếp thành 3 loại: loại đầu và loại chót là những đặc tính quá khích, chỉ loại giữa mới là đạo đức . Ví dụ sự nhút nhát và tánh liều lĩnh thuộc về loại đầu và loại chót, nghĩa là những đặc tính quá khích. Tánh rộng rãi nằm giữa tánh biển lận và phung phí. Tánh khiêm nhượng nằm giữa tánh rụt rè và ngạo mạn. Tánh vui vẻ nằm giữa tánh cau có và tánh ba hoa sống sượng ...

 Thuyết trung dung không phải là một thuyết có thể áp dụng một cách máy móc theo toán học. Điểm trung dung có thể thay đổi tuỳ theo trường hợp và chỉ có thể tìm thấy bằng sự suy luận trưởng thành. Chính thói quen quy luận đưa người ta đến chỗ thánh thiện. Một người hành động chính đáng không phải vì lý do họ là một người có đạo đức nhưng ngược lại chính vì họ có đạo đức do sự huấn luyện suy tư công phu mà họ hành động chính đáng. Con người có thể được đánh giá bằng những hành động của  họ. Do đó sự thánh thiện không phải là một hành động đơn độc mà chính là một thói quen. Người ta còn nhớ câu nói bất hủ của Aristote về vấn đề này: "Một con én không làm nổi một mùa xuân". Tuổi trẻ là thời kỳ quá khích: nếu một thiếu niên lầm lỗi thì chắc chắn lỗi lầm đó là do sự quá khích mà ra. Sự khó khăn của tuổi trẻ là làm sao không đi từ thái cực này đến thái cực khác vì người ta thường có khuynh hướng sửa sai một cách quá đáng. Những người ở một thái cực có khuynh hướng cho rằng đạo đức không phải nằm ở điểm trung dung mà nằm ở thái cực kia.

 Họ có khuynh hướng sửa mình như một người uốn một khúc tre cong: muốn làm khúc tre thẳng họ phải uốn cong về chiều ngược lại. Cũng có trường hợp những kẻ quá khích xem điểm trung dung như một lỗi lầm lớn, người can đảm bị kẻ nhút nhát xem là liều lĩnh trong khi đó những người liều lĩnh lại xem những người can đảm như là nhút nhát. Trong lãnh vực chính trị những kẻ ôn hoà bị kẻ quá khích xem là bảo thủ và bị kẻ bảo thủ xem là quá khích.

Thuyết trung dung là một đặc điểm chẳng những của Aristote mà còn của nền triết lý Hy Lạp. Platon xem đạo đức là những hành động điều hoà không quá khích, Socrate xem đạo đức là do sự suy luận mà có, trong đền thờ Apollon người ta có khắc những chữ meden agan có nghĩa là không làm cái gì quá trớn. Người Hy Lạp cho rằng sự đam mê tự nó không phải là một điều xấu, nó là nguyên liệu tạo nên điều xấu hoặc điều tốt tuỳ theo cách sử dụng có chừng mực hoặc không có chừng mực.

Tuy nhiên thuyết trung dung chưa phải là bí quyết đem đến hạnh phúc. Aristote cho rằng những nhu cầu vật chất cũng cần thiết. Sự nghèo túng quá độ làm cho con người đâm ra biển lận, một tài sản vừa phải đem đến cho con người một đời sống tự do không tham lam giành giựt quá đáng, đó cũng là một đặc điểm của chế độ quý tộc. Một yếu tố khác rất cần thiết cho đời sống hạnh phúc là sự kết bạn. Càng được san sẻ, hạnh phúc càng tăng trưởng. Khái niệm về công bằng không quan trọng trong tình bằng hữu, khi đã là bạn, người ta không nghĩ đến sự công bằng so đo tính toán trong việc giao thiệp. Mặt khác, số bạn chân thật không thể có nhiều: kẻ nào có quá nhiều bạn thật ra không có người bạn nào. Làm bạn với tất cả mọi người là một điều không thể thực hiện được. Tình bạn chân thật phải được thử thách với thời gian, nó đòi hỏi sự ổn định trong tánh tình. Một khi tánh tình không ổn định thì sự kết bạn lẽ cố nhiên cũng bị ảnh hưởng. Bình đẳng là một yếu tố cần thiết trong sự giao thiệp, sự biết ơn không làm cho sự giao thiệp được lâu dài. Những kẻ thi ơn luôn luôn muốn người khác chịu ơn mình mãi mãi trong khi những kẻ chịu ơn luôn luôn muốn xa lánh kẻ thi ơn càng sớm càng tốt. Do đó, sự giao thiệp không thể nào được vững bền.

Mặc dù các tiện nghi vật chất cần thiết cho đời sống hạnh phúc, yếu tố chính là sự sáng suốt của tâm hồn. Những khoái lạc giác quan không phải là chìa khoá của hạnh phúc. Một đời sống chính trị như làm lãnh tụ một quốc gia hoặc một đảng phái không thể đi đôi với hạnh phúc. Những người làm chính trị phải chiều theo sở thích của quần chúng mà không có gì thay đổi bấp bênh bằng sở thích quần chúng. Hạnh phúc phải là sự khoái lạc của tâm trí.

Con người lý tưởng của Aristote không làm việc nguy hiểm một cách vô ích nhưng gặp trường hợp cần thiết họ có thể hy sinh tánh mạng vì có nhiều lúc đời sống thật không còn đáng sống. Họ sẵn lòng giúp đỡ kẻ khác nhưng nhận sự giúp đỡ một cách rất dè dặt. Họ không tìm cách phô trương, họ thẳng thắn nói lên những điều ưa và ghét, hành động một cách chân thật.

Họ không bao giờ khen ai quá đáng vì họ nhận thấy rằng ở trên đời thật sự không có cái gì đáng khen cả. Họ không thể sống a dua với kẻ khác vì tánh a dua là đặc tính của kẻ nô lệ. Họ không bao giờ muốn làm hại ai và sẵn lòng tha thứ tất cả những lỗi lầm của kẻ khác. Họ không muốn nói chuyện nhiều, cũng không muốn được người khác tâng bốc hoặc chỉ trích người khác. Họ không nói xấu người khác dù đó là kẻ thù của họ. Họ đi đứng khoan thai, nói năng ôn tồn, không bao giờ hấp tấp vì tâm trí họ không bị bận rộn bởi những điều phức tạp. Họ không bao giờ hăng hái quá độ vì họ biết rằng trên đời này không có cái gì quan trọng. Họ chịu đựng những sự bất trắc ở đời một cách vui vẻ và đoan trang, giống như một tướng lãnh giỏi cầm quân ngoài mặt trận nắm vững chiến thuật chiến lược. Họ thích sống một mình và không sợ sự cô đơn. Đó là con người lý tưởng của Aristote.

 

8. KHOA  HỌC - CHÍNH  TRỊ

 8.1. Cộng sản và bảo thủ:

Tư tưởng chính trị của Aristote lẽ tất nhiên phải chịu ảnh hưởng của những tư tưởng về đạo đức kể trên. Nói cách khác Aristote thiên về chế độ quí tộc. Mặt khác, với tư cách là thầy học của một vị hoàng đế và chồng của một vị công chúa, Aristote không có lý do để thiên về thuyết dân chủ hoặc có cảm tình với giai cấp thương gia: Túi tiền của chúng ta nằm ở đâu, triết lý của chúng ta nằm ở đó.

Thêm vào đó tư tưởng ôn hoà của Aristote có thể xem là hậu quả của những tệ đoan do một nền dân chủ quá bê bối. Ông ước mong tìm lại nền an ninh trật tự và hoà bình. Ông cho rằng cần phải chấm dứt những cuộc phiêu lưu chính trị. Chỉ trong những tình thế ổn định con người mới có quyền quá khích. Aristote nói rằng :"người ta có thói quen thay đổi luật lệ quá dễ dàng, làm như vậy lợi bất cập hại. Chúng ta cần phải chịu đựng những điểm thiếu sót nhỏ nhặt của nhà làm luật hơn là đòi thay đổi luật pháp. Quốc gia sẽ không có lợi gì một khi dân chúng làm quen với thái độ bất phục tùng và luôn luôn đòi thay đổi luật pháp. Sự tuân hành luật pháp (rất cần thiết cho sự ổn cố chính trị ) thường bắt nguồn ở tập tục. Thay đổi luật pháp khác gì phá vỡ nguồn gốc của sự tuân hành luật pháp.

Aristote chỉ trích chế độ cộng sản của Platon, cho đó là một chế độ không tưởng. Ông không đồng ý với cuộc sống tập thể của giai cấp thống trị theo kiểu Platon; ông thích những đức tính cá nhân, sự tự do, sự hữu hiệu và trật tự xã hội. Ông không muốn xem tất cả người xung quanh là anh chị, xem tất cả người có tuổi là cha mẹ. Nếu tất cả đều là anh chị, lẽ tất nhiên không có người nào thực sự là anh chị. Thà rằng có một người bà con xa, song thật sự là bà con còn hơn có những người bà con theo kiểu Platon. Trong một xã hội mà tất cả phụ nữ và nhi đồng đều là của chung, tình yêu thương sẽ phai nhạt. Chỉ những cái gì thực sự của ta mới được chiều chuộng và gắn bó.

Rất có thể rằng trong quá khứ xa xôi có một xã hội sống theo chế độ cộng sản. Trong xã hội đó một gia đình được coi như một quốc gia và tất cả hoạt động kinh tế tập trung vào việc cày ruộng và nuôi súc vật. Đối với một xã hội phát triển hơn, cần có sự phân công phức tạp hơn, khả năng của con người không thể đồng nhất như xưa và do đó không thể áp dụng chế độ cộng sản được. Cần phải có sự thúc đẩy tâm lý con người mới chịu tự rèn luyện để đảm nhận những công việc chuyên môn, cần phải có phần thưởng của tư sản con người mới chịu hăng hái phát triển kỹ nghệ và chăn nuôi. Khi tất cả tài sản là của chung, thì không một ai chịu lo lắng giữ gìn tài sản ấy, người ta có khuynh hướng lo lắng cho cái gì thuộc riêng mình và hoàn toàn lơ là trước các vấn đề chung. Cuộc sống tập thể theo kiểu cộng sản tạo nhiều vấn đề nan giải, không chóng thì chầy các cá nhân sẽ tìm cách gây gổ nhau để phân chia của cải.

Người ta thường chỉ trích chế độ tư sản, cho đó là nguyên do của tất cả các tệ đoan xã hội. Sự thật thì nguyên do của các tệ đoan ấy không phải ở chế độ tư sản mà ở bản tánh con người. Khoa học chính trị không đủ sức để làm nên những con người mới mà phải quan tâm đến đặc tánh hiện hữu của con người. Nói một cách tổng quát, con người gần con thú hơn là gần các thiên thần. Phần đông đều u mê và lười biếng. Dù ở trong chế độ nào đi chăng nữa những người ấy cũng nằm vào hạng chót. Chủ trương giúp đữ họ không khác gì chủ trương đổ nước vào một cái thùng bể. Họ phải được cai trị trên phương diện chính trị và sai bảo trên phương diện kinh tế, sự đồng ý của họ hoàn toàn không cần thiết. Từ lúc ra đời đã có những người sinh ra để bị sai khiến và những người khác sinh ra để sai khiến. Những người có khả năng suy nghĩ và tiên liệu là những người sinh ra để làm chủ, những người chỉ có thể làm việc bằng chân tay là những người sinh ra để bị sai khiến. Sự phân công trong xã hội không khác gì sự phân công trong cơ thể: những người chỉ huy không khác gì bộ óc, những người thi hành không khác gì chân tay, chân tay phải phụ thuộc vào bộ óc cũng như người thừa hành phụ thuộc vào người chỉ huy. Người thừa hành là một dụng cụ có đời sống và dụng cụ là một người thừa hành không có đời sống. Aristote tiên liệu sự tiến triển của xã hội đến một đời sống máy móc khi ông viết những dòng sau đây: "Nếu tất cả các dụng cụ đều tự động làm việc, nếu máy dệt tự dệt lấy quần áo, nếu cái đàn tự phát ra những âm thanh... thì lúc đó người ta không cần đến những kẻ thừa hành hoặc những nô lệ nữa".

Lối suy nghĩ trên chứng tỏ thái độ khinh nghề lao động chân tay của người Hy Lạp. Nguyên do là đời sống lúc bấy giờ còn thô sơ và công việc lao động chân tay không đòi hỏi nhiều khả năng như bây giờ. Aristote xem những người lao động chân tay như những người hoàn toàn không biết suy nghĩ. Những công việc ấy chỉ thích hợp với giai cấp nô lệ và cũng dễ nô lệ hoá con người. Aristote cho rằng công việc lao động chân tay làm cho trí óc cằn cỗi, không có thì giờ hoặc năng lực để suy nghĩ về chính trị. Do đó Aristote cho rằng chỉ những người rảnh rang mới được quyền tham gia chính trị. Những kẻ làm thợ nhiều khi còn bị mất quyền công dân. Ở Thèbes còn có một đạo luật cấm những thương gia giữ chức vụ trong chính phủ nếu họ chưa hoàn toàn từ bỏ tất cả các hoạt động thương mãi trong thời hạn 10 năm trở về trước. Những kẻ cho vay, đổi tiền, được Aristote xếp vào hạng nô lệ. Ông coi việc buôn bán như một hành động bất chính và sự cho vay nặng lãi như một hành động đáng ghét. Tiền bạc dùng để giao hoán, không phải để sinh lợi. Sự nghiên cứu tài chánh là những việc đáng làm đối với một triết gia, nhưng các hoạt động tài chánh là những việc không xứng đáng với một công dân.

8.2. Hôn nhân và giáo dục :

            Đàn bà là nô lệ, đàn ông là chủ. Sự tương quan giữa đàn bà và đàn ông không khác gì sự tương quan giữa những kẻ trí thức và những kẻ lao động chân tay hoặc giữa những kẻ man rợ và những công dân Hy Lạp. Aristote  cho rằng đàn bà chỉ có thể tuân lệnh. Theo bản chất, phụ nữ không có ý chí, do đó không thể tự lập. Việc làm thích hợp nhất đối với phụ nữ là coi sóc nhà cửa. Không nên làm cho phụ nữ được ngang quyền với nam giới như Platon đã chủ trương. Trái lại sự cách biệt cần phải được tăng thêm vì chính sự cách biệt ấy khuyến khích gần gũi giữa nam giới và nữ giới. Sự can đảm của nam giới khôn

 

Chương 3

Francis Bacon (1561 – 1626)

 

 1. TỪ  ARISTOTE  ĐẾN  THỜI  PHỤC  HƯNG:

  Khi bị dân thành Sparte bao vây và đánh bại vào khoảng cuối thế kỷ thứ 5 trước Tây lịch, Athènes, bà mẹ của triết học và nghệ thuật Hy Lạp, bị mất hết ưu thế chính trị, và hùng khí cùng nền độc lập của tâm thức Athènes cũng suy tàn. Khi vào năm 399 tTL Socrate bị kết án tử hình, thì linh hồn của Athènes cũng chết theo ông, chỉ còn lảng vảng nơi Platon, người môn đệ kiêu hãnh. Và khi vua Philippe xứ Macédoine đánh bại quân Athènes ở Charonea vào năm 388 tTL và 3 năm sau, khi Alexandre phóng hoả san bằng đô thị Thèbes rộng lớn, chỉ ngạo nghễ chừa lại ngôi nhà của Pindare, thì rõ ràng là nền độc lập của Athènes về chính trị và tư tưởng đã bị phá huỷ vô phương phục hồi. Sự thống trị triết học Hy Lạp do người ở thành Macédoine là Aristote phản ánh sự thuần thục chính trị của Hy Lạp đối với những dân tộc trẻ trung, hùng tính hơn đến từ phương Bắc.

             Cái chết của Alexandre (năm 323 tTL) đã thúc nhanh quá trình này. Vị hoàng tử con trai vẫn còn bán khai sau mọi sự giáo huấn của Aristote, cũng đã học được sự kính trọng nền văn hoá giàu có của Hy Lạp, và đã có mộng ước lan truyền nền văn hoá ấy khắp phương đông theo dấu những đội quân đắc thắng của mình. Sự phát triển thương mãi Hy Lạp và sự tăng bội những trạm thương mãi Hy Lạp suốt miền Á châu nhược tiểu, đã cung cấp một căn bản kinh tế cho sự thống nhất miền nầy như phần tử của một đế quốc Hy Lạp; và Alexandre hy vọng rằng từ những trạm rộn rịp nầy, tư tưởng Hy Lạp, cũng như hàng hoá Hy Lạp, sẽ toả ra để chinh phục. Nhưng ông đã đánh giá quá thấp sự trơ lì và sức chống kháng của tâm thức Đông phương, cũng như chiều sâu và khối lớn của văn hoá Đông phương. Chung quy, đấy chỉ là một tưởng tượng của tuổi trẻ, khi giả thuyết rằng một nền văn minh thiếu trưởng thành và không bền vững như văn minh Hy Lạp có thể đè đầu một nền văn minh vô cùng lan rộng hơn và có gốc rễ trong những truyền thống cổ kính nhất. Số lượng của Á châu rõ ràng là quá nhiều đối với phẩm chất của Hy Lạp. Ngay chính Alexandre, vào giờ phút chiến thắng, cũng đã bị chinh phục bởi linh hồn của phương Đông; ông cưới (trong số nhiều bà) con gái của Darius, ông du nhập vào Âu châu quan niệm đông phương về uy quyền thiêng liêng của vua chúa; và cuối cùng ông đã làm cho một Hy Lạp hoài nghi phải ngạc nhiên khi công bố, theo kiểu long trọng đông phương, rằng ông là một vị trời. Hy Lạp đã phì cười; và Alexandre đã uống rượu cho tới chết.

            Sự tan hoà tinh tế nầy của một linh hồn Á châu vào trong thể xác mỏi mệt của một vị chúa tể Hy Lạp được tiếp nối mau chóng bởi làn sóng thờ phụng và tín ngưỡng đông phương vào Hy Lạp được tiếp nối mau chóng bởi làn sóng thờ phụng và tín ngưỡng Đông phương vào Hy Lạp dọc theo chính những con đường giao thông mà vị vua chiến thắng trẻ tuổi đã mở ra; những con đê vỡ mở lối cho đại dương tư tưởng Đông phương du nhập vào những đồng bằng của tâm thức Á châu còn niên thiếu. Những đức tin thần bí dị đoan cắm rễ trong những người nghèo của xứ Hy Lạp cổ xưa bấy giờ được tăng cường và lan khắp; tinh thần thản nhiên chịu đựng của Đông phương cũng đã tìm được một mảnh đất sẵn sàng trong xứ Hy Lạp tuyệt vọng. Sự du nhập nền triết học khắc kỷ vào Athènes do thương gia người Phoenicia là Zénon (khoảng năm 310 tTL) chỉ là một trong nhiều sự xâm nhập của Đông phương. Cả hai thuyết  khắc kỷ và hưởng lạc  - sự thản nhiên chấp nhận thất bại và nỗ lực để quên thất bại trong vòng tay của lạc thú - là những lý thuyết về cách thức làm sao có thể hạnh phúc trong khi vẫn bị phục tòng hay nô lệ; hệt như thuyết khắc kỷ kiểu Đông phương bi quan của Schopenhauer và thuyết hưởng lạc tuyệt vọng của Renan vào thế kỷ 19, đã là những biểu tượng của một nền cách mạng tan rã và một nước Pháp điêu linh.

 Không phải những phản đề tự nhiên nầy của lý thuyết đạo đức hoàn toàn mới mẻ đối với Hy Lạp. Người ta gặp chúng trong một Héraclite buồn thảm và "triết gia cười" Démocrite; và người ta thấy những môn đệ của Socrate chia phân thành ra hai phái dưới sự lãnh đạo của Anthisthènes và Aristippel, một bên tán dương sự thản nhiên chịu đựng, một bên ca tụng hạnh phúc. Tuy nhiên ngay cả vào thời ấy, đây cũng là những hình thái tư tưởng hầu như xa lạ: đô thị Athènes vương giả không quen thuộc với chúng. Nhưng khi Hy Lạp đã thấy Chaeronea trong máu và Thèbes thành tro, nó mới lắng nghe Diogène, và khi vinh quang đã rời bỏ Athènes thì đô thị nầy thuần thục sẵn sàng đón Zénon và Epicure. Zénon xây dựng triết học ông về tánh thản nhiên trên một thuyết tất mệnh mà một nhà khắc kỷ sau này, Chrysippus, nhận thấy rất khó phân biệt với thuyết định mệnh của Đông phương. Khi Zénon, người không tin chủ nghĩa nô lệ, đánh đập người nô lệ mình vì một lỗi nào đó, người nô lệ đã bình thản biện hộ rằng, theo triết học của chủ, y đã bị số phận từ vô thỉ phải phạm lỗi ấy; Zénon đã trả lời rằng ông cũng thế, đã có phần số phải đánh y vì lỗi kia. Cũng như Schopenhauer cho rằng ý chí cá nhân chống lại ý chí phổ quát là việc vô ích, nhà khắc kỷ cũng lý luận rằng thái độ lãnh đạm triết lý là thái độ hợp lý duy nhất trong một đời sống mà sự tranh đấu sống còn phải chịu số phận oan uổng là luôn luôn đưa đến thất bại tất yếu. Nếu sự chiến thắng là hoàn toàn bất khả thì đáng nên khinh bỉ nó. Bí quyết của sự bình an không phải là thực hiện cho kỳ được những ham muốn, mà ham muốn thật ít để có thể thực hiện. Seneca, nhà khắc kỷ La Mã (mất năm 65) bảo: "Nếu những gì bạn có dường như không đủ cho bạn, thì dù bạn sở hữu cả thế giới bạn cũng vẫn còn khổ sở".

 Một nguyên tắc như thế kêu lên thấu trời để đòi hỏi nguyên tắc đối lập nó, và Epicure -mặc dù chính ông là một người khắc kỷ trong cuộc sống như Zénon- đã cung cấp đối lập ấy. Theo Fénelon, Epicure "đã mua một khu vườn xinh đẹp, mà tự ông chăm bón, ở đấy ông lập trường học và sống một đời êm đềm dễ chịu với các môn đệ trong khi ông đi dạo và làm việc... Ông cho rằng không gì cao quý hơn áp dụng chính bản thân mình vào triết học". Khởi điểm của ông là một niềm xác tín rằng sự buồn thảm không thể có và khoái lạc  - mặc dù không nhất thiết là khoái lạc giác quan -  là cứu cánh duy nhất có thể quan niệm  và hoàn toàn chính đáng của đời sống và hoạt động. "Thiên nhiên hướng dẫn mọi cơ thể để ưa thích tiện nghi cho riêng nó hơn mọi sự tốt đẹp khác"; ngay cả người khắc kỷ cũng tìm thấy niềm vui tế nhị trong sự khước từ. "Ta không được tránh lạc thú, nhưng phải tuyển chọn chúng". Như vậy, Epicure không phải là kẻ hưởng lạc; ông ca tụng những nguồn vui của trí thức hơn là của giác quan; ông cảnh cáo chống lại những khoái lạc kích động và quấy rối linh hồn mà đáng lẽ chúng phải làm cho an tĩnh và lắng dịu. Cuối cùng ông đề nghị tìm kiếm không phải khoái lạc trong nghĩa thông thường, mà ataraxia -sự an tĩnh, bình lặng, yên nghỉ của tâm hồn, tất cả điều ấy đều rất gần với nỗi thản nhiên chịu đựng kiểu Zénon.

 Những người La Mã đến cướp phá Hy Lạp vào năm 146 tTL, tìm thấy những học thuyết thù nghịch này đang phân chia chiến trường triết học và không có sự nhàn rỗi cũng như tế nhị để tự mình tư duy, đã mang những triết học ấy theo cùng với những của cải lượm  được chở về La mã. Những nhà tổ chức vĩ đại, cũng như những kẻ nô lệ tất yếu, đều hướng về tư thái lạnh lùng thản nhiên, thật khó mà làm chủ hay tớ nếu người ta quá nhạy cảm. Bởi thế nền triết học La Mã phần lớn thuộc học phái Zénon, dù nơi Marc Aurele vị đế vương hay nơi Épictète kẻ nô lệ; và ngay cả Lucrèce cũng nói về chủ nghĩa khoái lạc một cách  khắc kỷ  (như người Anh của Heine buồn bã hưởng lạc), và kết thúc Phúc âm khắc khổ về khoái lạc bằng cách tự tử. Bản trường ca cao thượng của ông nhan đề "Về bản chất của sự vật" mô phỏng Epicure trong việc ca ngợi khoái lạc để mà chỉ trích nó. Hầu như đồng thời cới César và Pompey, ông sống ở giữa sự náo động và hỗn loạn; ngòi bút bất an của ông luôn luôn viết những lời nguyện cầu cho an lạc hoà bình. Người ta hình dung ông như một linh hồn rụt rè mà tuổi trẻ đã bị những nỗi sợ hãi tôn giáo làm cho đen tối; vì ông không bao giờ chán bảo độc giả rằng không có địa ngục, trừ ở đây, và không có những vị thiên thần trừ những thiên thần cốt cách sống trong một khu vườn của Epicure trong những đám mây, và không bao giờ xen vào những công việc của người. Đối lập sự thờ phụng thiên đường và địa ngục đang thịnh hành trong dân chúng La Mã, ông đưa ra một thuyết duy vật tàn bạo. Linh hồn và tâm trí đều cùng tiến triển với thể xác, lớn lên với sự lớn lên của thể xác, đau với sự đau của thể xác, và chết với cái chết của xác. Không gì hiện hữu ngoài ra nguyên tử, không trung và định luật; và định luật của những định luật là định luật thành hoại lan khắp.

Không một vật gì dừng trụ, mọi sự đều tuôn chảy.

Mảnh này bám lấy mảnh kia; vạn vật cứ thế lớn dần.

Cho đến khi ta biết và đặt tên chúng.

Dần dần chúng tan rã, và không còn là những vật ta biết.

Được kết thành hình cầu từ những nguyên tử rơi nhanh hay chậm

Tôi thấy những mặt trời và những thái dương hệ thành hình;

Và ngay những thái dương hệ cùng những mặt trời ấy

Sẽ từ từ trở về chu kỳ vần xoay bất tận

Ngươi nữa, hỡi quả đất - đế quốc ngươi, đất, biển và những ngôi sao nhỏ nhất trong ngân hà,

Cũng như chúng, ngươi thành hình từ cơn xoay vần và cũng như chúng,

Ngươi sẽ đi. Ngươi đang đi, từng giờ một

Không vật gì dừng trụ: Biển của ngươi từ từ biến mất.

Những bãi cát trăng soi rời bỏ chỗ chúng;

Và nơi hoàng sa kia sẽ có những biển khác đến xoá tan bờ vịnh bằng những lưỡi hái trắng ngần (Lucretius on life and death.   pp.15-16 -Mallock diễn ra Anh ngữ- !)

 Cộng thêm vào sự thành hoại của các tinh tú là sự khởi nguyên và tận diệt của các loài:

 Ngày xưa quả đất cũng  đã sản xuất nhiều quái vật, những con vật này có mặt mày chân tay kỳ dị...; có những con không chân, có những con không tay, có những con không mồm, có những con không mắt,... Mọi quái vật thuộc loài ấy quả đất đã sản xuất, nhưng vô hiệu; vì thiên nhiên không để chúng tăng trưởng, chúng không thể đạt đến tuổi hoa niên mong mỏi, cũng không kiếm ăn được, cũng không phối hợp được trong hôn nhân; ... và nhiều loài chắc đã phải diệt dần như thế và không thể sinh con hay tiếp tục sinh sống. Vì trong trường hợp mọi sinh vật mà ta thấy hô hấp hơi thở của sự sống, từ khởi thuỷ mỗi loài đều có hoặc tài năng hoặc can đảm, hoặc vận tốc đã che chở và bảo tồn cho nó... Những loài mà thiên nhiên không cho một đặc tình nào kể trên đều sẽ bị phó mặc làm mồi cho những loài khác, cho đến khi thiên nhiên đưa chúng đến chỗ tận diệt (p. 830ff, Munro dịch).

 Các quốc gia cũng như cá nhân, từ từ lớn lên và chắc chắn phải chết: "một vài quốc gia trổi lên, vài quốc gia khác tàn tạ, và trong một khoảng ngắn thời gian, những sinh vật bị biến đổi, và cũng như những kẻ chạy đua, chuyền lại ngọn đèn của sự sống". Trước chiến tranh và cái chết không thể tránh, không có sự khôn ngoan nào ngoài ra trong thái độ an nhiên ataraxia, - "nhìn mọi sự với cõi lòng bình an". Ở đây, rất rõ, niềm vui vô thần cũ về cuộc đời đã mất, và một tinh thần hầu như xa lạ đang chạm một chiếc đàn cầm đã gãy vỡ. Lịch sử, vốn chỉ là một trò khôi hài, chưa bao giờ đùa dai cho bằng khi nó tặng danh từ "hưởng lạc" cho con người yếm thế bi tráng và tiết độ nầy.

 Và nếu đây là tinh thần của môn đồ Epicure, thì ta hãy tưởng tượng niềm lạc quan phấn khởi của những nhà khắc kỷ rõ rệt như Aurèle, hay Épictète. Không có gì trong mọi nền văn học lại buồn thảm bằng những bài "nghị luận" của người nô lệ, trừ phi những bài "Trầm tư" của vị hoàng đế. "Đừng tìm cách làm cho sự vật xảy ra như ngươi muốn, mà tốt hơn chúng xảy ra thế nào thì hãy lựa chọn thế ấy; như vậy ngươi sẽ sống phong phú" (Enchiridion and Dissertations of Epictetus, de Rolleston, p. 81). Dĩ nhiên bằng cách ấy ta có thể làm chủ tương lai và cũ trụ. Chuyện kể rằng người chủ Epictète thường xuyên đối xử tàn nhẫn với ông, một ngày kia khởi sự vặn bẻ một ống chân Epictète để tiêu khiển. Epictète bảo: "Nếu ngài tiếp tục, ngài sẽ làm gãy chân tôi". Người chủ cứ tiếp tục và cái chân gãy thật. Epictète ôn tồn nhận xét: "Đấy, há tôi đã chẳng bảo ngài sẽ làm gãy chân tôi đấy sao ?. Tuy nhiên có một vẻ gì cao thượng huyền bí trong triết lý này, như trong sự can đảm yên lặng của một người chủ hoà kiểu Dostoevski. "Đừng bao giờ bảo rằng : tôi đã mất vật nọ vật kia; mà phải nói : tôi đã trả nó về. Con của bạn chết chăng ? - nó được trả về. Vợ bạn chết chăng ? - nàng được trả về. Bạn bị tước mất hết tài sản chăng ? - há chẳng phải nó cũng  được trả về đấy hay sao ?" Trong những đoạn văn như thế ta thấy gần giống với Kitô giáo và những thánh tử đạo anh dũng của tôn giáo này; quả thế, há chẳng phải nền đạo đức Kitô giáo về sự quên mình, lý tưởng chính trị Kitô về tình huynh đệ  - gần như kiểu cộng sản -  giữa người với người và thuyết mạt thế Kitô giáo về sự thiêu huỷ cuối cùng của toàn thế giới - chính là những mảnh vụn của chủ thuyết khắc kỷ đang trôi nổi trên dòng tư tưởng. Trong Epictète, linh hồn Hy Lạp - La Mã đã mất tính cách vô thần của nó, và sẵn sàng cho một niềm tin mới. Sách của ông  có hân hạnh đặc biệt là được giáo đường Kitô sơ thuỷ áp dụng như một cuốn yếu lược tôn giáo. Từ những "Nghị luận" này và những "Trầm tư" của Aurèle đến "Sự mô phỏng đấng Kitô" chỉ cách nhau một bước.

 Trong lúc ấy bối cảnh lịch sử đang hoà vào trong những cảnh tượng mới hơn. Có một đoạn văn đặc sắc trong Lucrèce tả sự suy tàn của nông nghiệp trong cuốn La Mã, và quy sự suy tàn ấy cho lý do đất đã kiệt lực. Dù nguyên nhân nào đi nữa, sự giàu có của La mã cũng đã nhường bước cho cảnh nghèo nàn, tổ chức trở thành phân hoá, quyền lực và niềm kiêu hãnh trở thành sự suy vi và nỗi thản nhiên chịu đựng. Các đô thị rơi vào tình trạng những miền nội địa không có gì đặc sắc; đường xá rơi vào tình trạng thiếu sửa chữa và không còn tấp nập việc mậu dịch thương mãi; những gia đình nhỏ của người La mã có giáo dục bị lấn lướt bởi những giòng giống Đức mạnh mẽ vô giáo dục hằng năm len lỏi qua biên giới; văn hoá vô  thần nhường bước cho tín ngưỡng Á đông; và dần dà, một cách tinh vi, đế quốc trở thành Giáo quốc của nhà thờ Công giáo La mã.

 Giáo đường, vào những thế kỷ đầu tiên, được ủng hộ bởi những vị vua dần dần bị lấn quyền, phát triển nhanh chóng về số lượng, tài sản và tầm ảnh hưởng. Vào thế kỷ 13, nó đã chiếm một phần ba đất Âu châu (Robinson và Beard: Outlines of European History, Boston, 1914, I, 443) và những tủ sắt của nó đầy nhóc những tặng dữ (?) từ người giàu và kẻ nghèo. Trong một nghìn năm, với bùa phép của một tín điều không thay đổi, nó đã thống nhất phần lớn dân tộc của một lục địa; chưa bao giờ trước đấy, và từ đấy đến nay, có một tổ chức nào lan rộng đến thế hay hoà bình đến thế. Nhưng sự thống nhất này, theo giáo đường nghĩ, đòi hỏi một đức tin chung được tăng cường bằng những hình phạt siêu nhiên ở bên ngoài chuyển biến và sự ăn mòn của thời gian; bởi thế những giáo điều cố định và được giải thích kỹ càng được đúc nên như một cái vỏ cứng trên tâm thức mới lớn của Âu châu thời trung cổ. Chính trong giới hạn lớp vỏ này nền triết học kinh viện đã di chuyển hạn hẹp từ đức tin đến lý trí và trở lại, mắc kẹt quanh quẩn trong một vòng tròn gồm những giả thuyết không được phê phán và những kết luận có trước. Vào thế kỷ mười ba, tất cả tín đồ Kitô giáo phải giật mình và kích động trong bản dịch tác phẩm Aristote ra tiếng Ả-rập và Do thái; những uy lực của giáo đường vẫn còn có đủ qua thánh Thomas d' Aquin và những người khác để biến hoá Aristote thành một nhà thần học trung cổ. Kết quả đấy là sự khôn khéo tinh ranh, chứ không phải minh triết. "Trí khôn và tâm thức con người - Bacon bảo- nếu tác động trên vật chất, nó sẽ tuỳ thuộc vào nguyên liệu mà tác động, và do đó bị nguyên liệu hạn chế. Nhưng nếu nó tác động trên chính nó như nhện giăng tơ, tằm làm kén, thì nó thành ra vô tận, và quả thế mang lại những mạng nhện của sự uyên bác, đáng phục vì công trình tinh vi song lại không thực chất vì vô bổ". Sớm muộn gì tri thức Âu châu cũng sẽ nhảy ra khỏi lớp vỏ này.

 Sau một ngàn năm chăm bón, đất nở hoa trở lại; hàng hoá được tăng bội thành một số thặng dư buộc phải có mậu dịch; và việc mậu dịch ở những con đường chéo của nó lại dựng lên những đô thị mới, nơi đó người ta có thể cộng tác để bồi dưỡng văn hoá và dựng lại văn minh. Những cuộc thánh chiến mở những con đườmg đến Âu châu, và để tràn vào một dòng xa xỉ phẩm và tà thuyết làm tiêu ma chủ nghĩa khắc khổ và giáo điều. Bấy giờ giấy du nhập rất rẻ từ Ai-cập, thay thế loại da thuộc đắt đỏ đã làm cho việc học trở thành độc quyền của giới tu sĩ; sự ấn loát, từ lâu chờ đợi một phương tiện ít tốn kém, bây giờ bừng lên như một chất nổ được châm ngòi, và lan rộng khắp nơi ảnh hưởng phá hoại và soi sáng của nó. Bấy giờ những thủy thủ gan dạ lại được trang bị địa bàn, dám phiêu lưu vào biển cả hoang vu và chinh phục sự ngu dốt của con người về trái đất; những nhà quan sát kiên nhẫn với những ống viễn vọng kính, phiêu lưu ra ngoài giới hạn của giáo điều, và chinh phục được sự ngu dốt của con người về bầu trời. Khắp nơi, trong những đại hoc đường, trong các chủng viện và những nơi ẩn dật xa xôi, người ta thôi tranh luận và bắt đầu tìm tòi. Từ nỗ lực biến kim khí loại thấp thành vàng, thuật luyện kim dò dẫm chuyển thành hoá học; từ khoa chiêm tinh con người dò đường vừa táo bạo vừa rụt rè, đến khoa thiên văn học; và từ những chuyện ngụ ngôn về loài vật biết nói, khoa động vật học ra đời. Sự bừng tỉnh ấy bắt đầu với Roger Bacon (chết năm 1294); phát triển với Leonardo da Vinci (1452 - 1519); và viên mãn với nền thiên văn của Copernic (1473 - 1543) và Galilée (1564 - 1642), với những nghiên cứu của Gilbert (1544 - 1603) về nam châm và điện, của Vesalius (1514 - 1564) về giải phẫu học, và của Harvey (1578 - 1657) về sự tuần hoàn của máu. Khi hiểu biết tăng, nỗi sợ hãi giảm; con người bớt nghĩ đến việc thờ phụng cái vô hình, và nghĩ nhiều hơn đến việc thắng lướt nó. Mọi sinh lực được nâng cao với một niềm tin tưởng mới; những hàng rào bị phá huỷ; bấy giờ không còn giới hạn nào cho những gì con người có thể làm. "Nhưng sự kiện những chiếc tàu nhỏ, như những thiên thể, được dong buồm quanh khắp địa cầu, chính là niềm hạnh phúc của thời đại chúng ta. Bây giờ chính là lúc ta sử dụng từ ngữ plus ultra - xa thêm nữa- "nơi mà những người xưa dùng từ ngữ non plus ultra" (Bacon; The Advancement of Learning; P.II, chương 10. Một châm ngôn trung cổ báo cho tàu quay lui ở Gibraltar vào Địa trung hải, với hàng ghi: Non plus ultra - Đừng đi xa hơn). Đấy là thời đại của những công trình, của hy vọng và sự hùng mạnh, của những bắt đầu và những khởi công mới trong mọi địa hạt; một thời đại đang chờ đợi một tiếng nói, một linh hồn tổng hợp có thể nói trọn một cách vắn tắt tinh thần và quyết định của nó. Chính Francis Bacon, "tâm thức hùng mạnh nhất của thời đại tân tiến" (Epicure.J. Payne trong The Cambridge Modern History, I, 65) là người đã "rung chuông triệu tập những đại trí lại cùng nhau", và công bố Âu châu đã đến tuổi trưởng thành.

 

2. SỰ  NGHIỆP  CHÍNH TRỊ  CỦA  BACON:

 Bacon sinh ngày 22 tháng giêng năm 1561, ở York House London, tư dinh của thân phụ ông là Sir Nicholas Bacon, viên quan giữ ấn trong 20 năm đầu của nữ hoàng Elizabeth. Theo Macaulay, "danh tiếng của người cha đã bị khuất vào bóng tối trước danh tiếng của người con. Nhưng Sir Nicholas không phải là người tầm thường". Đấy là điều ta không lạ, vì thiên tài là một tuyệt đỉnh mà một gia tộc đào luyện được qua nhân tài, rồi qua nhân tài nơi hậu duệ của thiên tài, gia tộc lại chìm vào sự tầm thường của con người như cũ. Thân mẫu Bacon là Lady Anne Cooke, em dâu của Sir William Cecil, quan giữ kho của nữ hoàng Elizabeth, vừa là một trong những người thế lực nhất ở Anh quốc. Thân phụ bà đã từng làm quan phụ đạo chính thức của vua Edward đệ lục; và chính bà là một nhà ngữ học và thần học, không nghĩ đến việc gì ngoài việc giao dịch thư từ bằng tiếng Hy Lạp với những vị giám mục. Bà tự làm thầy dạy dỗ con trai và không từ một việc khó nhọc nào trong việc giáo huấn cậu. Nhưng vú nuôi thực thụ của thiên tài Bacon chính là Anh quốc vào thời nữ hoàng Elizabeth, thời đại huy hoàng nhất của quốc gia hùng mạnh nhất trong các quốc gia tân tiến. Sự tìm ra Mỹ châu đã chuyển hướng việc mậu dịch từ biển Địa trung hải sang Đại tây dương, đã nâng những quốc gia vùng Đại tây dương -Tây ban nha, Pháp, Hoà lan, Anh- lên ngôi chúa tể về thương mãi và tài chánh mà trước đấy là của Ý khi một phân nửa Âu châu đã biến Ý thành hải cảng xuất nhập trong việc mậu dịch ở Đông phương; và với cuộc biến đổi này, sự phục hưng đã đi từ Florence, La mã, Milan, Venice đến Madrid, Paris, Amsterdam và London. Sau trận phá huỷ hải lực của Tây Ban Nha vào năm 1588, nền thương mãi Anh bành trướng khắp mọi hải phận, những thị thành Anh quốc phồn thịnh với kỷ nghệ, những thuỷ thủ Anh lái tàu quanh địa cầu, và những thuyền trưởng của Anh đã chiếm được Mỹ châu. Nền văn chương Anh nở thành thơ của Spencer và tản văn của Sidney; sân khấu Anh quốc rộn rịp với những vở kịch của Shakespeare, Marlowe và Ben Johnson cùng một trăm ngòi bút vững mạnh khác. Không ai không phát triển được trong một thời đại và xứ sở như thế, nếu trong họ có sẵn hạt mầm.

 Năm hai mươi tuổi, Bacon được gởi đến Trinity College ở Cambridge. Ông ở đấy 3 năm, rồi rời trường với một mối thù ghét mãnh liệt đối với những bài học và phương pháp của nó, một mối thù nghịch sâu xa đối với sự tôn thờ Aristote và một ý chí cương quyết đặt triết học vào một con đường phì nhiêu hơn, chuyển nó từ sự tranh luận kinh viện đến việc soi sáng và tăng gia lợi ích nhân sinh. Mặc dù còn là một cậu bé mười sáu, Bacon đã được mời làm một nhân viên của toà đại sứ Anh tại Pháp; và sau khi tính kỹ lợi hại, ông nhận lời. Trong lời Tự ngôn cho cuốn Giải thích thiên nhiên ông đã bàn đến quyết định có tính cách định mệnh đã chuyển hướng ông từ triết học đến chính trị. Đấy là một đoạn văn quan trọng :

 Trong khi tôi tin rằng tôi được sinh ra để phụng sự nhân loại, và xem việc lo lắng đến lợi ích chung là một trong những nhiệm vụ chung, mở ra cho tất cả không phân biệt, chẳng khác nào nước và không khí, tôi tự hỏi điều gì có thể làm lợi ích cho nhân loại nhất, và thiên nhiên đã uốn nắn tôi để làm việc gì ?

Nhưng khi cố tìm, tôi vẫn không thấy công việc nào xứng đáng bằng sự tìm tòi và phát triển những nghệ thuật và phát minh đưa đến sự văn minh hoá sinh hoạt con người ...

Nhất là nếu một người có thể thành công, không những trong việc đưa ra ánh sáng một sự phát minh đặc biệt nào dù lợi ích đến đâu mà còn trong việc nhen nhúm lên trong thiên nhiên một ánh sáng có thể, khi vừa bừng lên, đã chiếu rọi một ít ánh sáng vào những giới hạn hiện tại trong những khám phá của con người, rồi sau đó, khi vươn cao, sẽ làm hiển lộ cho thấy rõ mọi ngõ ngách của bóng tối; đối với tôi, một nhà phát minh như thế sẽ xứng đáng được gọi là Người Triển Khai đích thực Vương quốc con người ra ngoài vũ trụ. Nhà vô địch về tự do con người, Kẻ Tiêu diệt những lẽ tất yếu hiện giam giữ người ta trong vòng nô lệ. Hơn nữa, tôi nhận thấy trong bản chất riêng tôi một sự thích ứng đặc biệt để suy ngẫm chân lý. Vì tôi có một trí óc vừa uyên bác đủ cho mục đích quan trọng nhất ấy, nghĩa là sự trung thực nhận những điểm tương đồng vừa khá vững chãi và tập trung để quan sát những mức độ vi tế của sự dị biệt. Tôi có một đam mê tìm tòi, một năng lực dừng nghỉ sự phán đoán một cách kiên nhẫn, một năng lực để trầm tư trong hân hoan, để chấp nhận với dè dặt, để sẵn sàng sửa chữa những cảm tưởng sai lạc, và để chịu khó xếp đặt tư tưởng cẩn thận. Tôi không khát vọng cái mới, không thán phục mù quáng cái cổ. Tôi hoàn toàn ghét sự giả mạo dưới mọi hình thức. Bởi tất cả những lý lẽ ấy, tôi xét thấy rằng thiên tư và bản chất tôi, dường như có một thứ liên lạc bà con với chân lý.

Nhưng dòng dõi, sự giáo huấn của tôi, tất cả đều đã hướng không về triết lý mà về chính trị : tôi hầu như được thấm nhuần về chính trị từ thuở ấu thơ. Và cũng như trường hợp thường thấy  ở các thanh niên, đôi khi tôi bị lung lay bởi những quan niệm. Tôi cũng nghĩ rằng nhiệm vụ đối với xứ sở có những đòi hỏi đặc biệt nơi tôi, những đòi hỏi mà những nhiệm vụ khác của đời không thể lấn áp. Cuối cùng tôi nuôi hy vọng rằng, nếu tôi giữ một chức vụ danh dự nào trong quốc gia, tôi có thể có những trợ giúp bảo đảm cho công việc tôi, với ý hướng hoàn thành nhiệm vụ được dành cho tôi. Với những động lực ấy, tôi bước vào chính trị ( Do Abott dịch từ La ngữ sang Anh ngữ trong cuốn Francis Bacon, London, 1885, tr.37) .

 Năm 1570 Sir Nicholas Bacon chết bất ngờ. Ông đã định cấp cho Francis một gia tài, nhưng cái chết đã cướp kế hoạch ông, và nhà ngoại giao trẻ tuổi, khi được gọi gấp về London, đã bừng con mắt dậy thấy mình không cha, không tiền lúc mười tám tuổi. Ông đã quen với phần lớn những xa hoa của thời đại, nên bây giờ thấy rất khó khăn để an phận với nếp sống đạm bạc bất đắc dĩ . Ông bắt đầu hành nghề luật, trong khi khẩn cầu những thân quyến có ảnh hưởng tiến cử ông vào một chức vụ chính trị nào để có thể giải thoát ông khỏi mối lo về kinh tế. Nhưng bức thư hầu như van xin của ông đã không được kết quả bao nhiêu so với lời văn tráng lệ hùng hồn và tài nghệ rõ rệt của tác giả. Có lẽ chính vì Bacon không đánh giá thấp tài nghệ này, và xem địa vị như điều ông dĩ nhiên phải có, cho nên Lord  Burghley đã không đem lại sự đáp ứng mong mỏi; và cũng có lẽ vì những bức thư kia quá long trọng thề nguyền trung thành với vị Lord trong quá khứ, hiện tại cũng như vị lai: trong chính trị, cũng như trong tình yêu, không nên tự hiến mình toàn vẹn; người ta nên cho luôn luôn, nhưng không bao giờ nên cho tất cả. Lòng biết ơn được nuôi dưỡng bằng sự mong chờ.

 Cuối cùng, Bacon đã leo lên được mà không cần sự nâng đỡ từ bên trên; nhưng mỗi bước phải làm ông hao tổn nhiều năm. Năm 1583 ông được bầu vào Nghị viện đại diện cho tỉnhTaunton, và những cử tri thích ông đến nỗi họ tái cử cho ông nhiều lần. Ông có một tài hùng biện mạnh mẽ trong cuộc tranh luận, và là một nhà hùng biện không rườm lời. "Không có một người nào đã từng ăn nói rõ ràng, chặt chẽ, hùng hồn hơn -Ben Johnson bảo- hoặc từng ít bị trống rỗng, vô duyên hơn trong những gì mình nói. Không một chữ, một câu nào trong lời nói ông lại không có những duyên dáng riêng của nó. Những người nghe không thể ho hay nhìn sang phía khác mà không bị mất mát điều gì. Ông điều khiển mỗi khi ông nói ... Không ai được nhiều quý chuộng của thính giả hơn ông trong mãnh lực thu hút ấy. Nỗi sợ hãi của mọi người nghe ông là sợ rằng ông sẽ chấm dứt (Nichol; Francis Bacon, Edingburg, 1907; p. 37). Nhà hùng biện đáng thèm !

  Ông có một người bạn thế lực rất giàu lòng với ông -quận công Essex đẹp trai mà nữ hoàng Elizabeth đã yêu không được nên đâm ra thù. Năm 1595 Essex, để bù lại sự thất bại của mình trong việc bảo đảm một địa vị chính trị cho Bacon, đã tặng Bacon một cơ sở đẹp ở Twickenham. Đấy là một món quà vĩ đại mà người ta những tưởng nó có thể ràng buộc Bacon vớiEssex suốt đời, nhưng té ra không. Vài năm sau Essex tổ chức một âm mưu hạ ngục Elizabeth và chọn người kế vị bà lên ngôi. Bacon viết thư liên tiếp cho ân nhân mình, phản đối sự bội phản này, và khi Essex vẫn khăng khăng một mực, Bacon cảnh cáo ông ta rằng sẽ đặt sự tận trung với nữ hoàng lên trên cả lòng biết ơn bạn. Essex đã cố gắng thực hiện âm mưu, bị thất bại và bị bắt. Bacon năn nỉ với nữ hoàng cho bạn mình một cách dai dẳng đến nỗi cuối cùng nữ hoàng bảo ông "nói chuyện gì khác". Khi Essex, được tự do tạm, tụ tập quân lực lại, diễn hành vào London và cố xách động dân chúng làm cách mạng, Bacon giận giữ chống lại ông. Trong lúc ấy Bacon đã được một ghế xử án trong triều đình, và khi Essex bị bắt lại, bị xử vì phản nghịch, Bacon đã dự phần tích cực trong vụ xử người đã là người bạn rất hào phóng đối với ông.

Essex bị xử có tội và bị tử hình. Sự tham dự của Bacon vào việc xử án đã làm cho ông mất thanh danh một thời gian; và từ đấy trở đi ông sống giữa những kẻ thù đợi dịp để trả thù ông. Tham vọng không biết chán của ông khiến ông không nghỉ ngơi được; ông luôn luôn bất mãn và luôn luôn ông tiêu trước lợi tức của ông khoảng một năm. Ông tiêu xài phung phí; sự chưng bày đối với ông là một phần của chính sách. Khi, vào năm bốn mươi tuổi, ông cưới vợ, đám tiệc kênh kiệu và đắt đỏ đã để lại một lỗ thủng lớn trong của hồi môn vốn là một trong những sự quyến rũ của vị phu nhân. Năm 1598 ông bị bắt vì nợ nần. Tuy nhiên ông vẫn tiếp tục tiến. Tài năng đa diện và kiến thức hầu như bất tận của ông khiến ông là một hội viên đáng giá cho mọi hội đồng quan trọng, dần dần nhiều chức vị cao được mở ra cho ông: năm 1606 ông được làm Solicitor-General; năm 1613 trở thành Attorney-General; năm 1618, vào năm năm mươi bảy tuổi, cuối cùng ông trở thành Lord Chancellor.

 3. NHỮNG  BÀI  TIỂU  LUẬN:

 Sự tiến thân của ông dường như đã thực hiện giấc mộng Platon về một thánh vương (vị vua vừa là triết gia). Vì song song bước một với sự trèo lên thế lực chính trị, Bacon đã lên đến đỉnh cao của triết học. Thật hầu như không thể tin được rằng tài bác học và những công nghiệp văn chương của con người này lại chỉ là những biến cố và những chuyển hướng của một sự nghiệp chính trị đầy sóng gió. Châm ngôn của ông là: người ta sống hay nhất với một đời ẩn dật - Bene vixit qui bene latuit. Ông không thể biết rõ ông thích đời sống trầm mặc hơn hay đời sống hoạt động hơn. Hy vọng của ông là vừa làm triết gia vừa làm chính khách như Seneca, mặc dù ông e ngại rằng hướng đi song đôi của đời ông như vậy sẽ làm ngắn tầm mục tiêu và giảm thiểu mức thu nhập của ông . "Thật khó nói - ông viết (Valerius Terminus, đoạn cuối)- xem sự pha lẫn suy tư với một đời sống hoạt động, hay sự rút lui hoàn toàn vào việc suy tư, có làm mất khả năng của tâm trí hơn hay cản trở nó hơn không?". Ông cảm thấy rằng sự học tự nó không thể là cứu cánh hay minh triết, và một tri thức không được áp dụng trong hành động chỉ là một tri thức thiếu máu. "Dùng quá nhiều thì giờ vào việc học là lừ đừ; dùng quá nhiều sự học để trang hoàng là làm bộ; phán đoán hoàn toàn theo quy luật sách vở là tính khí của một học giả. Người tài lên án sự học, người ngu thán phục nó, người minh triết sử dụng chính nó; bởi vì sự học không dạy sử dụng chính nó; nhưng đây là một sự minh triết ở bên ngoài và bên trên sự học đạt được nhờ quan sát ("Về sự học"). Đây là một điểm mới, đánh dấu sự chấm dứt cái học hàn lâm -nghĩa là ly khai giữa tri thức với thực dụng và quan sát- và đặt nặng khía cạnh kinh nghiệm và kết quả , làm nổi bật triết lý Anh và lên đến tột đỉnh của nó trong thuyết duy dụng. Không phải Bacon có lúc thôi yêu mến sách và suy tư; bằng những lời khiến ta nhớ đến Socrate, ông đã viết: "nếu không có triết học tôi không thiết sống ("Đề tặng cuốn Wisdom of the Ancients); và ông tự mô tả mình, cuối cùng là "một người có thiên tính thích hợp cho văn học hơn cho bất cứ việc gì khác, và đã bị một định mệnh nào đó đưa đẩy vào đời sống hoạt động phản lại khuynh hướng của tính khí mình" (Tăng tiến Tri thức). Ấn phẩm hầu như đầu tay của ông gọi là "Ca tụng tri thức" (1592); tính cách nồng nhiệt của nó đối với triết học khiến ta phải trích dẫn mới được :

 "Lời ca ngợi của tôi sẽ dành cho chính tâm trí. Tâm trí là con người, và kiến thức là tâm trí, một người chỉ là những gì mà y biết ... Há chẳng phải lạc thú của tình yêu lớn hơn lạc thú của giác quan, và há chẳng phải lạc thú của tri thức lớn hơn lạc thú của ái tình ? Há chẳng phải lạc thú tự nhiên chân thật là thứ lạc thú mà người ta không bao giờ ngấy chán ? Há chẳng phải chỉ có tri thức mới giải toả tâm trí khỏi mọi vọng động ? Biết bao nhiêu điều chúng ta tưởng tượng song không có thật ? Biết bao nhiêu điều ta đánh giá và xem trọng hơn chính thực bản chất chúng ? Những tưởng tượng vô lối này, chính là những đám mây lầm lỗi đã chuyển thành những cơn bão tố của vọng động. Thế thì có một hạnh phúc nào cho tâm thức con người, một hạnh phúc có thể nâng tâm thức ấy lên trên những hỗn mang của sự vật, ở đấy y có thể kính trọng trật tự của thiên nhiên và lầm lỗi của con người ? Há chỉ có độc một niềm hoan lạc mà không có sự phát minh ? Chỉ có sự hài lòng mà không có lợi lộc ? Há chúng ta không đồng thời thấy rõ những báu vật của kho tàng thiên nhiên cũng như vẻ đẹp của nó ? Chân lý có thực khô cằn chăng ? Há chúng ta  sẽ không nhờ đấy mà có thể sản ra những hậu quả đáng giá, và đem lại cho nhân sinh những tiện nghi vô hạn ?

Sản phẩm văn chương tinh luyện nhất của ông, cuốn "Tiểu luận" (1597 - 1623), chứng tỏ ông vẫn còn bị dằn xé giữa hai tình yêu, yêu chính trị và yêu triết học . Trong bài "Tiểu luận về danh dự và tiếng tăm", ông gán tất cả mức độ danh dự cho những công trình quân sự và chính trị , không một mức độ nào được quy cho công trình văn chương hay triết học. Nhưng trong bài tiểu luận "Bàn về chân lý", ông viết: "Sự tìm tòi chân lý - sự bắt tình với nó; tri thức về chân lý - sự ca ngợi nó, niềm tin vào chân lý - sự thưởng thức nó, là điều kiện tối cao của thiên tính con người". Trong những cuốn sách "chúng ta nói chuyện với thánh hiền, cũng như trong hành động ta nói chuyện với người ngu". Nghĩa là nếu chúng ta biết lựa chọn sách để đọc. " Một số sách chỉ đáng nếm qua" - để trích một đoạn thời danh- "một số khác đáng nuốt chửng, và một số ít đáng được nhai nghiền và tiêu hoá";  tất cả những nhóm này, chắc hẳn, đã họp thành một phần rất nhỏ của những đại dương và những thác mực trong đó hằng ngày thế giới được tắm rửa, bị đầu độc và chết đuối.

 Dĩ nhiên "Tiểu luận" phải được kể trong số ít sách đáng được nhai nghiền và tiêu hoá. Hiếm khi ta tìm thấy nhiều hào thiện được gia vị và gia hương một cách tuyệt diệu như thế trong một đĩa ăn bé nhỏ. Bacon ghét rườm rà, và không ưa phung phí một tiếng nào; ông cho ta vô vàn của cải trong một câu ngắn; mỗi bài tiểu luận trong đó, với khoảng một, hai trang, đem lại sự tinh tế được chưng lọc, của một tâm trí bực thầy về một vấn đề chính yếu của đời sống. Thật khó nói xem bên hình thức, bên nội dung, bên nào tuyệt hơn; vì ở đây ngôn ngữ đã đến chỗ tuyệt xảo về tản văn cũng như ngôn ngữ Shakespeare đã tuyệt xảo về văn vần. Đấy là một lối văn giống như văn của Tacite, hùng mạnh, cô đọng nhưng gọt giũa; và quả vậy một phần sự sáng sủa khúc triết của nó là nhờ ở sự mô phỏng khéo léo những từ ngữ La Tinh. Nhưng kho tàng ẩn dụ của nó đặc biệt có tính cách của thời đại Elizabeth, và phản ảnh sự dồi dào của thời Phục hưng; không người nào trong văn chương Anh lại sung túc về lối so sánh hàm súc và ý nhị như thế. Sự chưng bày phung phí những so sánh này là khuyết điểm độc nhất trong lối văn của Bacon : những ẩn dụ bóng gió tượng trưng bất tận đổ xuống như những nhát roi quất trên thần kinh của ta và cuối cùng làm cho ta chán mệt. Cuốn "Tiểu luận" giống như món ăn nặng nề nhiều gia vị, không thể tiêu hoá nhiều trong một lúc, nhưng nếu đọc mỗi lần bốn hay năm bài, thì chúng là dưỡng chất tinh thần bổ khoẻ nhất bằng Anh ngữ.

Ta có thể rút ra được gì từ sự minh triết đã được rút tỉa này ? Có lẽ khởi điểm tốt nhất, và sự chuyển hướng đáng chú ý nhất từ những thời thượng của triết học trung cổ chính là sự chấp nhận hẳn nhiên của ông đối với đạo đức của Epicure. Quan điểm triết học "đừng sử dụng để khỏi mong muốn, đừng mong muốn để khỏi sợ hãi, có vẻ là một dấu hiệu của một tâm thức yếu đuối rụt rè. Và quả thế phần lớn những học thuyết của các triết gia dường như quá hoài nghi, và lo cho nhân loại quá mức cần thiết. Họ làm tăng thêm nỗi sợ chết khi đưa ra những phương pháp chống lại nó; bởi vì khi họ xem cuộc sống của con người chỉ là một kỷ luật chuẩn bị cho cái chết, thì dĩ nhiên kẻ thù ấy phải là ghê gớm, sự tự vệ chống lại nó được đặt ra triền miên" (Tăng tiến tri thức, VII, 2). Không gì tai hại cho sức khoẻ bằng sự tiết chế dục vọng theo thuyết khắc kỷ; kéo dài một đời sống ra làm gì khi sự an phận thản nhiên đã biến nó thành ra sự chết trước kỳ ? Ngoài ra, đấy là một nền triết học bất khả; vì bản năng sẽ vọt ra. "Bản năng thường bị che dấu, một đôi khi bị thắng lướt, nhưng hiếm khi chết hẳn. Sức mạnh bản năng còn dữ dội hơn khi quay trở lại; lý thuyết và sự giáo dục làm nó bớt cấp bách, nhưng tập tục chỉ biến đổi, hàng phục bản năng. Người ta chớ nên quá tin vào sự đắc thắng của mình đối với bản năng, vì nó sẽ nằm chôn vùi một thời gian lâu, nhưng sẽ sống dậy khi có dịp hay có sự cám dỗ. Bản năng cũng như cô gái của Aesop, biến từ một con mèo thành một người đàn bà, ngồi rất đoan trang ở đầu tấm phản, cho đến khi một con chuột chạy ngang trước mặt. Bởi thế, một người hãy tránh hẳn cơ hội, hoặc đặt mình thường xuyên tiếp xúc với cơ hội để có thể ít bị xúc động vì nó *" (*Về bản năng trong người ). Quả thế, Bacon nghĩ rằng thân xác cần được tập quen với sự quá độ cũng như sự tiết chế: nếu không, ngay chỉ một lúc không tiết chế cũng đủ phá hoại nó. - Bởi thế một người quen ăn những thức ăn thuần khiết và dễ tiêu hoá nhất sẽ dễ dàng bị đau bụng khi vì quên hay vì hoàn cảnh bắt buộc, phải bỏ lệ -. Tuy nhiên "sự thay đổi nhiều lạc thú tốt hơn là sự quá đà"; vì "sức mạnh của bản năng nơi tuổi trẻ đã vi phạm nhiều sự quá độ khiến một người đến tuổi già phải trả giá chúng". Sự trưởng thành của một người thường phải trả giá bằng tuổi trẻ y. Một đường lối hay hoặc để đạt đến sức khoẻ là một mẫu vườn; Bacon đã đồng ý với tác giả của Sáng thế ký rằng : "Đức Chúa trời lúc đầu dựng một khu vườn" và với Voltaire rằng chúng ta nên trồng tỉa khoảnh sân sau của mình.

Triết lý đạo đức trong cuốn "Tiểu luận" có mùi vị của Michiavel hơn là của Kitô giáo, mà Bacon thường chỉ trích gay gắt "Chúng ta mắc nợ của Machiavel và những nhà văn tương tự, những người tuyên bố một cách cởi mở không che đậy những gì con người làm thực sự, chứ không phải những gì y làm; bởi vì không thể nào nối liền sự khôn ngoan của một con rắn và sự ngây thơ của con bồ câu, nếu trước hết không có một tri thức về bản chất của sự ác; không có tri thức này thì đức hạnh bị phơi ra không được phòng vệ" (Tăng tiến tri thức, XII, 2). "Những người Ý có một câu cách ngôn khiếm nhã : Tanto buon che val niente, - tốt quá đến nỗi không ích vào việc gì" (Về sự tốt đẹp). Bacon phối hợp lý thuyết của ông với thực hành, và khuyên nên có một hoà hợp giữa sự gian lận và lương thiện, giống như một hợp kim sẽ khiến cho chất kim loại kém tinh ròng nhưng mềm hơn, có thể sống dai hơn. Ông muốn có một sự nghiệp trọn vẹn và nhiều màu sắc, để quen với mọi thứ có thể mở rộng, đào sâu, tăng cường, làm sắc bén tâm trí. Ông không thán phục đời sống thuần tư tưởng ; như Goethe, ông khinh bỉ thứ tri thức không đưa đến hành động: "người ta phải biết rằng trên sân khấu nhân sinh chỉ có những Thượng đế và thiên thần mới làm khán giả" (Tăng tiến tri thức, VII, 1) .

Về tôn giáo, mặc dù đã hơn một lần bị lên án là vô thần và toàn bộ khuynh hướng triết học ông có tính cách thế tục và thuần lý, Bacon tỏ ra là một người đả kích sự bất tín rất hùng hồn và nghe ra có chiều thành thật. "Tôi chẳng thà tin mọi bài ngụ ngôn trong truyện hoang đường, và kinh Talmud và Alcoran, còn hơn tin rằng cái khung vũ trụ này lại không có một tâm thức ... Với một ít triết lý rởm đời, tâm thức con người ngả về vô thần; nhưng sự uyên thâm về triết học đem tâm thức người lại gần tôn giáo. Vì khi tâm thức con người nhìn vào những nguyên nhân phụ bị phân tán, đôi khi nó có thể an nghỉ trong chúng và không đi xa hơn; nhưng khi nó nhìn chuỗi dây xích của chúng, liên minh kết nối với nhau, nó phải bay đến Thượng đế và thần tính. Sự thờ ơ đối với tôn giáo là do rất nhiều yếu tố. "Những nguyên nhân của sự vô thần là sự phân chia nhiều tôn giáo ; vì khi chỉ chia đôi, mỗi ngành tôn giáo sẽ gia tăng sự hăng hái cho cả đôi bên; nhưng nhiều ngành tôn giáo sẽ đưa đến vô thần... Và cuối cùng, nguyên nhân ấy là những thời đại của học giả, nhất là khi có hoà bình thịnh vượng; vì những lúc rối loạn và ngang trái, quả có làm cho tâm thức con người thiên về tôn giáo ". Nhưng giá trị của Bacon nằm ở tâm lý học nhiều hơn ở thần học và đạo đức. Ông là một nhà phân tích xác đáng bản tính con người, sự quan sát tinh tế của ông rọi vào mọi tâm hồn. Ông độc đáo một cách mới mẻ về một đề tài nhạt nhẽo nhất thế giới. "Một người cưới vợ già thêm bảy tuổi trong tư tưởng ngay hôm đầu tiên". "Người ta thường thấy những ông chồng xấu lại có vợ tốt" (Bacon là một ngoại lệ !).  "Một đời độc thân tốt cho những giáo sĩ, vì lòng bác ái không thể nào tưới được xuống đất khi nó phải đổ đầy một cái ao trước đã ... Người nào có vợ con tức đã đưa con tin cho vận số; vì gia đình là chướng ngại cho những công việc lớn, dù công việc ấy có tính chất thiện hay ác". Bacon dường như bận việc quá nhiều không có thì giờ để yêu đương, và có lẽ ông không bao giờ cảm thức tình yêu một cách sâu xa. "Thật lạ lùng khi ta chú ý đến sự thái quá của thứ đam mê này ... Không một người đàn ông kiêu hãnh nào lại có thể nghĩ tốt về mình một cách phi lý như người đang yêu nghĩ về người mình yêu... Ta có thể thấy rằng trong số tất cả những người vĩ đại và xứng đáng không một người nào đã bị mê man điên dại vì yêu đương, điều ấy chứng tỏ những tâm hồn lớn và những công việc lớn vẫn thường tránh xa cái đam mê yếu đuối ấy" ("Về ái tình").

Bacon đánh giá tình bằng hữu hơn tình yêu, mặc dù ngay cả tình bằng hữu ông cũng có thể có thái độ hoài nghi. "Có rất ít tình bằng hữu trên thế giới, và hiếm nhất là tình bằng hữu giữa những người ngang nhau, mối tình này thường hay được phóng đại. Tình bạn có thật là giữa người trên và người dưới, những người vì cảnh ngộ có thể hiểu nhau... Một hậu quả chính của tình bạn là niềm thoải mái và sự trút sạch nỗi đầy ứ của trái tim, mà đam mê đủ loại đã gây ra". Một người bạn là một lỗ tai. "Những người cần bạn để thố lộ can tràng chính là những kẻ ăn thịt chính trái tim mình ... Kẻ nào có tâm sự đầy những ý tưởng, thì trí tuệ và hiểu biết của y sẽ sáng tỏ và tuôn ra trong khi bàn luận cảm giao với một người khác; ý tưởng của y tuôn ra dễ dàng hơn; y sắp đặt chúng một cách thứ tự hơn; y thấy rõ chúng sẽ ra thế nào khi biến thành lời; cuối cùng y trở nên minh triết hơn trước; và đó là nhờ một giờ đàm luận hơn là qua một ngày trầm tư. ("Về tình bằng hữu").

 

Chương 4

SPINOZA (1632 - 1677)

 

I. TIỂU SỬ

1. Trang sử oai hùng của người Do-thái

Trang sử của người Do-thái là một trong những trang sử hùng tráng của Âu châu. Họ bị đuổi ra khỏi nước khi người La Mã chiếm thành Jérusalem năm 70 trước TL. Từ đó đi khắp thế giới để buôn bán. Họ thường bị kỳ thị và chém giết bởi những người khác tôn giáo như những người theo Thiên chúa giáo hoặc Hồi giáo, mặc dù giáo lý của các giáo phái này một phần lớn rút từ các kinh sách của người Do-thái. Họ không được các chính phủ cho phép mua đất đai và làm kỹ nghệ. Họ bị tập trung vào những xóm nghèo khổ, bị dân chúng hiềm khích và các vua chúa bóc lột. Tuy nhiên với sự nhẫn nại hiếm có, họ vẫn xây dựng được những thành phố làm vẻ vang cho nền văn minh nhân loại. Mặc dù bị xua đuổi và nguyền rủa khắp nơi, không được đoàn kết thống nhất bởi một cơ cấu chính trị, không có một ngôn ngữ riêng biệt, dân tộc kỳ diệu này đã giữ được thống nhất trong tâm hồn, trong giòng giống, trong văn hoá, trong tôn giáo, trong tập tục và nhẫn nại chờ đợi ngày giải thoát. Dân số của họ càng ngày càng tăng và họ đã trở thành những chuyên viên danh tiếng trong tất cả mọi lĩnh vực. Sau 2000 năm đi lang thang khắp thế giới, dân tộc này đã tìm lại được quê hương. Còn trang sử nào oai hùng bằng những trang lịch sử kể trên, còn sự vinh quang nào sáng lạn và đẹp đẽ bằng sự vinh quang kể trên ? Sự tưởng tượng của con người cũng không thể đẹp bằng câu chuyện thực tế của người Do thái.

Sự phân tán của người Do-thái đã bắt đầu mấy trăm năm trước khi thành Jérusalem thất thủ. Do các hải cảng Tyre và Sidon, người Do-thái đã phân tán đi khắp các vùng Địa trung hải từ Athènes đến Antioche, từ Alexandre đến Carthage, từ Rome đến Marseilles và đến cả xứ Y-pha-nho (Spain / Espagne) xa xôi. Sau khi thành Jérusalem bị tàn phá, cuộc di cư trở nên vĩ đại. Có hai đường chính: một đường theo sông Danuble và sông Rhin để đi vào Ba-lan và Nga-sô, một đường đi đến Y-pha-nho và Bồ-đào-nha (Portugal). Tại Trung âu, người Do-thái đã tỏ ra là những thương gia và tài chánh gia lỗi lạc. Tại những nơi khác họ hấp thụ văn minh Ả rập về phương diện toán học, y học và triết học để bồi bổ cho văn hoá Do thái trong những trường danh tiếng ở Cordova Barcelone và Séville. Tại đây trong thế kỷ thứ XII và XIII, người Do-thái đóng một vai trò quan trọng trong việc truyền bá văn minh đông phương và Âu tây. Tại Cordova một bác sĩ Do thái tên là Moses Maimonides (1135-1204) đã viết một cuốn sách danh tiếng nhan đề Sách chỉ đường cho những người lưỡng lự. Ở Barcelone một tác giả Do-thái khác đã góp phần rất lớn trong việc làm sáng tỏ các giáo lý của họ.

Những người Do thái ở Y-pha-nho làm ăn rất thịnh vượng cho đến năm 1492 khi vua Ferdinand chiếm Granada và trục xuất họ ra khỏi nước. Từ đó những người Do thái sống chật vật và bị theo dõi. Sau đó họ bị đàn áp thật sự và bị bắt phải theo Thiên chúa giáo nếu không họ sẽ bị đày và bị tịch biên gia sản. Cuộc đàn áp tôn giáo này không phải hoàn toàn vì lý do tôn giáo mà chính vì nhà cầm quyền Y-pha-nho muốn cướp đoạt tài sản của những người Do Thái. Vua Ferdinand tìm được người Do-thái cũng như Columbus tìm ra Mỹ châu.

Đa số người Do-thái không chịu theo tôn giáo mới. Nhiều người di cư qua Ý, ở đây họ cũng bị xua đuổi, họ chạy qua Phi châu, ở đó một số lớn bị mổ bụng vì thổ dân tin rằng trong bụng người Do thái có ngọc ngà châu báu. Một số đân Do-thái đến Vevise và đã làm cho thành phố này có tầm quan trọng vào bậc nhất. Chính những người Do-thái đã bỏ ra nhiều tiền để Columbusđi tìm Tân thế giới vì họ hy vọng rằng nhà thám hiểm này sẽ tìm cho họ một nơi để sinh sống tự do. Hình như Columbus cũng là một người Do-thái. Một số đông dân Do thái đã dùng đường biển để đến Hoà-lan, nơi đây tương đối họ được chấp nhận. Trong số những người Do thái di cư qua Hoà-lan có một gia đình tên là Spinoza.

Từ khi người Do-thái bỏ đi, xứ Y-pha-nho trở nên điêu tàn. Trong lúc đó, nhờ tiếp đón người Do-thái, Hoà-lan đâm ra thịnh vượng. Người Do-thái xây cất thánh đường đầu tiên tại Amsterdam năm 1598 và 75 năm sau họ xây cất thánh đường thứ hai, một thánh đường nổi tiếng khắp Âu châu. Có lẽ từ đó hạnh phúc đã đến với người Do-thái nếu ta bằng vào các hoạ phẩm của Rembrandt trình bày những thương gia và giáo sĩ Do-thái mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao. Tuy nhiên vào khoảng giữa thế kỷ XVII có một cuộc tranh chấp giữa những người Do-thái. Một thanh niên Do-thái bị ảnh hưởng bởi những tư tưởng của thời đại phục hưng đã viết sách công kích thuyết tái sinh lên thiên đường. Cuốn sách này không nhất thiết phản lại giáo lý Do-thái, nhưng giáo quyền bắt buộc tác giả phải phản tỉnh vì họ sợ rằng những tư tưởng của thanh niên này động chạm đến tín ngưỡng của dân Hoà-lan, vì thuyết tái sinh lên thiên đàng là một trong những tín điều nòng cốt của Thiên-chúa-giáo. Thủ tục phản tỉnh bắt buộc tác giả cuốn sách nói trên phải nằm trước ngưỡng cửa thánh đường và để cho các tín đồ khác đạp lên mình để vào thánh đường. Vì quá tủi nhục tác giả viết một bài công kích thái độ của giáo hội Do-thái trước khi tự sát. Biến cố này xảy ra năm 1640, lúc này Spinoza được 8 tuổi, đang theo học trường của thánh đường.

 

2. Sự giáo dục của Spinoza

Những biến cố của dân Do-thái un đúc tâm hồn Spinoza và làm ông ta có nhiều đặc tính Do-thái mặc dù bị giáo hội Do-thái khai trừ. Mặc dù thân phụ là một nhà buôn giàu có, ông không muốn nối tiếp cha mà chỉ muốn nghiên cứu giáo lý tại thánh đường. Ông là một học giả có tài và các giáo sĩ Do-thái rất tin tưởng vào tương lai ông. Ông học hết thánh kinh rất nhanh và học qua kinh Talmud, một cuốn kinh rất khó của người Do-thái. Dần dần tất cả những kinh sách Do-thái đều được ông nghiên cứ tường tận thông suốt.

Ông say mê lý thuyết nhất thể giữa vũ trụ và Thiên chúa, tuy nhiên ông không mấy thích thú khi đọc cuốn sách nhan đề Sách chỉ đường cho những người lưỡng lự vì ông tìm ở trong sách nhiều sự lưỡng lự hơn là sự chỉ đường. Ông nghiên cứu Cựu ước và cũng không mấy thoả mãn. Chính những kẻ binh vực giáo lý đã làm hại cho giáo lý ấy nhiều nhất vì càng bênh vực họ càng gieo mầm nghi ngờ cho người khác và kích thích sự chỉ trích của người khác. Càng nghiên cứu giáo lý Do-thái tâm hồn Spinoza càng xao động và ông đâm ra hoài nghi tất cả.

Ông muốn tìm hiểu những tác giả đời trước đã viết gì về sự tương quan giữa Thiên chúa và thân phận con người. Để mở rộng tầm kiến thức ông đã học tiếng La-tinh với một học giả người Hoà-lan. Học giả này là một người thuộc phái đối lập và bị xử tử năm 1674, để lại một đứa con gái đẹp làm rung động trái tim của Spinoza. Cuộc tình duyên này bất thành vì người đẹp của Spinoza ôm cầm sang thuyền khác. Từ đó Spinoza trở thành một triết gia.

Tuy nhiên ông vẫn cố gắng học tiếng La-tinh và nghiên cứu tư tưởng của những tác giả thời Trung cổ. Ông học Socrate, Platon và Aristote, nhưng ông thích đọc Démocrites, Epicure, Lucrèce và những triết gia trong phái Socrate cũng đã ảnh hưởng sâu đậm đến ông. Ông bị ảnh hưởng của những tác giả này đến nỗi ông dùng lại những danh từ của họ, những lối lý luận qua các định nghĩa, định đề, kết luận, chứng minh, nguyên lý v.v... Ông nghiên cứu tác giả Bruno, một thanh niên cuồng tín đã đi khắp Âu châu và sau cùng đã bị thiêu sống bởi phong trào chấn chỉnh tôn giáo. Bruno là người Ý, ông chủ trương thuyết nhất thể. Theo ông thì vạn vật đều nhất thể trong nguồn gốc, vật chất và tinh thần cũng là nhất thể. Vậy mục đích của triết lý là đi tìm sự nhất thể, đi tìm tinh thần trong vật chất và vật chất trong tinh thần, đi tìm sự tổng hợp để hoà giải những mâu thuẫn, đi tìm nhất thể của vũ trụ. Chính những điểm ấy đem người ta đến chỗ hiểu biết Thiên chúa. Những tư tưởng này có thể được xem là nòng cốt của tư tưởng Spinoza.

Sau cùng và trên hết, Spinoza chịu ảnh hưởng rất sâu đậm của Descartes, một triết gia thiên về duy tâm chủ quan. Tư tưởng nòng cốt của Descartes là sự ưu thế của ý thức, ông cho rằng chính tâm thức tự tìm kiếm để tự thấy vượt trên tất cả những thực thể nào khác. Tâm thức ý thức được ngoại cảnh nhờ tác động của ngoại cảnh vào tâm thức và tất cả triết học phải bắt đầu và bắt nguồn từ tâm thức cá nhân. Do đó Descartes kết luận rằng: "Tôi hiện hữu vì tôi đang suy nghĩ". Chủ nghĩa cá nhân của thời phục hưng sống lại trong tư tưởng của Descartes và chính tư tưởng này sẽ đem lại nhiều hậu quả trọng đại. Đây là khởi điểm của một ngành triết học nghiên cứu khả năng hiểu biết của con người mà những triết gia có tên tuổi như Leibnitz, Locke, Hume Berkeley và Kant đã tranh luận suốt ba thế kỷ.

Nhưng khía cạnh của triết học Descartes trình bày trên đây không làm bận rộn Spinoza. Ông từ chối tranh luận về khả năng hiểu biết của con người. Ông chú ý đến quan niệm Descartes về sự đồng nhất của thể chất và tâm thức. Chính những quan niệm này kích thích dòng tư tưởng của Spinoza. Điều làm Spinoza ưa thích trong tư tưởng Descartes chính là sự cố gắng giảng giải vũ trụ bằng những định luật toán học và cơ khí, sáng kiến này cũng là sáng kiến của Léonard và Galilée và là cha đẻ của sự phát triển cơ khí kỹ nghệ trong các thành phố của Ý. Descartes quan niệm rằng Thiên chúa đem lại sự sống và hoạt động của toàn thể vũ trụ từ các tinh tú cho đến các sinh vật, tất cả những cử động của tất cả sinh vật đều có thể được giảng giải bằng những định luật cơ khí. Toàn thể vũ trụ cũng như toàn thể những sinh vật, là những bộ máy. Descartes ngừng tại đây trong khi Spinoza đi xa hơn.

 

3. Sự khai trừ khỏi giáo hội Do thái

Các giáo sĩ Do-thái bắt Spinoza trả lời những câu hỏi sau: phải chăng ông tin và chủ trương rằng Thiên chúa có một hình hài, phải chăng ông chủ trương rằng thiên thần chỉ có trong tình trạng mê sảng, linh hồn chỉ là đời sống và cựu ước không nói gì đến sự bất tử của linh hồn ?

Chúng ta không biết Spinoza trả lời như thế nào cho những câu hỏi trên. Chúng ta chỉ biết giáo hội Do-thái bằng lòng trả cho ông một số tiền nếu chịu phủ nhận những chủ trương có hại cho chủ trương của giáo hội. Ông từ chối. Đến ngày 27.7.1656, ông bị khai trừ khỏi giáo hội Do-thái. Buổi lễ khai trừ thật ảm đạm, vị giáo chủ xướng lên những lời tố cáo nguyền rủa, tiếng kêu rên siết của cái tù và vang lên từng hồi, ánh sáng trong giáo đường dần tắt và khi buổi lễ chấm dứt, toàn thể giáo đường chìm trong bóng tối tượng trưng cho sự ra đi của lý trí trong tâm hồn người phản đạo.

Sau đây là nguyên văn của những lời tố cáo và nguyền rủa do vị giáo chủ đọc trong buổi lễ khai trừ:

"Các giáo phẩm long trọng tuyên bố các ngài đã làm đủ mọi cách để lôi kéo Spinoza về chánh đạo, song tất cả đều vô hiệu. Càng ngày các ngài càng nhận thấy rằng đương sự đã phổ biến luận điệu sai lại một cách ngạo nghễ và nhiều nhân chứng đã quả quyết biết rõ những việc làm này. Do đó hội đồng giáo phẩm quyết định khai trừ Baruch Spinoza khỏi tập thể của những người Do-thái.

Với sự phán xét của các thiên thần và các Thánh, trước những Thánh kinh ghi chú 613 điều răn dạy, chúng tôi nguyền rủa đương sự với tất cả điều nguyền rủa ghi trong kinh luật. Đương sự sẽ bị nguyền rủa ban ngày cũng như ban đêm, khi ngồi khi đứng cũng như khi nằm, khi đi cũng như khi lại. Xin Thượng đế đừng bao giờ tha thứ và chấp nhận đương sự. Xin Thượng đế ra uy với đương sự, bắt buộc đương sự phải chịu tất cả những nguyền rủa ghi trong kinh luật và bôi tên đương sự dưới vòm trời. Xin Thượng đế loại trừ đương sự khỏi sự che chở của ngài và bắt đương sự phải gánh chịu tất cả những lời nguyền rủa trong vũ trụ.

Kể từ hôm nay chúng tôi cấm những người Do-thái ngoan đạo nói chuyện với y, giao dịch thư từ với y, giúp y và sống chung với y. Không ai được đến gần y và không ai được đọc những tác phẩm hoặc chữ do y viết ra".

 Chúng ta không nên kết luận một cách vội vã về thái độ của hàng giáo phẩm Do thái đối với trường hợp Spinoza vì chính họ cũng gặp một tình thế nan giải. Lẽ cố nhiên ai cũng cho rằng hàng giáo phẩm Do-thái cũng hẹp hòi không khác gì những kẻ đã trục xuất họ khỏi xứ Y-pha-nho. Tuy nhiên chính hàng giáo phẩm này bắt buộc phải khai trừ Spinoza vì những tư tưởng ông có hại đến tín ngưỡng của nhà cầm quyền xứ Hoà-lan, một xứ đã cho dân Do-thái trú ngụ. Xứ Hoà-lan là một xứ theo giáo phái Tin lành. Vì sự xung đột ý thức hệ, mỗi phái khư khư giữ chặt những giáo điều của mình vì họ quan niệm rằng quá nhiều máu đã chảy ra để bênh vực cho các giáo điều ấy. Chính quyền Hoà-lan sẽ nghĩ thế nào khi họ nhận thấy rằng những kẻ ăn gởi nằm nhờ trên đất họ đã truyền bá những tư tưởng có hại cho tín ngưỡng họ ? Mặt khác, sở dĩ nhóm người Do-thái có thể tồn tại là nhờ họ đã bảo tồn được sự thống nhất của tập thể, nếu người Do-thái có một lãnh thổ riêng, một bộ luật riêng, một lực lượng riêng, thì có lẽ họ sẽ phóng khoáng hơn trong tư tưởng. Trên thực tế, người Do-thái xem sự trung thành với giáo lý tương đương với sự trung thành với tổ quốc, và các giáo đường là trung tâm của mọi hoạt động xã hội chính trị và tôn giáo của người Do-thái. Những cuốn thánh kinh đối với người Do-thái là cả một tổ quốc mà họ mang theo trên khắp cả nẻo đường lang thang, do đó mọi việc phản kháng lại thánh kinh được xem là một sự tự sát của dân tộc Do-thái. Chúng ta có thể nghĩ rằng giáo hội Do-thái nên xét xử Spinoza một cách khoan hồng hơn, họ có thể kết tội Spinoza với những lời lẽ nhẹ nhàng hơn để cho ông một hy vọng trở lại hoặc một hy vọng sống chung trong cộng đồng Do-thái. Tuy nhiên, giáo chủ Do-thái vắng mặt trong lúc giáo hội kết án Spinoza và định mệnh đã đẩy Spinoza khỏi cộng đồng Do-thái-giáo.

 

4. Những ngày cuối cùng

Spinoza chấp nhận sự khai trừ một cách can đảm, nhưng kể từ đây chàng trai thanh niên này cảm thấy vô cùng cô đơn. Không có gì đáng sợ cho bằng cô đơn, nhất là sự cô đơn của một người Do-thái bị bắt buộc phải tách rời tập thể họ. Spinoza đã chịu mất tín ngưỡng mình và việc này đã để lại nhiều vết thương trong tâm hồn ông. Nếu Spinoza sau khi bị khai trừ khỏi giáo hội Do-thái, lại xin gia nhập một cộng đồng tôn giáo nào đó thì có lẽ ông tìm lại được sự ổn định tâm hồn như một con cừu chen lấn giữa một bầy cừu để sưởi ấm cho nhau, song Spinoza không gia nhập cộng đồng nào khác mà cam chịu sự cô đơn. Thân phụ ông không nhìn nhận ông, người chị của ông toan đoạt hết gia tài và bạn bè ông xa lánh ông. Do đó chúng ta không lạ gì khi tìm thấy một Spinoza ê chề cay đắng. Ông viết như sau:

"Những kẻ muốn tìm hiểu các hiện tượng và chân lý, những kẻ không chịu nhìn đời với cặp mắt ngơ ngáo sẽ bị xem là những kẻ thiếu đạo đức và bị kết án bởi những giáo chủ được dân chúng tôn sùng. Những giáo chủ này biết rằng một khi vô minh đã được dẹp tắt và sự ngơ ngáo đã bị loại trừ thì uy quyền họ chẳng còn gì nữa"

Một đêm, khi Spinoza đang đi ngoài đường, ông bị một kẻ du đãng tấn công. Spinoza chạy thoát sau khi nhận một nhát dao ở cổ. Nhận thấy rằng đời sống trong thành phố quá nguy hiểm, ông dọn ra ngoại ô và sống trên lầu tại một căn nhà yên tĩnh. Ông đổi tên là Benedict thay vì Baruch. Ông tiếp những bạn thân Thiên chúa giáo thuộc phái Mnémonite. Những người này thích bộ mặt hiền hậu và buồn bã của ông và rất hoan hỉ đàm đạo với ông trong những buổi chiều nhàn rỗi. Spinoza kiếm tiền bằng cách dạy học và sau đó bằng cách mài kiếng. Ông đã học nghệ thuật mài kiếng khi còn ở trong cộng đồng Do-thái vì giáo hội chủ trương mỗi người nên biết một nghề tay chân. Chẳng những số lợi tức của một văn nhân hay triết gia không đủ nuôi sống, mà sự hành nghề tay chân còn làm cho con người trở nên đạo đức. Những kẻ chuyên chú vào văn chương hoặc triết lý mà không có một nghề tay chân không chóng thì chầy, sẽ trở nên những kẻ mất bình thường, đó là quan niệm của triết gia Gamaliel.

Năm 1660 chủ nhà của Spinoza đổi đi nơi khác gần Leiden và Spinoza cuốn gói theo ông ta. Căn nhà ấy hiện vẫn còn và con đường trước mặt nay là đường Spinoza. Ở đó ông sống yên tĩnh và suy tư rất nhiều. Nhiều khi ông ở lại luôn trong phòng hai hoặc ba ngày liên tiếp không tiếp ai và dùng bữa ngay tại phòng. Mặc dù ông mài kiếng rất giỏi, ông vẫn dành hết thì giờ vào sự nghiên cứu triết lý. Một kẻ đã chứng kiến đời sống của ông đã viết lại như sau: "Ông tính toán sổ sách rất kỹ lưỡng, để làm sao chi tiêu không quá mức lợi tức kiếm được". Ông thường ví mình như con rắn tự cắn cái đuôi nghĩa là cốt làm sao vừa đủ sống. Mặc dù sống thanh đạm, đời sống ông vẫn hạnh phúc. Nhiều người bạn khuyên ông nên từ bỏ sự tìm chân lý, ông trả lời: "Tôi tìm chân lý cũng như người hái trái cây, dù cho những trái cây tôi hái được không có giá trị gì, tôi vẫn cảm thấy sung sướng và sống những ngày vui vẻ yên tĩnh". Người ta cho rằng: "Nếu Napoléon cũng thông minh như Spinoza, có lẽ ông sẽ ở nhà viết sách hơn là dấn thân vào vòng danh lợi".

Người ta mô tả hình dáng Spinoza như sau: "Ông là người tầm thước, mặt mày hiền lành, da ngăm đen, tóc sẫm và quăn, lông mày dài và đen. Mới xem qua ai cũng biết ông thuộc dòng dõi những người Do thái gốc Bồ-đào-nha. Ông không để ý đến áo quần và trông như một người nghèo khổ. Một công chức đến gặp ông, lúc ấy ông đang mặc bộ đồ buổi sáng nhàu nát. Công chức này trách ông không ăn mặc chỉnh tề và biếu ông một bộ quần áo mới. Spinoza trả lời rằng, những vật vô giá trị dù được gói trong gấm vóc quí giá cũng không ích gì. Tuy nhiên cũng có lúc Spinoza viết: "Một lối ăn ở bê bối không đủ để làm cho chúng ta trở thành triết gia, trái lại nó chứng tỏ một tâm hồn nghèo nàn không xứng đáng là nơi chứa đựng chân lý. Khoa học không thể đi đôi với sự bê bối".

Trong 5 năm ở Rhynsburg, Spinoza viết một cuốn sách nhỏ nhan đề Sự tiến triển của tri thức (De Intellectus Emendatione) và một cuốn sách khác nhan đề Sự chứng minh đạo đức bằng phương pháp hình học, cuốn sau được hoàn thành vào năm 1665 nhưng Spinoza để 10 năm không chịu xuất bản. Năm 1668 một tác giả khác là Koerbagh bị kết án 10 năm cấm cố vì đã công bố những tư tưởng giống tư tưởng Spinoza. Sau khi ở tù được 18 tháng ông chết trong ngục. Năm 1675 Spinoza đi Amsterdam và định xuất bản tác phẩm ông. Người ta đồn rằng, chủ ý ông là muốn chứng minh rằng không có thượng đế. Nhiều giáo sĩ nhân cơ hội này đã đệ đơn kiện Spinoza với nhà vua. Những tin đồn này khiến Spinoza không dám xuất bản quyển sách.

Năm 1677 nghĩa là khi Spinoza qua đời, cuốn Đạo đức học mới được xuất bản cùng với một tác phẩm về chính trị. Tất cả những tác phẩm đều viết bằng tiếng La-tinh. Năm 1852 người ta tìm thấy một bản thảo nhan đề Luận về Thiên chúa và người, viết bằng tiếng Hoà-lan. Lúc sinh tiền, Spinoza chỉ xuất bản được hai cuốn sách, đó là cuốn Căn bản của triết học Descartes xuất bản năm 1663 và Luận về tôn giáo và quốc gia xuất bản năm 1670. Cuốn này bị giáo hội cấm nhưng nó vẫn được phổ biến một cách lén lút dưới những đầu đề nguỵ trang. Người ta viết rất nhiều sách khác để chống Spinoza, nhiều người cho rằng Spinoza là một kẻ vô thần nguy hiểm. Những cuốn sách chống lại Spinoza được ca tụng như những tác phẩm bất hủ. Thêm vào đó nhiều bạn cũ của Spinoza viết thư khuyên ông nên phản tỉnh. Họ viết như sau: "Ông cho rằng ông đã tìm ra nền triết học đích thực, làm sao ông biết được nền triết học của ông là hơn tất cả các loại triết học từ xưa đến nay và trong tương lai ? Ông đã đọc hết tất cả các nền triết học của cả thế giới từ cổ chí kim chưa ? Và giả sử ông đọc rồi đi nữa, làm sao ông lựa chọn được nền triết học trung thực nhất ? Làm sao ông dám tự cho mình đứng trên tất cả các giáo chủ, các thánh tử đạo, các học giả uyên thâm của giáo hội ? Ông chỉ là một sâu bọ trên quả đất, chỉ là cát bụi, làm sao ông dám đương đầu với những học thuyết bất diệt ? Ông căn cứ vào đâu mà dám tung ra một lý thuyết mơ hồ và thiếu lành mạnh như vậy ? Tại sao ông dám phê phán những sự huyền bí mà chính giáo hội Thiên chúa giáo cũng xem là không thể giải thích ?" Spinoza trả lời như sau: "Những kẻ tự cho mình đã tìm thấy tôn giáo tốt nhất và tin tưởng vào những giáo chủ mà họ cho là vô địch, làm sao những kẻ ấy có thể biết rằng những giáo chủ ấy là vô địch trong quá khứ, trong hiện tại cũng như trong tương lai ? Họ đã nghiên cứu tất cả các tôn giáo trên tất cả các nước, trong tất cả các thời đại chưa ? Và dù cho họ đã nghiên cứu tất cả, làm sao họ biết rằng mình đã chọn được tôn giáo tốt nhất ? ".  Chúng ta thấy rằng con người có vẻ hiền lành như Spinoza cũng dám trả lời một cách dứt khoát khi cần. Bên cạnh những lá thư nguyền rủa cũng có nhiều lá thư khuyến khích, những lá thư khuyến khích đáng chú ý nhất là của Henry Oldenburg, bí thư của một nhóm văn học nổi tiếng tại Anh quốc; Von Tschirnhaus, một nhà sáng chế thuộc dòng quý tộc người Đức; Huygens một nhà khoa học Hoà-lan; Leibnitz một danh nhân đã đến thăm Spinoza vào năm 1676; Louis Meyer một bác sĩ Hoà-lan và Simon de Vries một thương gia giàu có ở Amsterdam.  Ông này hâm mộ Spinoza đến nỗi xin Spinoza nhận một số tiền lớn. Spinoza từ chối. De Vries viết một tờ di chúc nguyện hiến dâng tất cả gia tài cho Spinoza, Spinoza từ chối một lần nữa và khuyên De Vries nên để gia tài lại cho người anh. Khi De Vries chết, ông còn cấp cho Spinoza một số tiền hàng năm. Spinoza không thể từ chối nhưng ông chỉ nhận một số ít. Ông nói: "Nếu sống theo thiên nhiên nhu cầu con người rất ít ỏi". Một người bạn khác có nhiều thế lực cũng đã cung cấp cho Spinoza những món tiền hàng năm. Sau cùng vua Louis 14 của nước Pháp cũng định cấp cho Spinoza một số tiền hàng năm với điều kiện rằng ông phải viết tặng nhà vua một cuốn sách. Spinoza từ chối một cách nhã nhặn.

Để làm vừa lòng các bạn bè và những người ái mộ, Spinoza dọn đến ở ngoại ô La Hague năm 1665 và đến năm 1670 ông dọn vào châu thành. Trong những năm này ông kết bạn rất thân với Jan de Witt. Khi anh em De Witt bị dân chúng sát hại ngoài đường vì bị nghi oan là đã gây nên sự thảm bại của quân đội Hoà-lan trong trận chiến tranh Hoà-Pháp năm 1672, Spinoza rất đau đớn và ông đã mạnh dạn tố cáo những kẻ sát nhân bất chấp những nguy hiểm đang đe doạ. Sau đó công tước De Condé tổng tư lệnh đội viễn chinh Pháp đã mời Spinoza đến tổng hành dinh. Spinoza đã nhận lời mời. Việc này bị xem là một sự phản bội, người ta đã cho rằng Spinoza đã kết thân với quân xâm lược Pháp. Chính người bạn Spinoza cũng sợ rằng dân chúng sẽ đến phá nhà để hỏi tội. Spinoza nói rằng: "Nếu dân chúng đến đây và đe doạ căn nhà này, tôi sẽ đến trước mặt họ và nhận lãnh tất cả các trách nhiệm, nếu có bị giết tôi vẫn cam lòng". Sau khi dân chúng hiểu rằng Spinoza đến gặp De Condé chỉ vì một lý do văn chương triết học, họ không còn làm dữ nữa.

Những biến cố trên cho chúng ta thấy rằng cuộc đời của Spinoza không phải là một cuộc đời hẩm hiu cô độc như nhiều người lầm tưởng. Ông có đủ tiền để tiêu xài, ông có những người bạn quyền thế và tận tâm, ông tham gia những vấn đề chính trị đương thời và nhiều khi đã suýt chết. Ông đã thành công, mặc dù bị khai trừ và cấm đoán. Năm 1673 ông được mời dạy ở Đại họcHeidelberg. Người ta hứa với ông rằng ông sẽ được dành một sự tự do rộng rãi trong việc dạy triết học, chỉ xin ông đừng động chạm đến những vấn đề tôn giáo. Spinoza trả lời như sau: "Thưa Ngài, nếu ý nguyện của tôi là giảng dạy trong một viện đại học, thì lẽ tất nhiên tôi sẽ rất hân hạnh để nhận chức vụ giao phó. Hơn nữa Ngài còn có nhã ý cho tôi được hoàn toàn tự do trong việc giảng dạy triết học. Nhưng tôi không hiểu tôi phải làm thế nào để khỏi động chạm đến những giáo điều của quốc gia. Do đó xin Ngài biết cho rằng tôi thực tình không tham muốn gì hơn là thân phận hiện tại của tôi và muốn có sự thanh tịnh như hiện nay, tôi nhận thấy cần phải từ chối chức vụ một giáo sư đại học".

Đến năm 1677 Spinoza mới được 44 tuổi nhưng sức khoẻ của ông có phần sút kém. Ông không được cha mẹ để lại một sức khoẻ dồi dào và nếp sống suốt ngày trong phòng đọc sách không giúp cho ông bồi bổ sức khoẻ. Ông thường cảm thấy khó thở và hai lá phổi của ông càng ngày càng suy yếu. Ông chấp nhận số mệnh một cách can đảm nhưng chỉ sợ rằng ông không còn đủ thì giờ để hoàn thành những tác phẩm hoặc người ta sẽ thiêu huỷ những tác phẩm mà ông đã hoàn thành sau khi ông chết. Ông cất những bản thảo vào một cái rương nhỏ, giao chìa khoá rương cho người chủ nhà và dặn rằng nếu ông chết bất ngờ thì phải giao rương này cho một nhà xuất bản tín cẩn ở Amsterdam.

Một buổi sáng chủ nhật ngày 20.02.1677 người chủ nhà cùng gia đình đi xem lễ, Spinoza cảm thấy khó chịu nhưng ông tin rằng sẽ không đến nỗi nguy hiểm. Chỉ có một người bạn ngồi ở nhà cùng Spinoza. Khi gia đình người chủ nhà trở về thì Spinoza đã chết trong tay người bạn. Rất nhiều người thương tiếc ông, những người tầm thường thương tiếc ông vì tính tình giản dị của ông, những học giả thương tiếc ông vì sự thông thái của ông. Giới trí thức, công chức và dân chúng đi đưa đám ông rất đông, trong đó gồm nhiều người có nhiều tín ngưỡng khác nhau.

 

II. LUẬN VỀ TÔN GIÁO VÀ CHÍNH TRỊ

Chúng tôi sẽ trình bày những ý chính trong các tác phẩm của Spinoza theo thứ tự thời gian soạn thảo. Cuốn Luận về tôn giáo và chính trị đối với chúng ta ngày nay có vẻ không có gì đặc sắc chính vì những ý kiến táo bạo mà Spinoza đưa ra đã được đáp ứng trên toàn thế giới. Và cho đến ngày nay chúng đã thành sự thật hiển nhiên. Dây cũng là một nhận xét chung cho tất cả các triết gia đã trình bày một lập trường quá dứt khoát và quá rõ ràng minh bạch. Chẳng bao lâu, những lập trường ấy trở thành tài sản chung của nhân loại và trở nên gần như những sự thật hiển nhiên. Đây cũng là trường hợp của Voltaire.

Trong tác phẩm kể trên, Spinoza viết rằng các thánh tông đồ đã dùng một lối văn gồm có nhiều điển tích, một là để có cơ hội trình bày các chân lý một cách hoa mỹ, hai là để khỏi động trí tưởng tượng. Họ phải điều chỉnh tư tưởng cho đúng với trình độ và căn cơ của dân chúng. Thánh kinh được soạn thảo cho toàn thể nhân loại, do đó phải thích hợp với trình độ của quảng đại quần chúng. Các tác giả không đưa ra những lý thuyết mà chỉ kể lại những câu chuyện khả dĩ ảnh hưởng đến trí tưởng tượng của những người ít học. Ít khi người ta kêu gọi đến lý trí, người ta chỉ kêu gọi đến trí tưởng tượng. Vì những lẽ trên, có rất nhiều phép lạ và rất nhiều lần Thiên chúa xuất hiện trong thánh kinh. Quần chúng tưởng rằng quyền lực của Thiên chúa và lòng quảng đại của ngài được thể hiện một cách hùng hồn nhất trong những biến cố phi thường hoàn toàn khác với những điều tai nghe mắt thấy hàng ngày. Quần chúng tưởng rằng Thiên chúa không hoạt động khi mọi việc xảy ra một cách bình thường. Họ quan niệm hai quyền lực hoàn toàn khác nhau: quyền lực của Thiên chúa và quyền lực của thiên nhiên. Sự thật thì hai quyền lực ấy chỉ là một. Người ta thích tưởng tượng rằng Thiên chúa phá vỡ những định luật thiên nhiên để giúp đỡ họ, người Do-thái tin rằng Thiên chúa đã làm cho ngày dài hơn để nâng đỡ dân Do-thái. Tất cả những dân tộc khác đều có những tín ngưỡng như vậy. Những lời nói giản dị không lôi kéo tâm hồn. Nếu người ta nói rằng ngọn gió phía tây đã làm cho nước biển Hồng hải rút lui và cho phép đoàn quân của Moise đi qua, dân chúng sẽ không mấy cảm động. Họ sẽ cảm động hơn khi nói rằng chính Thiên chúa đã làm khô nước biển và giúp cho Moise và đoàn quân của ông đi qua. Do đó những phép mầu rất cần thiết để ảnh hưởng đến sự hiểu biết của dân chúng. Những người sáng lập tôn giáo dùng những lối hành văn bóng bẩy có thể làm cho dân chúng tin tưởng hơn tin tưởng những triết gia hoặc những nhà khoa học.

Nếu hiểu như vậy thì Thánh kinh không đi ngược với lẽ phải. Nếu hiểu một cách chặt chẽ hơn thì Thánh kinh đầy rẫy những sự mâu thuẫn, mê tín, dị đoan. Sau này, khi tìm cách diễn giảng những điển tích trong Thánh kinh người ta mới đoán được một phần nào những chân lý. Chính nhờ những sự diễn giảng ấy mà các chân lý trong Thánh kinh càng ngày càng phong phú. Dân chúng luôn luôn đòi hỏi một giáo lý được trình bày trong một văn thể hoa mỹ đầy rẫy những phép lạ. Họ sẽ tạo nên  những huyền thoại nếu trong giáo lý chưa có những huyền thoại ấy. Đối với triết gia thì Thiên chúa và Thiên nhiên chỉ là một, tất cả những định luật bất di bất dịch của thiên nhiên đều là những định luật của Thiên chúa. Nếu trong Thánh kinh, người ta hình dung Thiên chúa như một đấng Toàn năng đầy vị tha bác ái, đó là vì người ta muốn khêu gợi tưởng tượng của dân chúng; sự thật thì tất cả những chân lý, tất cả những định luật thiên nhiên, đều là những định luật của Thiên chúa.

Spinoza không phân biệt Tân ước và Cựu ước. Ông xem Thiên chúa giáo và Do thái giáo là một. Khi người ta gạt ra ngoài những sự hiềm khích, những sự hiểu lầm để tìm căn bản của hai tín ngưỡng đối lập ấy, người ta sẽ thấy rằng trong căn bản, hai tín ngưỡng ấy không khác nhau là bao. Những kẻ tự cho mình là những người theo Thiên chúa giáo, một tôn giáo đã đề cao tình thương, lòng nhân từ, sự hoà bình, tính tiết độ mà lại tỏ ra hiềm khích, ganh ghét, hiếu chiến đối với những tôn giáo khác là một sự mâu thuẫn. Tập thể Do thái đã tồn tại vì những người Thiên chúa giáo thù ghét họ. Càng bị kỳ thị, họ càng đoàn kết. Nếu không có sự kỳ thị, có lẽ họ đã kết hôn với những dân tộc khác và dân dần hoà mình trong cộng đồng xã hội. Trên bình diện triết lý, không có gì ngăn trở những người Do thái và những người theo Thiên chúa giáo sống chung hoà bình với nhau.

Bước đầu tiên để đi đến sự hoà giải ấy là tìm hiểu Chúa cứu thế một cách rõ ràng hơn. Nếu loại bỏ những lý do hiềm khích, người Do thái sẽ nhận thấy rằng Chúa cứu thế là một đấng tiên tri cao cả nhất. Spinoza không công nhận nguồn gốc thiêng liêng của Chúa cứu thế. Ông công nhận rằng Chúa cứu thế chỉ là một người, nhưng là một người cao cả nhất trong những người khác. Sự toàn thiện toàn mỹ của Thiên chúa được thể hiện trong tất cả mọi vật, trong tất cả mọi người và nhất là trong Chúa cứu thế Giê-su chẳng những dạy cho người Do thái mà còn dạy cho toàn thể nhân loại. Do đó ông dùng những lời lẽ giản dị, bóng bẩy để tất cả mọi người đều hiểu. Ông dùng nhiều nhất là các điển tích. Spinoza cho rằng đạo giáo của chúa Giê-su phù hợp với những khôn ngoan thông thường. Khi suy tôn Chúa Giê-su tức là người ta đã suy tôn Thiên chúa. Nếu không có những giáo điều chật hẹp, thiển cận gây nên những sự hiềm khích thì toàn thể nhân loại có lẽ đã theo về với Giê-su và chấm dứt những cuộc chiến tranh trên bình diện ý thức cũng như trên bình diện vũ khí. Có lẽ nhân loại đã tìm lại sự thống nhất trong tín ngưỡng và trong tình huynh đệ.

 

III. SỰ CẢI TIẾN TRÍ NĂNG

Đây là đầu đề của tác phẩm thứ hai của Spinoza. Tác giả giảng giải vì sao ông đã từ bỏ tất cả để chuyên nghiên cứu triết lý:

Kinh nghiệm cho ta thấy rằng tất cả những sự vật trên cõi đời này đều vô thường. Khi tôi thấy rằng tất cả những sự vật không có gì tốt hoặc xấu tự bản chất chúng, tôi muốn tìm hiểu thử xem trên đời này có cái gì được xem là thật sự tốt và có thể truyền đạt đức tính ấy cho mọi người, làm cho tâm trí say mê đến nỗi loại bỏ tất cả những sự vật khác, tôi quyết tâm tìm xem có thể nào đạt được một trạng thái hạnh phúc hoàn toàn và lâu bền. Tôi có thể thấy những điều lợi do tiền bạc và danh vọng mang lại, nhưng càng có nhiều tiền bạc và danh vọng, người ta càng vui thích và do đó con người luôn luôn tìm cách kiếm thêm tiền bạc và danh vọng. Nếu vì một lẽ gì công cuộc ấy không thành tựu con người sẽ đau khổ ê chề. Danh vọng cũng có nhiều sự bất tiện. Con người đeo đuổi danh vọng phải luôn luôn làm vừa lòng mọi người và tuyệt đối tránh những cử chỉ không phù hợp với nhãn quan của người khác. Chỉ có sự yêu thích những cái gì vô tận mới đem đến cho tâm trí những khoái cảm hoàn toàn trong sạch nghĩa là không nhuốm khổ đau. Không có gì quan trọng bằng tìm hiểu mối liên hệ giữa tâm trí con người và toàn thể vũ trụ. Càng tìm hiểu con người càng nhận thức được những năng lực của chính mình và trật tự của thiên nhiên. Càng nhận thức được những năng lực của chính mình, con người càng có thể kiếm ra những định luật cho chính mình. Càng nhận thức được trật tự của thiên nhiên, con người càng tự giải thoát khỏi những công việc vô ích, đó là toàn thể phương pháp của tôi.

Chính sự hiểu biết tạo nên quyền lực và giải thoát. Và hạnh phúc trường cửu chính là sự hiểu biết. Tuy nhiên, triết gia phải hoà mình trong cuộc sống với người khác. Họ phải sống thế nào trong khi đi tìm chân lý ? Spinoza đã đặt ra những lề lối cư xử và ông đã tuân theo những lề lối ấy trong suốt cuộc đời ngắn ngủi của ông:

1. Phải nói chuyện với người khác một cách giản dị dễ hiểu và giúp đỡ họ trong mọi điều không làm hại đến chí hướng của ta.

2. Chỉ đi tìm những khoái lạc cần cho sự giữ gìn sức khoẻ.

3. Chỉ kiếm tiền vừa phải để sinh sống và giữ gìn sức khoẻ, đồng thời tuân theo tất cả những tập tục không trái ngược với chí hướng của ta.

Trong khi đi tìm chân lý triết gia có thể tự đặt câu hỏi: làm sao biết chân lý của tôi đích thực là chân lý ? làm sao tin tưởng được những tín hiệu của giác quan ? Tâm trí của con người không khác gì chiếc xe, trước khi lên xe để nó chở mình đi, cần phải xem lại chiếc xe như thế nào và phải làm đủ mọi cách để sửa sang chiếc xe cho hoàn toàn. Nói một cách khác chúng ta cần phải phân biệt những sự hiểu biết khác nhau và chỉ đi tìm sự hiểu biết chân chính.

Trước hết, chúng ta có những sự hiểu biết bằng cách nghe những người khác kể lại, ví dụ: tôi biết ngày sinh của tôi. Thứ hai là những sự hiểu biết mơ hồ căn cứ trên một vài kinh nghiệm, ví dụ : một y sĩ biết một thứ thuốc có thể trị được một loại bệnh. Thứ ba, sự hiểu biết bằng suy luận, ví dụ: tôi hiểu biết mặt trời rất lớn bằng cách suy luận dựa theo khoảng cách giữa mặt trời và trái đất hoặc sức nóng của mặt trời trên trái đất. Loại hiểu biết thứ ba này hơn hẳn hai loại trước, nhưng một đôi khi cũng dễ nhầm lẫn. Do đó loại biết tốt nhất là loại biết trực tiếp, ví dụ: toàn thể lớn hơn một phần. Spinoza tin tưởng rằng sự hiểu biết về toán học là một sự hiểu biết trực tiếp và ông còn cho rằng những sự hiểu biết trực tiếp rất ít so với những hiểu biết khác.

Trong cuốn Đạo đức học, Spinoza gom loại hiểu biết số (1) và (2) thành một loại duy nhất và xem sự hiểu biết bằng trực giác như là một sự hiểu biết có tính cách trường cửu. Ông cho rằng triết học là một khoa học căn cứ trên trực giác. Ông phân biệt thế giới của các sự vật và các sự kiện, thế giới này không có tính cách trường tồn trong khi thế giới của các dịnh luật có tính trường tồn.

 

IV. ĐẠO ĐỨC HỌC

Đây là một tác phẩm vô cùng quí giá, trong đó Spinoza lần đầu tiên đem phương pháp toán học để nghiên cứu và giảng giải các vấn đề thuộc lãnh vực đạo đức. Sự cố gắng của Spinoza thật đáng khen. Tuy nhiên cần công nhận cuốn Đạo đức học rất khó hiểu. Trước Spinoza, Descartes cũng đã tin tưởng phương pháp toán học có thể áp dụng trong lãnh vực triết học nhưng Descartes chưa bao giờ thực hiện ý định này. Việc áp dụng phương pháp toán học vào khoa học đã được các khoa học gia như Copernic, Képler và Galilée, những công trình của các vị này khuyến khích Spinoza áp dụng phương pháp toán học trong triết học. Spinoza đã dùng những định đề, định luật, nguyên lý chứng minh... rất nhiều trong tác phẩm ông và người đọc có cảm tưởng như mình đang đánh một ván cờ với các tướng sĩ tượng xe pháo mã tốt. Có lẽ rằng trong những ngày dài cô đơn trong phòng đọc sách Spinoza đã sáng chế ra trò chơi này để giết thì giờ. Đối với phần đông chúng ta, vấn đề nghiên cứu triết học cần nhiều tưởng tượng hơn là lý luận, kết quả là một mớ kiến thức lộn xộn không ăn khớp với nhau. Spinoza muốn đi ngược lại khuynh hướng này, hệ thống hoá và thống nhất hoá tất cả các tư tưởng. Ông muốn đi tìm một chân lý minh bạch khô khan hơn là tìm những tư tưởng bóng bẩy dưới một văn thể hoa mỹ. Tác phẩm của ông là một tác phẩm của một kiến trúc sư cổ điển với những đường thẳng song song cân đối. Tác phẩm được viết bằng tiếng La tinh, do đó việc dịch thuật gặp nhiều trở ngại vì có những ý niệm rất minh bạch khi diễn tả bằng tiếng La tinh mà lại không rõ ràng khi phải diễn tả bằng một thứ tiếng khác. Nói tóm lại, tác phẩm của Spinoza không phải để đọc mà để nghiên cứu học hỏi. Phải đọc nó như khi ta đọc một cuốn sách toán học và đừng quên rằng tác phẩm với 200 trang ngắn ngủi đó là kết quả của một đời suy tư. Chúng ta cần phải đi từng bước một, không một chi tiết nào có thể bỏ qua vì chúng ta sẽ không thể hiểu những ý niệm trình bày ở sau nếu chưa thông suốt được những ý niệm đã trình bày ở trước. Một vài ý niệm có vẻ không quan trọng lại có thể là những ý niệm then chốt. Mặt khác, chúng ta sẽ không thể thưởng thức những ý niệm lẻ loi trước khi chúng ta đã thông suốt toàn bộ tác phẩm. Chính Spinoza cũng khuyên các độc giả nên đọc tác phẩm của ông một cách thận trọng, không nên đọc suốt một lần mà chỉ nên tiến theo từng giai đoạn nhỏ. Khi đã đọc xong toàn thể tác phẩm, chúng ta sẽ có cảm giác thích thú là chúng ta vừa mới bắt đầu hiểu tác phẩm. Ngoài ra, các bạn nên đọc một vài bài bình luận trứ danh viết về Spinoza rồi trở lại đọc tác phẩm Spinoza một lần nữa. Các bạn sẽ thấy rằng tác phẩm ấy sẽ đem lại cho các bạn nhiều nguồn ánh sáng mới, và sau đó các bạn sẽ trở thành một người say mê triết học.

 

1. Bản thể của Thiên chúa

Bắt đầu tác phẩm là một thiên trường luận siêu hình. Phần đông chúng ta rất sợ những vấn đề siêu hình nhưng nghĩ cho cùng thì, như William James đã nói, siêu hình học chỉ là một cố gắng tìm hiểu sự vật trong bản thể tối hậu của chúng và do đó, thống nhất hoá các tư tưởng để đi đến một chân lý toàn vẹn nhất. Ngay cả khoa học, mới xem qua có vẻ không dính dấp gì đến các vấn đề sieu hình, nhưng nếu nghiên cứu tường tận hơn thì khoa học cũng bắt nguồn từ những vấn đề siêu hình.

Spinoza cho rằng tất cả hiện tượng hoặc các sự vật đều do một bản thể. Bản thể ở đây phải hiểu theo một nghĩa rộng, đó là cái bản thể trường cửu và bất biến. Nếu chưa đạt được bản thể trường cửu và bất biến ấy chúng ta chỉ mới đề cập đến các hiện tượng mà thôi. Hình như Spinoza dùng chữ bản thể để nói đến cái nguyên lý trường cửu của vũ trụ. Cũng có đoạn Spinoza gom góp ba ý niệm: bản thể, thiên thể và Thiên chúa là một. Spinoza quan niệm thiên nhiên là mầm sống và quan niệm này đã được Bergson khai triển. Cũng có lúc Spinoza dùng tiếng "thiên nhiên" để chỉ những cái gì đã được tạo thành như rừng cây, sông núi, đồng ruộng v.v... Khi Spinoza viết rằng thiên nhiên là Thiên chúa, ông muốn nói đến cái quan niệm thiên nhiên sinh thành vạn vật chứ không phải là cái thiên nhiên đã được tạo thành. Quan niệm bản thể của Spinoza chính là một quan niệm siêu hình, nó không phải là vật chất, nó tạo ra vật chất.

Spinoza nói rằng bản thể của vũ trụ là Thiên chúa. Danh từ bản thể này không nên hiểu là thế giới vật chất. Những định luật bất biến của vũ trụ và những ý muốn của Thiên chúa chỉ là một. Những định luật này tuyệt đối bất biến trong không gian và thời gian, không khác gì những định luật toán học. Vũ trụ không khác gì một công trình kiến trúc vĩ đại. Sở dĩ công trình này đứng vững là nhờ những định luật quy định sự tương quan giữa những phần này và phần khác. Một cái cầu bắc qua một con sông dài sẽ không thể đứng vững nếu không theo những định luật căn bản về kiến trúc. Vũ trụ cũng đứng vững không khác gì cái cầu kia nhờ những định luật của Thiên chúa. Tất cả những hiện tượng chỉ là những diễn biến theo một quá trình đã ấn định. Sự hiện diện của Thiên chúa thật rõ ràng qua những hiện trạng ấy. Chúng ta không nên quan niệm Thiên chúa là một kẻ độc tài muốn thay đổi ý định lúc nào cũng được. Descartes xem cuộc sống chỉ là những tác động máy móc, Spinoza xem Thiên chúa và tâm linh cũng chỉ là những tác động máy móc. Vũ trụ của Spinoza là một vũ trụ xác định. Chúng ta thường có những thói quen suy nghĩ rằng tất cả những hành động của chúng ta đều do một mục đích hoặc một ý định nào đó. Chúng ta đem ý tưởng này gán cho vũ trụ và tạo nên một Thiên chúa theo hình ảnh của chúng ta. Do đó chúng ta gặp phải một trở ngại không thể giải quyết khi muốn giảng giải sự có mặt của điều ác trên trái đất này. Chúng ta không thể quan niệm một Thiên chúa toàn thiện tòan năng lại để cho các điều ác tồn tại. Sự thật thì Thiên chúa đứng trên các điều thiện và điều ác của chúng ta. Thiện hay ác chỉ là những quan niệm của những cá nhân nhỏ bé, nó hoàn toàn không có một ý nghĩa gì trong vũ trụ khách quan. Đối với vũ trụ ấy thì lịch sử của loài người không khác gì những chữ viết trên mặt nước. Có những sự việc mà chúng ta cho là ác, sự thật thì không có gì là ác với vũ trụ. Mặt khác có những sự việc lúc thì thiện lúc thì ác, lúc thì không thiện không ác tuỳ theo trường hợp. Một bản nhạc có thể là thiện đối với người này, ác đối với người khác và không thiện không ác đối với người đã chết.

Quan niệm về đẹp và xấu cũng không khác gì quan niệm thiện ác kể trên. Đó chỉ là những quan niện chủ quan: Cái gì hợp với chúng ta, chúng ta cho là đẹp, thiện. Cái gì không hợp với chúng ta chúng ta cho là xấu, ác. Spinoza đã đi xa hơn Platon còn tin tưởng rằng cái đẹp là cái gì phù hợp với định luật của Thiên chúa. Spinoza còn chỉ trích ý niệm cho rằng Thiên chúa là một người. Ông tự hỏi tại sao lại nói rằng Thiên chúa là một người đàn ông mà không nói  Thiên chúa là một người đàn bà ? Ngay trong quan niệm này, chúng ta đã thấy sự suy diễn cái ý niệm trọng nam khinh nữ của con người vào lãnh vực siêu hình. Nếu cho rằng Thiên chúa là một người, chẳng bao lâu chúng ta sẽ quan niệm rằng Thiên chúa sẽ có thể thấy được, nghe được, quan sát được, mong muốn được vân vân. Spinoza kết luận rằng một hình tam giác sẽ nói rằng Thiên chúa là một hình tam giác và một vòng tròn sẽ bảo rằng Thiên chúa là một vòng tròn.

Spinoza quan niệm rằng không thể gán cho Thiên chúa một ý chí như ý chí của con người mà phải xem rằng ý chí của Thiên chúa là tất cả các nguyên lý và định luật trong vũ trụ, do đó lý trí của Thiên chúa là tất cả lý trí trong vũ trụ. Spinoza tin rằng tất cả các sự vật đều có một linh hồn. Linh hồn và thể chất chỉ là hai khía cạnh của một vấn đề.

 

2. Vật chất và tâm thức.

Vật chất là gì ? Tâm thức có phải là vật chất không, hoặc ngược lại thân xác phải chăng chỉ là một hình ảnh của tâm thức ? Sự suy nghĩ là nguyên do hay là kết quả của những diễn tiến trong bộ óc ? Phải chăng sự suy nghĩ và những diễn tiến ấy hoàn toàn độc lập với nhau ? Spinoza trả lời rằng tâm thức không phải là vật chất và vật chất cũng không phải là một hình ảnh do tâm thức tạo nên. Các diễn tiến trong óc não không phải là nguyên do mà cũng không phải là kết quả của sự suy nghĩ, các diễn tiến ấy và sự suy nghĩ cũng không phải hoàn toàn độc lập đối với nhau. Diễn tiến và suy nghĩ chỉ là một hiện tượng được nhìn dưới hai khía cạnh khác nhau. Nếu ở trong nhìn ra, thì chúng ta cho đó là suy nghĩ, nếu ở ngoài nhìn vào thì chúng ta cho đó là sự di chuyển của các dòng điện. Spinoza còn đi xa hơn và cho rằng tâm thức và vật chất chỉ là một hiện tượng nhìn dưới hai khía cạnh khác nhau. Tâm thức không thể ảnh hưởng đến tâm thức vì cả hai chỉ là một

 

Chương 5

Voltaire (1694 – 1777)

Sự xán lạn của nước Pháp

 

 I. PARIS : OEDIPE

Ở Paris năm 1742, Voltaire hướng dẫn nghệ sĩ Dumesnil trình diễn vở kịch Mérope. Nghệ sĩ nầy than phiền rằng cô ta bị ám ảnh bởi quỉ sứ mới có thể đóng vai trò của mình. Voltaire trả lời rằng :"Thật đúng như vậy, muốn thành công trong bất cứ ngành nào cần phải bị ám ảnh". Chính những người phê bình Voltaire và những kẻ thù của ông cũng công nhận rằng ông hội đủ điều kiện trên. Sainte Beuve và De Maistre đều cảm thấy điều đó.

 Xấu xa, vô liêm sỉ, đôi khi thiếu thật thà, đó là những tật xấu của thời đại mà Voltaire đã giữ lấy không sót một món nào. Thêm vào đó, và cùng trong lúc đó, Voltaire tỏ ra vô cùng nhân từ, không tiếc thời giờ, năng lực và tiền bạc trong những việc nghĩa hoặc công kích những kẻ thù. Ông vừa mãnh liệt trong sự công kích nhưng lại trở nên hiền từ sau khi mối bất đồng chấm dứt, tất cả những mâu thuẫn của con người đều chứa đựng trong văn hào đó.

 Tuy nhiên, tất cả những đức tính chủ chốt của Voltaire. Đặc tính nổi bật nhất của ông là trí thông minh vô cùng phong phú và sáng lạn. Ông sáng tác 99 pho sách, trong đó mỗi trang giấy đều chứa đựng những ý nghĩ bổ ích. Tất cả những vấn đề trên thế giới đều được bàn đến không khác gì trong một cuốn bách khoa. Voltaire thường nói: "Nghề của tôi là nói lên những cái gì tôi suy nghĩ". Và tất cả những cái gì ông suy nghĩ đều đáng được nói lên. Hơn nữa, tất cả những cái gì ông nói lên đều đẹp.  Nếu phần lớn  tác phẩm của Voltaire không được chúng ta chú ý đến ngày nay là vì những vấn đề thuộc lãnh vực tôn giáo và siêu hình ghi dấu sự tranh đấu của Voltaire không còn là những vấn đề thời sự của thế hệ chúng ta. Ngày nay, sự tranh đấu trên lãnh vực tư tưởng thường hướng về khía cạnh kinh tế hơn là khía cạnh siêu hình. Mặt khác, chính sự tranh đấu dũng mãnh của Voltaire đã làm biến mất những thành kiến có tính cách mê tín độc tôn của thời ông . Một yếu tố làm Voltaire trở nên danh tiếng là lối nói chuyện vô cùng hấp dẫn và xác đáng của ông. Rất tiếc là ngày nay chúng ta chỉ còn giữ lại phần thể xác tức là những tác phẩm của Voltaire, còn phần tinh anh, tức là những cuộc đối thoại của ông thì đã mai một cùng một lúc với tác giả. Voltaire có biệt tài biến đổi sự giận dữ thành những nét khôi hài trào lộng, biến đổi lửa thành ánh sáng. Một con người luôn luôn hùng hồn, một bộ óc vô cùng tinh vi, phải chăng Voltaire là một con người với nhiều óc sáng tạo nhất trong lịch sử loài người ?

Chắc chắn rằng ông làm việc rất nhiều và chiếm được nhiều thành tích hơn tất cả những người khác trong thế hệ ông. Voltaire thường nói: "Không có việc gì để làm, hoặc không có đời sống chỉ là một". Theo ông thì tất cả mọi người đều tốt trừ những người ăn không ngồi rồi. Người thư ký của Voltaire nói rằng ông rất hà tiện thì giờ. Ông rất ưa thích công việc để cải thiện đời sống. Càng lớn tuổi ông càng ưa làm việc và  ông cho rằng đó là niềm vui cao cả nhất có thể cho ta thoát khỏi những ảo tưởng của cuộc đời. Voltaire nói rằng : "Nếu anh không muốn tự tử, thì hãy tìm một việc gì để làm".

 Câu nói trên có thể làm cho chúng ta nghi rằng Voltaire luôn luôn bị ám ảnh bởi ý định quyên sinh vì ông luôn luôn tìm việc để làm. Thế kỷ của ông là một thế kỷ sáng lạn và ông là linh hồn của thế kỷ ấy. Victor Hugo nói rằng : "Nhắc đến Voltaire tức là nhắc đến toàn thể thế kỷ thứ 18". Nước Ý có thời kỳ phục hưng làm rạng rỡ cho văn hoá Ý, nước Đức có thời kỳ cải cách và nước Pháp có Voltaire. Thật vậy, ông vừa là thời kỳ phục hưng, thời kỳ cải cách và một nửa thời kỳ cách mạng. Ông mang trong mình tánh đa nghi của một Montaigne, tánh trào lộng của một Rabelais. Ông tranh đấu chống mê tín và thối nát, một cách dũng cảm và hữu hiệu hơn cả Luther, Erasmus, Calvin hoặc Knox. Ông góp phần vào việc chế tạo thuốc súng để sau nầy các tay như Mirabeau, Morot Danton, Robespierre làm nổ tung chế độ phong kiến lỗi thời. Lamartine nói rằng: "Nếu đem so sánh thành tích thì Voltaire là văn hào cao cả nhất của Âu châu. Ông sống đến 83 tuổi và đã dùng thời gian ấy để chấm dứt sự thối nát của một thời đại.

 Không một nhà văn nào có nhiều ảnh hưởng như vậy. Mặc dù bị tù đày và cấm xuất bản sách, ông vẫn anh dũng đấu tranh bênh vực chân lý làm cho vua chúa cuối cùng phải kính phục ông và nể vì ông. Một nửa thế giới chăm chú ghi nhận ý kiến của ông. Voltaire và Rousseau là tiêu biểu cho sự tiến triển của thế giới từ một chế độ quý tộc phong kiến đến chế độ trung lưu. Khi một giai cấp đang lên bị cản trở bởi phong tục và luật lệ hiện hữu, họ phải nhờ đến lý trí để phá vỡ lớp vỏ ấy. Chính vì thế mà giai cấp trung lưu đã ủng hộ Voltaire và Rousseau. Cần phải giải thoát con người khỏi những tập tục cổ xưa, mở rộng những chân trời mới cho tư tưởng và dọn đường cho cuộc cách mạng sắp đến. Nói rằng Voltaire và Rousseau là nguyên nhân của cuộc cách mạng có lẽ không đúng hẳn. Họ là tiêu biểu những lực lượng cải cách đang tiềm tàng trong xã hội Pháp thời ấy, họ là những ánh lửa phát ra từ một hoả diệm sơn đang sôi sục. Tuy nhiên, chúng ta cũng không nên phủ nhận vai trò của triết lý đối với các biến cố xã hội. Phế đế Louis 16 khi bị giam cầm ở ngục thất đã nói rằng: "Chính Voltaire và Rousseau đã phá hoại nước Pháp", Napoléon nói rằng: "Giòng Bourbon có thể thoát được tai hoạ nếu họ biết kiểm soát sự ấn loát. Súng thần công phá tan thành quách, tác phẩm phá tan xã hội". Voltaire cũng nói rằng :"Chính những tác phẩm cai trị thế giới, không có cái gì thoát khỏi con người bằng một nền giáo dục thích  hợp, khi một quốc gia bắt đầu biết suy nghĩ, không một lực lượng nào có thể ngăn cản được". Với Voltaire nước Pháp bắt đầu suy nghĩ.

Tên thật của Voltaire là François Marie Arouet sinh tại Paris năm 1694 trong một gia đình chưởng khế giàu có. Ông thụ hưởng ở người cha bẩm tính thông minh và hào hiệp, hưởng thụ ở người mẹ tánh trào lộng. Khi ông ra đời thì mẹ chết, ông là một đứa trẻ ốm yếu cho đến nỗi người ta tưởng rằng không thể sống lâu quá 2 ngày. Sự thật thì ông đã sống đến 83 tuổi, nhưng suốt đời ông vẫn mang một thể chất yếu đuối và đa bệnh. Ông có một người anh tên Armand theo giáo phái Janséniste và suýt bị chính quyền bắt bớ vì Armand có một tâm hồn cao thượng cương quyết phản đối những tập tục tôn giáo độc tài của thời ấy. Cả hai anh em đều rất thích văn chương, Voltaire biết làm thơ từ khi mới biết viết và cái đó làm cho người cha rất lo âu. Tuy nhiên một người bà con thấy ở đó rất nhiều hứa hẹn trong tương lai của Voltaire. Khi bà này chết có để lại cho Voltaire 21000 quan để mua sách. Sự giáo dục của Voltaire còn bị ảnh hưởng bởi một tưởng sĩ có đầu óc phóng khoáng đã dạy cho ông tánh hoài nghi và suy luận. Những thầy giáo của Voltaire thuộc giáo phái Jésuite đã dạy cho Voltaire nghệ thuật tranh luận và do đó, đã gieo mầm hoài nghi vào đầu óc ông. Lúc 12 tuổi Voltaire đã biết tranh luận về các đề tài sâu xa như giáo lý và thần học với những nhân vật danh tiếng đương thời. Đến lúc cần phải tìm một nghề để sinh nhai Voltaire cương quyết chọn nghề viết văn. Người cha cương quyết phản đối nói rằng : "Nghề viết văn là nghề của những kẻ ăn bám xã hội, ăn bám vào bà con và chết trong sự đói khổ". Voltaire vẫn chọn nghề viết văn.

 Voltaire thường thức khuya để đàm đạo với những tay giang hồ trong tỉnh làm người cha rất bất bình phải gởi ông ta đến thành phố Caen sau khi nhắn nhủ người bà con ở đó phải giữ Voltaire ở trong nhà không cho đi đâu. Nhưng chẳng bao lâu Voltaire thuyết phục được người bà con và tìm được tự do. Người cha tức giận gởi Voltaire ra ngoại quốc sống với sứ thần Pháp ở La Haye và cũng không quên nhắn nhủ phải coi chừng Voltaire rất kỹ. Tại đây Voltaire phải lòng một thiếu nữ và hai người trao cho nhau nhiều bức thư tình nồng cháy. Công chuyện bị tiết lộ, Voltaire bị cha gọi về.

 Năm 1715 Voltaire vừa đúng 21 tuổi, ông đến Paris vừa lúc hoàng đế Louis 14 băng hà, hoàng tử kế vị quá trẻ để cai trị nước Pháp đừng nói gì đến việc cai trị thành phố Paris. Quyền hành được gom vào tay một phụ chính đại thần. Trong thời gian này nhiều cuộc nổi loạn xẩy ra ởParis và Voltaire hớn hở tham dự. Ông có tiếng là một thanh niên hào hoa phong nhã và trào lộng. Khi quan phụ chính đại thần, để tiết kiệm công quỹ, cho bán đấu giá một nửa số ngựa của nhà vua, Voltaire nhận xét rằng giá cho về vườn một nửa số lừa của triều đình thì có lợi hơn. Những lời châm biếm ranh mãnh của Voltaire được truyền miệng từ người này đến người khác khắp thủ đô Paris hoa lệ. Trong những lời châm biếm ấy có 2 bài thơ tố cáo quan phụ chính đại thần âm mưu cướp ngôi vua. Quan phụ chính nổi trận lôi đình, nói với Voltaire :

- Nầy ông Arouet, tôi sẽ chỉ cho ông thấy một nơi mà ông chưa bao giờ thấy.

- Thưa quan phụ chính đó là nơi nào ?

- Đó là phía trong ngục thất Bastille.

Và ngày hôm sau, 16.4.1717 Voltaire vào ngục thất Bastille.

 Chính trong thời gian ở ngục thất Bastille, Voltaire đã tự đặt cho mình cái tên Voltaire. Hồi trong ngục thất ông trở thành thi sĩ và sáng tác tập thơ lấy tên là Henriade. Sau một thời gian quan phụ chính nguôi giận ra lệnh phóng thích Voltaire và cấp cho ông một món tiền hàng tháng. Voltaire viết một lá thơ cám ơn đại ý nói rằng ông rất vui lòng nhận món tiền phụ cấp để ăn còn vấn đề chỗ ở thì xin phép được tự lo liệu.

  Ra khỏi ngục thất ông bắt đầu hoạt động kịch nghệ. Vở kịch Oedipe xuất bản năm 1718 được toàn thể Paris hâm mộ và được trình diễn liên tiếp 45 đêm. Chính người cha đau khổ cũng đến xem kịch và vô cùng xúc động trước sự thành công của Voltaire. Vở kịch đem lại cho Voltaire 4000 quan. Ông dùng số tiền nầy để đầu tư một cách rất khôn ngoan. Trong cuộc đời sóng gió của ông chẳng những Voltaire biết để dành tiền mà còn biết làm cho tiền sinh lợi. Ông rất chú trọng đến câu "Một triết gia trước hết phải đủ sống rồi mới nghĩ đến triết lý sau". Năm 1729 nhờ đầu cơ vé số của chính phủ ông được lời một số tiền lớn. Càng giàu ông càng độ lượng, bỏ tiền ra giúp ích và nâng đỡ một số rất nhiều người thất cơ lỡ vận.

 Vở kịch thứ hai của Voltaire hoàn toàn thất bại và Voltaire cảm thấy buồn phiền. Ông luôn luôn bị ám ảnh bởi dư luận và thường ao ước được sống như loài vật vì chúng nó không đếm xỉa gì đến dư luận. Sau vụ vở kịch thất bại Voltaire nhuốm bệnh đậu mùa. Sau khi lành bệnh Voltaire được tiếp đón khắp nơi nhờ tài ăn nói và thái độ hào hoa phong nhã của ông. Trong 8 năm trời ông được đón tiếp ở những nơi thanh lịch nhất, nhưng sau đó một việc đáng tiếc xảy ra. Giai cấp quý tộc thời bấy giờ có thói quen khi dễ những người không phải là quý tộc mà Voltaire thuộc về loại nầy. Trong một bữa tiệc, quan khách đang chăm chú nghe Voltaire nói thao thao bất tuyệt thì một nhà quý phái tên là De Rohan cất tiếng hỏi:

- Thằng nào nói lớn tiếng như vậy ?

- Thưa ngài, Voltaire trả lời, nó là một thằng không mang danh quý tộc.

 Câu trả lời nầy làm cho De Rohan nổi giận. Ông mướn một lũ du đãng chận Voltaire giữa đường và đánh có thương tích. Ngày hôm sau, trong nhà hát Voltaire đầu băng vải trắng, chân đi khập khiễng đến trước mặt De Rohan đang ngồi xem hát và thách ông nầy đấu gươm. Sau đó, Voltaire về nhà xách gươm ra sân để tập dượt một vài đường. Nhưng De Rohan từ chối thách đấu lại còn nhờ người anh làm tổng trưởng an ninh bảo vệ cho mình. Voltaire bị bắt và bị nhốt vào ngục Bastille. Sau một thời gian ông được phóng thích với điều kiện là phải qua sống tại Anh. Có một lần Voltaire trốn về Pháp để tìm cách trả thù, nhưng những bạn thân cho biết là sự hiện diện của ông trên đất Pháp đã bị bại lộ, nếu không chuồn sớm sẽ bị vào tù một lần thứ ba. Voltaire nghe lời bạn và chuồn về Anh quốc.

 

II. LONDON:  NHỮNG    THƠ  TỪ  ANH QUỐC

Tại London, Voltaire tìm cách học tiếng Anh để có thể hiểu biết về văn hoá của nước ấy. Lúc đầu ông rất bực mình vì cách đọc tiếng Anh, ví dụ chữ Plague chỉ có một vần, trong khi chữ Ague lại có 2 vần. Nhưng cuối cùng sau một năm học tập ông đủ kiến thức để đọc những tác phẩm. Ông được giới thiệu với nhiều giới văn nhân nghệ sĩ và có dịp đàm đạo với họ trong tất cả mọi vấn đề.

Voltaire rất ngạc nhiên vì không khí tự do tại Anh. Các văn nhân nghệ sĩ ở đây có thể viết lên bất cứ cái gì họ muốn viết. Voltaire nói rằng: dân tộc Anh có một quan niệm riêng. Họ tự tạo một tôn giáo riêng, xử tử vua của họ và xây dựng một quốc hội có quyền hành rộng lớn hơn tất cả các vua chúa. Ở đây không có những ngục thất Bastille, không có những lịnh giam cứu do các nhà quý tộc phát ra để giam giữ địch thủ mà không cần xét xử. Voltaire rất khâm phục các định chế xã hội và tôn giáo ở Anh quốc. Ông hoạt động rất mạnh trong một xã hội có rất nhiều văn nhân nghệ sĩ như ông. Những nhà văn tên tuổi như Bacon, Hobbes, Locke đã làm cho Voltaire vô cùng kính phục. Nơi đây Voltaire đã dự đám táng Newton, nhà vật lý nổi tiếng thời bấy giờ, và ông rất ngạc nhiên về danh dự mà người dân Anh quốc dành cho nhà bác học ở nước họ. Ông có cảm tưởng rằng đối với người Anh thì Newton còn danh tiếng hơn cả những hoàng đế. Một bên dùng chân lý để thuyết phục người khác, một bên dùng sức mạnh. Voltaire nghiên cứu công trình sáng tác của Newton và sau nầy truyền bá tư tưởng của Newton ở Pháp.

 Voltaire bị ảnh hưởng sâu rộng bởi văn hoá Anh trong lãnh vực văn chương, khoa học và triết lý. Những cảm tưởng của Voltaire được ghi vào những lá thơ mà ông gởi về Pháp cho các bạn bè thân thích. Trong những lá thư nầy, Voltaire cố ý đề cao không khí tự do ở Anh quốc và cố ý mạt sát nền đế chế độc tài của Pháp, những người quý tộc ăn không ngồi rồi và những giáo sĩ bóc lột tín đồ, khai thác mê tín dị đoan. Ông kêu gọi giai cấp trung lưu ở Pháp hãy nổi lên làm cách mạng để giành lại những quyền tự do. Những lá thư ấy được gởi đi một cách lén lút và có thể được xem là mầm mống của cách mạng.

           

III. CUỘC  SỐNG    CIREY

    Quan phụ chính đại thần không biết gì về những hoạt động chống chánh phủ của Voltaire ở Anh quốc, nên hạ lệnh cho phép ông được trở về Pháp năm 1729. Voltaire lại có cơ hội sống vui vẻ ở Paris trong năm năm. Bất ngờ một nhà sách ở Pháp, sưu tập được những lá thơ của Voltaire viết từ Anh quốc và đem xuất bản mà không có sự đồng ý của tác giả. Quốc hội lập tức ra lệnh hoả thiêu tất cả những cuốn sách ấy nhân danh tôn giáo, luân lý và luật pháp. Voltaire biết thế nào cũng bị bắt bèn bỏ trốn khỏi Paris với một thiếu phụ vợ của bá tước Chatelet.  Bà nầy vừa 28 tuổi trong khi Voltaire đã 40 tuổi. Bà rất say mê văn hoá và đã chịu khó nghiên cứu toán pháp với những giáo sư trứ danh, bà còn dịch cuốn "Nguyên lý" của Newton. Bà đã đệ trình Hàn lâm viện Pháp nhiều luận án giá trị về vật lý. Nói tóm lại bà có đủ tất cả những điều kiện để say mê nhà trí thức thông minh sáng láng như Voltaire. Trong thời gian trốn chính quyền, Voltaire ngụ tại lâu đài người yêu ở Cirey, trong những ngày đầm ấm yêu đương, tâm đầu ý hiệp. Bá tước Chatelet, người chồng chính thức thì luôn luôn bị bận rộn bởi việc quân. Những cuộc tình duyên như vậy không có gì lạ đối với thượng lưu trí thức tại Paris trong thế kỷ thứ 18.

   Trong lâu đài Cirey, cả hai người mặc sức theo đuổi công việc lý tưởng của mình là nghiên cứu và học hỏi. Voltaire cho dọn sẵn tại đó một phòng thí nghiệm rất đầy đủ. Thường ngày họ đàm đạo với nhiều giới văn nhân bác học và ban đêm thì tham dự những buổi trình diễn văn nghệ, một đôi khi chính Voltaire thủ vai đọc thi văn và truyện ngắn của mình cho cử toạ đồng nghe. Dần dần, lâu đài Cirey trở nên trung tâm văn hoá của Pháp quốc, nơi gặp gỡ của giới văn nhân nghệ sĩ hâm mộ tài ăn nói và tính trào lộng của Voltaire. Ngay cả các vua chúa ở nước ngoài đều biết đến danh tiếng của lâu đài Cirey.

  Chính tại nơi đây, Voltaire đã viết những tác phẩm bất hủ như Zadig, Candide, Micromégas, L' Ingénu, Le monde comme il va  v.v.   Đó là những tác phẩm tiêu biểu nhất cho Voltaire trong số 99 tác phẩm của ông. Đó không hẳn là những truyện dài mà là những truyện ngắn chép lại, vai chính không phải là những người bằng xương bằng thịt mà là những ý niệm, những vai xấu trong truyện tiêu biểu cho những thành kiến, mê tín, dị đoan v.v.  Và cốt truyện là một dòng tư tưởng. Một vài truyện như L' Ingénu đã đi trước Rousseau trong lãnh vực văn chương lãng mạn. Voltaire kể lại câu chuyện một người dân Huron, một bộ lạc hoàn toàn bán khai, vì một sự tình cờ, được du lịch nước Pháp. Người ta tìm cách làm cho y theo Thiên chúa giáo. Một cuốn tân ước được giao cho y để dùng làm tài liệu nghiên cứu. Việc khó khăn đầu tiên là bắt người Huron phải xưng tội. Y nhứt định bắt buộc rằng việc xưng tội phải song phương, nghĩa là linh mục phải xưng tội với y, cũng như y đã xưng tội với linh mục. Y phải lòng cô Saint Yves nhưng nhứt định không chịu cưới cô ta vì trong buổi lễ rửa tội cô St Yves làm mẹ đỡ đầu cho y. Cuối cùng y được phép cưới cô St Yves nhưng lại vô cùng ngạc nhiên thấy rằng một đám cưới đáng lẽ là chuyện riêng của hai người lại đòi hỏi vô số thủ tục và quan khách, giới chức. Nào là chưởng khế, linh mục, nhân chứng, giấy tờ, thánh lễ v.v.   Người Huron thốt ra nhận xét sau: "Xã hội các người có lẽ chỉ gồm toàn bọn lưu manh nên mới cần nhiều sự bảo đảm như thế". Và cứ như vậy từ biến cố này đến biến cố khác, Voltaire nêu ra lần lượt những điều phi lý của tập tục xã hội dưới con mắt của một người xa lạ.

 Micromégas được phỏng theo sáng kiến của tác giả Swift nhưng có phần hơn. Voltaire kể chuyện viếng thăm địa cầu bởi người dân của ngôi sao Sirius. Ông nầy cao 500.000 bộ. Trên con đường đi đến địa cầu ông rủ thêm một người bạn ở hành tinh Saturne, chiều cao có vài ngàn bộ. Khi bước qua Địa trung hải, người dân Sirius bị ướt gót giày. Ông hỏi người bạn từ hành tinh Saturne con người ở trên ấy có bao nhiêu giác quan và được trả lời: 72 giác quan.

  - Họ sống bao nhiêu năm ?

- Than ôi, chỉ vào khoảng 15 ngàn năm. Chúng tôi lìa đời quá sớm, cuộc đời không khác gì vó câu qua cửa sổ, thế giới của chúng tôi chỉ là một nguyên tử nhỏ.

  Trong khi hai người đứng nói chuyện ở giữa lòng Địa trung hải họ lượm được một chiếc tàu và đặt lên đầu móng tay. Tất cả nhân viên trên tàu đều hoảng hồn, các linh mục kêu gọi tất cả phải cầu nguyện còn các bác học và các triết gia tìm cách giảng giải hiện tượng hãi hùng. Người dân Sirius cúi xuống, đầu ông toả ra như một đám mây và bắt đầu kêu gọi những con siêu vi trùng đang nhốn nháo trên chiếc tàu:

"Hỡi những con siêu vi trùng, tạo hoá sinh ra chúng bây quá nhỏ, chắc là đời sống chúng bây ở trên địa cầu nầy phải trong lành và hạnh phúc lắm. Chúng bây phải dùng thì giờ để suy tư trong hạnh phúc chân thực, nhưng có lẽ hôm nay ta đã tìm thấy hạnh phúc ấy đang ở giữa chúng bây".

Một trong những triết gia trả lời rằng : "Chúng tôi có đầy đủ lý do để khổ sở. Chắc ngài cũng biết rằng chính trong lúc này 100.000 con vật siêu vi trùng như chúng tôi , đầu đội nón, đang chém giết 100 000 con vật khác cũng như chúng tôi nhưng đội khăn. Tấn tuồng nầy diễn tiến từ ngàn xưa tới nay, và mãi đến ngàn sau".

 Người dân Sirius tức giận la lên rằng : Đồ dốt nát, tao chỉ cần bước một vài bước là có thể nghiền nát tất cả chúng bây dưới bàn chân của tao".

 Triết gia trả lời rằng: "Ngài không cần phải làm như vậy, bọn siêu vi trùng chúng tôi tự hủy hoại nhau cũng đủ chết. Hơn nữa, ngài không nên trừng phạt những kẻ khốn khổ đang chém giết nhau mà chỉ nên trừng phạt những tên lưu manh đang ngồi trong nhà cao cửa lớn đưa hàng triệu người đến chỗ chết“.

 Một trong những tác phẩm khác nhan đề là Zadig. Đấy là tên của một triết gia thành Babilone, người rất khôn ngoan, tài cán. Ông phải lòng một tiểu thư đài các tên Semira. Trong khi bảo vệ Semira chống lại các kẻ cướp, ông bị hư con mắt bên trái. Ông cho người qua Mephis để rước danh y Hermes. Sau khi khám vết thương Hermes tuyên bố rằng Zadig sẽ mù con mắt bên trái, ông còn cho biết rõ rằng ngày nào giờ nào sẽ mù. Ông nói rằng : „Nếu là con mắt bên phải thì tôi có thể cứu được, còn con mắt bên trái thì tôi chịu“. Tất cả thành Babilone thương tiếc cho số phận của Zadig và trầm trồ khâm phục tài của danh y Hermes. Sau 2 ngày vết thương tự nhiên lành, Hermes tức giận viết một cuốn sách để chứng tỏ rằng vết thương không thể lành được.

 Sau khi lành vết thương Zadig đi tìm Semira nhưng cô nầy sau khi biết lời tiên đoán của Hermes đã ôm cầm sang thuyền khác vì cô ta rất sợ phải lấy người một con mắt. Zadig thất vọng cưới một thiếu nữ thôn quê. Để thử lòng người vợ, Zadig bày mưu giả chết và mượn một người bạn tỏ tình với vợ mình. Sau khi Zadig chết được một giờ, người vợ này không chống nổi những lời đường mật của người bạn. Zadig thất vọng giỏ nắp hòm đứng dậy và chạy trốn vào rừng xa lánh trần gian.

 Nhưng vì là người có tài, Zadig được nhà vua để ý đến và cho làm tể tướng. Zadig đem lại hoà bình và thịnh vượng cho quốc gia, nhưng khốn nỗi hoàng hậu phải lòng Zadig và quốc vương lấy làm bực tức. Nhà vua nhận thấy chiếc giày của hoàng hậu màu xanh thì giày của Zadig cũng xanh. Khăn trùm đầu của hoàng hậu màu vàng thì cái nón của Zadig cũng màu vàng. Nhà vua quyết định đầu độc cả hai. Hoàng hậu biết được ý định ấy báo tin cho Zadig và Zadig chạy trốn vào rừng. Từ đó ông thấu hiểu được thực chất của con người, thật không khác gì những giống côn trùng vô nghĩa cấu xé nhau trên một miếng đất sét. Sau khi nhận thức được như vậy, các nỗi băn khoăn của ông hình như tiêu tan. Tâm hồn của ông hướng về vũ trụ vô tận và không còn bận rộn về những việc vô nghĩa.

  Ra khỏi thành Babilone ông thấy một người đàn ông đang đánh một người đàn bà, ông nhảy vào cứu và trong cơn hăng say lỡ tay đánh chết người đàn ông. Ông hỏi người đàn bà:

- Bây giờ tôi phải làm sao ?

- Đồ chó đẻ, mày đã giết chết người yêu của tao, tội mày đáng xé xác.

 Sau đó Zadig bị bắt làm nô lệ. Ông dạy cho chủ môn triết lý và được chủ trọng dụng. Lúc ấy trong nước có tục lệ mỗi khi người chồng chết, người vợ phải tự đốt mà chết theo. Zadig đề nghị thêm vào đó một thủ tục khác là trước khi tự đốt người vợ phải ngồi một mình trong một giờ với một người đàn ông hào hoa phong nhã. Sau những cuộc tiếp xúc nầy, đa số những người vợ từ chối tự thiêu.

 Khi đi công tác tại triều đình vua Serendib, Zadig giúp nhà vua chọn lựa người thực thà để ra làm quan. Ông cho bày tất cả ngọc ngà châu báu trong một phòng nhỏ và kín đáo rồi mời tất cả những người muốn ra làm quan phải vào trong đó từng người một. Sau khi tất cả mọi người có dịp vào phòng chất đầy của quý, Zadig mời tất cả dự cuộc khiêu vũ. Không người nào nhảy đẹp và nhẹ nhàng, tất cả đều cúi đầu cong lưng hai tay giữ chặt túi tiền. Đại khái những câu chuyện của Voltaire đều như vậy và đã làm vui vẻ được biết bao người tại lâu đài Cirey.

 

IV. Ở   POTSDAM   VỚI  HOÀNG  ĐẾ  FRÉDÉRIQUE

 Năm 1736, Voltaire bắt đầu nhận được thư của đông cung thái tử Frédérique, một người phóng khoáng và hiếu học. Trong thư thái tử tỏ lòng ngưỡng mộ thiên tài của Voltaire và muốn xin thụ giáo. Thái tử cho rằng Voltaire là một vĩ nhân của nước Pháp và tự xem mình có được hân hạnh tối cao là sinh cùng thời với Voltaire. Ngoài ra, thái tử còn gởi cho Voltaire tác phẩm Anti Michiavel lên án chiến tranh và ca ngợi hoà bình do chính thái tử soạn thảo. Voltaire cảm động muốn chảy nước mắt trước ý chí hoà bình của người sắp cầm quyền một nước hùng mạnh. Tuy nhiên chỉ vài tháng sau, Frédérique nối ngôi vua cha và việc đầu tiên của ông là cất quân đánh nước Schlesien (Silésie), lôi kéo toàn thể Âu châu vào chiến tranh !

 Năm 1745, Voltaire đến Paris và ứng cử vào Hàn lâm viện Pháp. Lần đầu ông bị thất cử, lần sao ông thành công. Bài diễn văn đầu tiên của ông tại Hàn lâm viện là một tác phẩm văn chương bất hủ. Ông ở tại Paris một thời gian, kết bạn với nhiều văn nhân nghệ sĩ và sáng tác nhiều vở kịch. Năm 1730, vở Brutus ra đời, năm 1732 vở Eriphyle ra đời, cả hai vở kịch đều thất bại. Nhiều người bạn khuyên Voltaire nên bỏ sáng tác kịch, nhưng cuối năm 1732, vở kịch Zaire thâu lượm được nhiều kết quả khả quan.

 Sau 15 năm chung sống, tình của ông đối với bà bá tước Chatelet vẫn không phai nhạt. Năm 1748 bà Chatelet phải lòng bá tước Saint Lambert, việc nầy làm ông rất buồn phiền nhưng cuối cùng, hai tình địch giảng hoà. Năm 1749, bà bá tước Chatelet chết, chồng bà cùng hai người nhân tình của bà là Voltaire và bá tước Saint Lambert đều có mặt lúc bà hấp hối, thật là một tập tục kỳ lạ của giới thượng lưu Pháp trong thế kỷ thứ 18 !

 Voltaire cố quên nỗi buồn trong công việc sáng tác. Ông dự định hoàn thành tác phẩm Thế kỷ vua Louis XIV, nhưng sau đó, ông được thư của hoàng đế Frédérique mời đến Potsdam. Kèm theo lá thư là một ngân phiếu 3000 quan. Voltaire nhận lời và lên đường đi Potsdam năm 1750.

 Ông được đón tiếp long trọng tại lâu đài của hoàng đế Frédérique. Ông gởi thơ về nhà và không tiếc lời tán thưởng những tiện nghi của hoàng cung. Tuy nhiên sau ít lâu Voltaire cảm thấy những bất tiện của hoàn cảnh. Dù là thượng khách, Voltaire cũng chỉ là một trong bá quan văn võ của hoàng đế. Ông cảm thấy khó chịu khi phải tiếp xúc với các tướng lãnh trong các buổi đại yến. Ông chỉ thoải mái khi được nói chuyện riêng với hoàng đế, cùng một ít văn nhân thi sĩ. Trong những cuộc nói chuyện ấy, hoàng đế cùng đám văn nhân dùng tiếng Pháp để đàm đạo về tất cả mọi vấn đề văn chương, triết lý, chính trị theo giòng tư tưởng. Frédérique tỏ ra có nhiều cảm tình đối với Voltaire và trong thời gian này Voltaire không tiếc lời ca ngợi Frédérique.

Một việc đáng tiếc xảy ra làm cho uy tín Voltaire bị giảm sút. Ông có một số tiền đầu tư vào các chứng phiếu Saxon mặc dù Frédérique cấm không cho mua các loại chứng phiếu ấy. Giá thị trường chứng phiếu vọt lên và Voltaire kiếm được một số lời. Nhưng người buôn chứng phiếu muốn chia lời cùng ông bằng cách dọa sẽ tiết lộ câu chuyện cho Frédérique. Một cuộc cải vả xảy ra và nội vụ đến tai Frédérique. Hoàng đế nổi giận tuyên bố rằng :"Tôi chỉ cần nó thêm một năm nữa, vắt chanh xong tôi sẽ bỏ vỏ".  Voltaire được tin nầy hết sức buồn phiền và không còn lạc quan như xưa nữa.

 Từ đó một cuộc đổ vỡ không thể tránh được. Năm 1752 hai nhà toán học của Frédérique là Maupertuis và Koenig hục hặc nhau. Frédérique bênh vực Maupertuis trong khi Voltaire bênh vực Koenig. Sự bạo gan của Voltaire làm Frédérique nổi trận lôi đình. Ông viết như sau: Bọn văn nghệ của tôi thật không biết điều, chúng nó hoàn toàn thiếu thông minh, đôi khi còn thua cả thú vật". Voltaire viết một bài công kích Maupertuis và đọc cho Frédérique nghe, hoàng đế không bằng lòng lắm nhưng không nói gì, chỉ yêu cầu Voltaire đừng cho xuất bản. Mặc dù bị cấm đoán, Voltaire vẫn cho xuất bản bài văn ấy. Frédérique nổi giận. Biết rằng sự đổ vỡ không thể hàn gắn được, Voltaire bỏ trốn đi đến Frankfurt, mặc dù thành phố này không nằm trong lãnh thổ của Frédérique, Voltaire lại bị nhân viên của Frédérique chận lại, lục soát hành lý và tịch thu một số tác phẩm.

 Khi về đến biên giới nước Pháp, Voltaire được tin là chánh phủ Pháp từ chối chiếu khán nhập nội, ông hoàn toàn tuyệt vọng, định sang Mỹ châu để nương náu. Trong khi chờ đợi ông tạm nương náu ở ngoại ô Genève. Tại đây ông mua lại mảnh đất, đặt tên là Les Délices. Ông quyết định làm nghề nông để sống những ngày còn lại nhưng chính trong thời gian này những tác phẩm vĩ đại nhất đã được sáng tác.

 

V. LES DÉLICES: "LUẬN  VỀ  ĐẠO  ĐỨC"

 Voltaire xuất bản ở Berlin một tác phẩm vĩ đại nhan đề là: "Luận về phong tục và tinh thần của các quốc gia, cùng những biến cố của lịch sử  từ  Charlemagne đến Louis XIII". Ông bắt đầu tác phẩm này lúc còn ở Cirey với bà Chatelet.

 Chính bà Chatelet đã hối thúc Voltaire viết lịch sử theo một quan niệm mới. Bà thường nói rằng : "đối với một phụ nữ Pháp như tôi thì việc vua Egli kế vị vua Haquin hoặc hoàng tử Ottomann là con của quốc vương Ortogrul không có nghĩa lý gì hết. Tôi chưa bao giờ có đủ nhẫn nại đọc hết những cuốn sử ký. Tôi chỉ tìm thấy ở trong đó những sự kiện lộn xộn không bổ ích, hàng ngàn trận đánh không đem lại kết quả nào. Vì lý do đó tôi chán ghét học lịch sử vì nó làm bận rộn tâm trí mà không soi sáng tinh thần. Voltaire cũng cho rằng : "Lịch sử không gì khác hơn là mục kê khai những tội ác và tai hoạ, đọc lịch sử một vài quốc gia thật chẳng khác gì đọc chuyện của những kẻ cướp đường cướp chợ". Do đó Voltaire thấy cần phải viết lại lịch sử theo một quan niệm mới, cố gắng tìm thấy khuynh hướng chung nằm sau những biến cố. Ông nói rằng : "Chỉ những triết gia mới có thể viết lịch sử. Trong hầu hết các quốc gia, lịch sử bị bóp méo bởi những chuyện bịa đặt, tâm trí con người bị đen tối bởi nhiều thế kỷ lầm lẫn, nhiều sự kiện, nhiều chứng tích, nhiều nghi lễ được tom góp lại để yểm trợ cho sự dối trá. Lịch sử không gì khác hơn là những trò chơi xấu mà người chết là nạn nhân. Chúng ta thay đổi quá khứ để thích hợp với ý muốn của chúng ta. Người ta dùng lịch sử để chứng minh bất cứ cái gì".

 Voltaire cố gắng tìm trong đống sự kiện của quá khứ những chân lý của lịch sử. Ông bắt đầu xét những sự kiện và soạn thảo một số tác phẩm như: Lịch sử Nga, Lịch sử Charles XII, Thời đại Louis XIV, Thời đại Louis XIII. Voltaire đọc tất cả  những tài liệu, hằng trăm tác phẩm, hằng trăm hồi ký, ông viết thơ riêng để hỏi lại các nhân chứng và sau khi xuất bản sách ông vẫn tiếp tục nghiên cứu để sửa đổi trong các lần tái bản. Gom góp sự kiện chưa phải là công việc chính, điều cốt yếu là phải biết lựa chọn và sắp đặt. Voltaire nói rằng :"Những chi tiết trong lịch sử không khác gì những hành lý trong quân đội, nghĩa là một loại chướng ngại vật. Tâm trí con người quá yếu ớt, nó sẽ bị chìm xuống nếu mang nặng quá nhiều chi tiết. Tốt hơn hết là nên sắp đặt các chi tiết vào một mục riêng để ai muốn biết rõ thì tìm ở đó". Công việc chính của Voltaire là tìm một nguyên lý khả dĩ cho chúng ta hiểu được lịch sử của nền văn minh Âu châu và ông tin tưởng rằng nguyên lý ấy là sự phát triển của văn hoá. Ông kết luận rằng :"Lịch sử không nên đề cập đến sự thăng trầm của các vua chúa mà phải đề cập đến trào lưu tiến hoá của dân tộc, không nên đề cập đến các quốc gia riêng rẽ mà phải đề cập đến toàn thể nhân loại, không nên đề cập đến chiến tranh mà phải đề cập đến sự tiến triển của ý thức. Những trận đánh, những bộ đội chiến thắng hoặc chiến bại, những thành phố bị chiếm đi hoặc chiếm lại là những sự kiện quá tầm thường của lịch sử, không nói lên điều quan trọng. Tôi muốn viết lịch sử của xã hội thay vì của chiến tranh, tôi muốn tìm hiểu con người sống và suy nghĩ như thế nào qua các thời đại. Mục đích của tôi là lịch sử của ý thức con người, tôi không bận tâm đến những việc riêng của các vua chúa. Điều tôi muốn biết là qua những giai đoạn nào con người đi từ trạng thái man rợ đến trạng thái văn minh".

 Trung thành với quan niệm trên, Voltaire viết những tác phẩm lịch sử đầu tiên đề cập đến sự tiến triển của văn minh. Có thể nói rằng ông đã đặt nền móng cho khoa học lịch sử hiện đại. Nhiều học giả muốn bắt chước ông nhưng không một ai hoàn toàn theo kịp ông. Lối viết lịch sử của Voltaire đã làm cho nhiều nhà quyền thế phải thất vọng, nhất là giáo hội thời bấy giờ. Chẳng hạn Voltaire cho rằng chính vì ảnh hưởng của Thiên chúa giáo mà nền văn minh La Mã bị đồi trụy nhanh chóng để đi đến chỗ suy sụp làm mồi cho những đạo quân xâm lăng. Voltaire lại còn làm xúc động tự ái của người Âu châu trong khi đề cập đến các tôn giáo của Trung hoa, Ấn độ, Ba tư ngang hàng với Thiên chúa giáo. Một thế giới mới, thế giới đông phương, xuất hiện trong tác phẩm của Voltaire. Âu châu bị đặt trước một sự thật rộng lớn khiến cho các quan niệm độc tôn của dân tộc Âu châu bị lung lay đến cội rễ. Chính vì thấy Voltaire quá đề cao các dân tộc và văn hoá xa lạ mà hoàng đế nước Pháp ra lịnh không cấp chiếu khán cho Voltaire trở về Pháp.

 

VI. FERNEY:  CANDIDE

Tạm ở Les Délices đến năm 1758, Voltaire dời qua Ferney, một làng nằm giữa biên giới Thuỵ sĩ và Pháp. Ở đây ông cũng có thể tránh được vòng kiềm toả của chính quyền Pháp. Thế mà mãi đến lúc 64 tuổi ông mới được ở yên một chỗ. Ông có một khu vườn rộng trồng rất nhiều cây ăn trái, mặc dù không hy vọng gì thu được hoa lợi vì tuổi ông đã già. Khi một kẻ ái mộ khen ngợi Voltaire về công việc ông đã làm cho hậu thế, Voltaire trả lời:"Phải, tôi đã trồng được 4000 cây". Trong một dịp khác có một người đến thăm Voltaire, tự xưng là người nhà của ông Haller, Voltaire nói:

- Tôi biết rõ ông Haller, đó là một thi sĩ, văn sĩ, triết gia, một nhân tài hiếm có.

- Ông khen ông Haller như vậy, nhưng trái lại, theo chỗ tôi biết, thì ông Haller coi ông như một người tầm thường.

- Có lẽ rằng cả ông Haller và tôi đều nhầm lẫn.

 Ferney trở thành thủ đô của giới trí thức. Các văn nhân nghệ sĩ danh tiếng và các bậc vua chúa thường liên lạc với Ferney hoặc đích thân đến đó. Trong số các quan khách, có nhiều tu sĩ, nhà quý phái, mệnh phụ phu nhân. Các nhân vật như Gibbon, Boswell ở Anh quốc, d´Alembert và Helvétius ở Pháp đều đã từng có mặt ở Ferney. Sự có mặt của quá đông quan khách danh tiếng gây rất nhiều tốn kém cho Voltaire. Ông thường ví mình như người chủ khách sạn cho giới trí thức Âu châu. Một hôm, một danh nhân đến Ferney và tỏ ý muốn ở lại đó 6 tuần, Voltaire nói rằng: "Ông chẳng khác gì Don Quichotte, ông nầy lầm tưởng khách sạn là lâu đài, còn ông lầm tưởng lâu đài nầy là khách sạn". Voltaire kết luận: Xin Chúa giữ gìn tôi khỏi bạn bè, vì tôi biết cách tự giữ gìn đối với kẻ thù.

 Rất nhiều người gởi thơ để hỏi ý kiến Voltaire. Một ông thị trưởng ở Đức nhờ Voltaire cho biết Thượng đế có hay là không. Vua Thụy điển Gustav III lấy làm hãnh diện vì có lần Voltaire nhắc đến ông. Vua Đan mạch Christian VII xin lỗi Voltaire vì đã không thi hành các cải cách xã hội sớm hơn. Nữ hoàng Catherine II ở Nga gởi Voltaire nhiều tặng phẩm quý giá. Sau cùng, chính Frédérique sau một năm hờn dỗi cũng gởi thơ cho Voltaire tỏ lòng ngưỡng mộ.

 Mặc dù được toàn thể thế giới ca tụng, Voltaire là một người rất bi quan. Ông chống lại thuyết lạc quan của Leibnitz từ khi ông còn là một thanh niên vui chơi trong các quán rượu ởParis. Thuyết bi quan của ông bị nhiều người chỉ trích, ông trả lời như sau:"Nếu tất cả nhân loại đều sung sướng tại sao có nhiều người quyên sinh ?". Kinh nghiệm bản thân làm cho ông bi quan. Tai nạn lịch sử xảy ra tháng 11 năm 1755, trong đó 30 000 người bị chôn vùi sau một trận động đất ở Lisbonne làm Voltaire bi quan thêm. Tai nạn xảy ra nhằm ngày lễ Các Thánh, rất nhiều tín đồ bị chôn vùi trong khi đang cầu nguyện tại các thánh đường. Voltaire rất buồn phiền cho số phận con người và rất bất bình khi nghe các tu sĩ ở Pháp giảng giải rằng tai nạn ở Lisbonne là một hình phạt mà Chúa dành cho những người có quá nhiều tội ác. Ông nói rằng :   "Hoặc là Chúa có thể cứu nhân loại mà Chúa không cứu, hoặc là Chúa muốn cứu nhân loại mà Chúa không làm được". Voltaire cũng không đồng ý với Spinoza rằng hạnh phúc và bất hạnh của loài người không có nghĩa lý gì trong vũ trụ. Vài tháng sau, Âu châu trải qua một cuộc chiến tranh khốc hại kéo dài 7 năm, nguyên do là sự giành giựt đất đai giữa Pháp và Anh. Voltaire coi đó là một cuộc tự sát tập thể. Để trả lời Rousseau, một triết gia theo phái lạc quan, Voltaire viết một quyển sách nhỏ nhan đề Candide.

 Chưa bao giờ thuyết bi quan được trình bày một cách ý nhị và trào lộng như vậy. Các biến cố trong truyện xảy ra rất nhanh, không có những đoạn tả cảnh rườm rà, chỉ toàn là những cuộc đối thoại và những lời kể chuyện, thật đúng như lời Anatole France đã nói: "Dưới bàn tay Voltaire ngòi bút chạy nhảy và cười". Candide là một thiếu niên tánh tình bình dị và thật thà, con nhà quý phái, được giao cho giáo sư Pangloss trông nom. Pangloss là một người thông kim bác cổ và vô cùng lạc quan. Theo Pangloss thì cuộc sống được tổ chức vô cùng hoàn hảo để con người sung sướng tối đa. Mũi dùng để mang kiếng, chân dùng để mang tất, đá dùng để xây lâu đài, heo được sinh ra để người có thịt ăn suốt năm...

Trong khi Pangloss đang giảng giải thì giặc kéo đến, Candide bị bắt làm tù binh. Nó phải làm việc suốt ngày. Một ngày kia nó muốn đi dạo chơi vì Pangloss có dạy rằng con người có tự do dùng đôi chân của mình. Nó đi được vài dặm thì bị bốn người lực lưỡng bắt trói và kéo vào một toà lâu đài. Người ta bảo nó phải lựa một trong hai hình phạt: một là bị toàn thể quân lính trong lâu đài đánh 36 lần, hai là bị bắn 2 phát vào đầu. Nó cãi lại rằng trí óc của con người có tự do và từ chối cả hai hình phạt. Nhóm người kia không nghe, bắt buộc nó phải lựa, cuối cùng nó xin bị đánh 36 lần.

 Candide trốn khỏi những người giam giữ nó và chạy về Lisbonne. Giữa đường nó gặp giáo sư Pangloss và được biết rằng cha mẹ nó đã chết, lâu đài đã bị tàn phá. Pangloss nói thêm: "Tất cả những tai nạn ấy đều là cần thiết, cá nhân phải chịu trách nhiệm để tập thể được sung sướng. Khổ của cá nhân càng nhiều, sướng của tập thể càng lớn". Hai người đến Lisbonne thì vừa gặp trận động đất lịch sử nhưng cả hai đều thoát nạn. Hết trận động đất, đến vụ đàn áp tôn giáo khiến cho Candide phải chạy trốn qua Paraguay. Đến một đồn điền của người Hoà Lan, nó gặp một người mọi chỉ còn một tay và một chân. Người ấy kể chuyện như sau: "Tôi làm việc tại nhà máy đường lỡ bị kẹt ngón tay vào máy, người ta chặt luôn cả cánh tay của tôi. Sợ quá tôi chạy trốn, người ta chặt bớt của tôi một chân. Đó là cái giá mà tôi phải trả để các ông có đường ăn ở Âu châu". Tình cờ Candide tìm được một bãi cát có vàng, nó lượm được vô số vàng và thuê một chiếc tàu định trở về Pháp. Bất ngờ bọn thuỷ thủ trên tàu cướp hết vàng và để Candide một mình bơ vơ trên bờ. Sau nhiều nỗi gian truân, Candide xin được một chỗ ngồi trên chuyến tàu vềBordeaux. Trên tàu nó gặp một triết gia tên là Martin. Candide hỏi:

- Ông có tin rằng từ xưa đến nay loài người vẫn giết nhau, ông có tin rằng giống người là một giống nói láo, ăn cắp, phản phúc, vô ơn, biển lận, ganh tị, khát vọng, khát máu, vu khoát, dâm ô, cuồng tín, giả dối và điên đảo không ?

- Mầy có tin rằng diều hâu luôn ăn thịt bồ câu từ khi có giống diều hâu trên trái đất không ?

- Chắc chắn như vậy.

- Nếu diều hâu không đổi tánh của nó thì làm sao giống người lại đổi tánh được ?

 Qua những câu chuyện đại loại như trên, Voltaire đả kích thuyết lạc quan. Sau khi chịu nhiều đau khổ và rủi ro trong xã hội loài người, Candide mua một mảnh vườn ở Thổ nhĩ kỳ và gặp lại giáo sư Pangloss. Hai thầy trò nhắc lại câu chuyện xưa, Pangloss nói: „Các biến cố trên cõi đời này hợp lại với nhau để làm cuộc đời thêm tươi đẹp, nếu mầy không bị tan nát gia đình nhà cửa, nếu mầy không bị đàn áp vì lý do tôn giáo, nếu mầy không đi Mỹ, nếu mầy không bị mất hết của cải thì có lẽ bây giờ mầy không được ngồi đây để ăn chanh muối với tao“. Candide trả lời: „Thầy nói rất đúng, thôi chúng ta ra làm vườn“.

Voltaire chấm dứt câu chuyện bằng câu nói lửng lơ nhưng chứa đựng nhiều ý nghĩa.

 

VII. BÁCH  KHOA TỰ  ĐIỂN    TRIẾT    TỰ ĐIỂN

 Cuốn Candide rất được các giới hâm mộ chứng tỏ rằng trình độ trí thức của dân chúng hồi đó rất cao. Mặc dù những giáo điều và những sự ép buộc của các giới giáo sĩ, dân chúng vẫn hân hoan chào đón tác phẩm Candide như một luồng gió mới. Phong trào cải cách tôn giáo phát xuất từ Đức không được hưởng ứng tại nước Pháp, khiến cho ảnh hưởng của các giáo lý thủ cựu vẫn còn rất mạnh. Ở Anh quốc, sự thay đổi từ chế độ tôn giáo độc tài đến chế độ tự do, diễn tiến rất êm thấm. Tại Pháp, sự thay đổi rất đột ngột.

    Một bác sĩ quân y tên là La Mettrie bị sa thải vì viết một cuốn sách động chạm đến các giáo điều. Ông phải chạy trốn sang Đức và được vua Fréderique che chở. Cũng như Descartes, La Mettrie có khuynh hướng giảng giải các hiện tượng sinh lý bằng các hiện tượng vật lý. Lý thuyết này đi ngược lại với các giáo điều xem đời sống có tính cách thiêng liêng. La Mettrie còn cho rằng trí thông minh phát xuất do nhu cầu.  Trí thông minh của loài người cao hơn của loài vật. La Mettrie kết luận:“Không có nhu cầu nghĩa là không có ý thức“.

Helvétius lập lại những luận điệu của L

 

Chương 6

Immanuel Kant

  DUY  TÂM  LUẬN  ĐỨC

 

1 NHỮNG  NẺO  ĐƯỜNG  ĐẾN   KANT

Chưa có tư tưởng hệ nào thống trị cả một thời đại như triết học của Immanuel Kant đã thống trị tư tưởng thế kỷ 19. Sau gần 60 năm hoạt động trong lặng lẽ biệt lập, người dân Tô cách lan (Scottland) dị thường cổ quái của thành phố Koenigsberg đã đánh thức cả thế giới ra khỏi „cơn ngủ mê trong giáo điều“ vào năm 1781, với tác phẩm thời danh Phê bình lý tính thuần tuý; và từ năm ấy đến thời đại chúng ta, nền „triết học phê phán“ đã thống trị Âu châu duy lý. Triết học Schopenhauer nổi lên có uy lực một thời gian ngắn trên làn sóng lãng mạn bùng khởi năm 1848; thuyết tiến hoá từ sau năm 1859 đã càn quét tất cả những gì đến trước nó; và sự đạp đổ thần tượng gây phấn kích của Nietzsche đã chiếm trung tâm sân khấu triết học vào cuối thế kỷ. Nhưng những thuyết này đều là những phát triển bề mặt phụ thuộc, bên dưới chúng mạch ngầm vững mạnh của triết học Kant vẫn tiếp tục chảy, luôn luôn sâu hơn, rộng hơn. Cho đến ngày nay những định lý chính yếu của nó vẫn là những châm ngôn của mọi nền triết học trưởng thành. Nietzsche đã thừa nhận Kant, và tiếp tục đi tới; Schopenhauer gọi cuốn Phê bình là „tác phẩm quan trọng nhất trong văn học Đức“, và cho rằng bất cứ người nào chưa hiểu Kant thì hãy còn là một đứa trẻ. Spencer không thể hiểu Kant, và có lẽ chính vì thế mà Spencer chưa đạt được đến tầm vóc triết học toàn vẹn. Để áp dụng lời nói của Hegel về Spinoza : muốn thành một triết gia, trước hết phải là một „Kant-tử“.

Bởi thế, nào chúng ta hãy trở thành „Kant-tử“ tức khắc. Nhưng dường như việc ấy không thể hoàn thành ngay lập tức được; vì trong triết học cũng như trong chính trị, khoảng cách dài nhất giữa hai điểm chính là một đường thẳng. Kant là người cuối cùng trong thế giới ta phải đọc khi muốn hiểu về Kant. Nhà triết học của chúng ta vừa giống vừa khác Đức Chúa Trời, ông nói qua những đám mây, nhưng không có sự soi sáng của làn chớp. Ông khinh thị những tỉ dụ và lối nói cụ thể; cho rằng chúng sẽ làm cho sách của ông quá dày (Vì rút gọn lại như thế nên nó chỉ gồm sơ có 800 trang !). Chỉ những triết gia chuyên nghiệp mới đọc; và những người này lại không cần minh chứng. Nhưng khi Kant đưa bản thảo cuốn Phê bình cho bạn ông là Herz, một người rất uyên thâm về tư tưởng duy lý, Herz trả lại bản thảo sau khi đọc nửa cuốn, bảo rằng ông sợ sẽ phát điên nếu tiếp tục. Chúng ta sẽ làm gì với một triết gia như thế ?

Ta hãy đến với Kant bằng con đường quanh và thật dè dặt, bắt đầu bằng một khoảng cách an toàn "kính nhi viễn chi". Ta hãy khởi hành từ nhiều điểm khác nhau trên vòng tròn của vấn đề, rồi dò dẫm đường về trung tâm điểm vi diệu nơi mà nền triết học khó hiểu nhất đang cất giữ bí yếu và kho tàng của nó.

 

1.1 Từ Voltaire đến Kant

Con đường ở đây là từ lý trí không đức tin đến đức tin không lý trí. Voltaire có nghĩa là tôn sùng lý trí, Bách Khoa, Thời Đại của lý tính. Sự hăng hái nồng nhiệt của Francis Bacon đã khởi hứng cho toàn thể Âu châu (trừ Rousseau) với niềm tin tất nhiên vào năng lực của tri thức và luận lý trong việc giải quyết rốt ráo mọi vấn đề, và minh chứng "tính cách hoàn hảo vô hạn" của con người. Condorcet ở trong lao tù viết cuốn "Biểu đồ sử học về sự tiến triển của tâm thức con người (1793)", nói lên niềm tin cao cả của thế kỷ 18 vào tri thức và lý trí, và không đòi hỏi chìa khoá nào khác hơn là Giáo dục phổ thông để đi đến xã hội lý tưởng. Ngay những người Đức cứng cỏi nhất cũng có thời đại Aufklaerung (Ánh sáng Lý trí) với Christian Wolff duy lý và Lessing đầy hy vọng. Và những người Paris nhạy cảm của thời Cách mạng đã kịch nghệ hoá sự phong thánh này của tri thức trong việc thờ phụng "Nữ thần lý trí", dưới hình tượng một phụ nữ duyên dáng. Nơi Spinoza niềm tin ở lý trí này đã làm phát sinh một cơ cấu đồ sộ của hình học và luận lý : Vũ trụ là một hệ thống toán học, và có thể được mô tả tiên nghiệm , bằng cách diễn dịch từ những định đề đã được chấp nhận. Ở Hobbes, thuyết duy lý của Bacon đã trở thành một thuyết vô thần và duy vật; không có gì cả ngoài "nguyên tử và khoảng trống". Từ Spinoza đến Diderot, đức tin tan rã nhường chỗ cho lý trí tiến lên: lần lượt những giáo điều cũ biến mất; giáo đường Gô-tích của tín ngưỡng Trung cổ - với những chi tiết và vẻ lố bịch thú vị của nó - đã sụp đổ; Thượng đế cũ té khỏi ngai vàng cùng với dòng họ Bourbons, thiên đường tàn tạ thành bầu trời trống rỗng, và địa ngục chỉ còn là một biểu tượng cảm xúc. Helvétius và Holbach đã làm cho vô thần luận thịnh hành trong các buổi thù tiếp của Pháp; ngay cả giới tu sĩ cũng bắt đầu mon men bàn thuyết vô thần, và La Mettrie qua Đức để rêu rao thuyết  ấy dưới sự bảo trợ của cua Phổ. Khi, vào năm 1874, Lessing làm Jacobi kinh ngạc với lời tự xưng là môn đệ của Spinoza, thì đấy là một dấu hiệu đức tin đã bị hạ bệ, và Lý trí đang ca khúc khải hoàn.

David Hume, người đóng một vai trò dữ dội trong việc đả kích niềm tin siêu nhiên của phái Tôn sùng Lý trí, đã bảo rằng khi lý tính chống lại con người, con người sẽ lập tức chống lại lý tính. Đức tin và hy vọng tôn giáo, được phát ngôn trong hằng trăm ngàn tháp chuông vươn từ khắp miền đất Âu châu, đã ăn rễ quá sâu vào những định chế xã hội và trong tim người, khiến họ không thể sẵn sàng nhượng bộ bản cáo trạng cừu nghịch của lý trí. Điều không thể trách là khi đã bị lên án như thế, đức tin ấy và hy vọng ấy sẽ chất vấn về thẩm quyền của quan toà, và sẽ đòi một cuộc xét lại lý trí cũng như tôn giáo. Cái tri thức kia là gì mà dám lăm le phá huỷ bằng một tam đoạn luận những niềm tin của hằng ngàn năm và hằng triệu người ? Nó có phải là vô-quá chăng ?. Hay nó chỉ là một cơ năng trong người như bất cứ cơ năng nào khác, mà nhiệm vụ cùng năng lực đều bị giới hạn gắt gao ? Đã đến lúc nên xử xét quan toà này, nên xét lại cái Toà án Cách mạng tàn nhẫn đã thẳng tay tung ra những bản án tử cho mọi niềm tin hy vọng cũ này. Đã đến lúc phải phê phán lý trí.

 

1.2 Từ Locke đến Kant

Một cuộc xét lại như thế đã được dọn đường bằng tác phẩm của Locke, Berkeley và Hume, tuy nhiên kết quả hầu như cũng đối nghịch với tôn giáo nốt.

John Locke (1632 - 1704) đã đề nghị áp dụng vào tâm lý học những cuộc trắc nghiệm theo phép quy nạp và những phương pháp của Francis Bacon. Trong tác phẩm vĩ đại của ông nhan đề "Luận về lý trí con người (Essay on Human Understanding, 1684)" lần đầu tiên trong tư tưởng tân thời, lý trí quay vào chính nó, và triết học bắt đầu dò xét khí cụ bấy lâu đã được tín nhiệm. Phong trào nội quan ấy trong triết học tiến lên từng bước sánh đôi với thuyết hướng nội mà Richardson và Rousseau khai triển, hệt như mầu sắc tình cảm và cảm xúc trong Clarissa Harlowe và La Nouvelle Héleise đã tương ứng với sự tán dương của triết học về thiên tính và cảm tính vượt trên tri thức và lý trí.

Sự hiểu biết đã được sinh khởi thế nào ? Chúng ta có chăng -như nhiều người tưởng- những ý nghĩ bẩm sinh về phải quấy, về Thượng đế, những ý tưởng nội tại trong tâm thức từ sơ sinh, có trước mọi kinh nghiệm ? Những nhà thần học sợ niềm tin vào thần linh sẽ biến mất vì người ta chưa bao giờ thấy thượng đế trong một ống viễn vọng kính nào cả, đã nghĩ rằng tín ngưỡng và đạo đức có thể vững mạnh nếu những ý tưởng làm nòng cốt cho chúng được chứng minh là bẩm sinh trong mọi linh hồn bình thường. Nhưng, mặc dù là một người Kitô ngoan đạo, sẵn sàng biện luận rất hùng hồn cho tính cách hữu lý của Kitô giáo, Locke không thể chấp nhận những giả thuyết này; ông bình tĩnh loan báo rằng "tất cả hiểu biết của ta đều phát sinh từ kinh nghiệm và qua những giác quan", rằng "không có gì trong tâm trí cả trừ những gì đã có trước trong giác quan". Tâm thức lúc sơ sinh là một tấm vải sạch, một bạch bản; và kinh nghiệm giác quan viết lên đó bằng ngàn cách, cho đến khi cảm giác sinh ra ký ức và ký ức sinh ra tư tưởng. Tất cả điều ấy dường như đưa đến kết luận làm ta giật mình là: vì chỉ có những sự vật vật chất mới có thể có tác dụng trên giác quan ta, vậy chúng ta không biết gì ngoài vật chất, và phải chấp nhận một nền triết học duy vật. Nếu cảm giác là nguyên liệu của tư tưởng - người hấp tấp sẽ lý luận- thì vật chất phải là nguyên liệu của tâm thức.

Tuyệt đối không, Giám mục George Berkeley (1684 - 1753) nói: Sự phân tích về tri thức theo kiểu Locke đúng hơn chỉ chứng minh rằng vật chất chỉ hiện hữu như một hình dáng của tâm thức. Đấy là một ý tưởng xuất sắc chối bỏ duy vật bằng phương tiện giản dị là chứng minh rằng chúng ta không biết gì về cái gọi là vật chất; trong khắp Âu châu chỉ có một trí tưởng tượng gốc Ái-Nhĩ-Lan (Ireland) kia mới có cái phép ảo thuật siêu hình này. Nhưng hãy xem, -vị giám mục ấy bảo- thật rõ ràng quá mà: há Locke không bảo chúng ta rằng mọi tri thức của ta đều được rút ra từ cảm giác ? Bởi thế mọi hiểu biết của chúng ta về bất cứ gì đều chỉ là những cảm giác của ta về nó và những ý tưởng rút từ những cảm giác ấy. Một "sự vật" chỉ là một bó tri giác, nghĩa là những cảm giác được phân loại và giải thích. Bạn cãi rằng bữa điểm tâm của bạn có rất nhiều thực chất hơn một bó tri giác; và một chiếc búa dạy cho bạn về nghề thợ mộc qua ngón tay cái của bạn có một vật-chất-tính to tát nhất. Nhưng bữa điểm tâm của bạn trước hết chỉ là một mớ cảm giác: thị giác, khứu giác, xúc giác, vị giác, rồi cảm giác về sự dễ chịu ấm áp trong mình. Cũng thế, chiếc búa là một bó cảm giác về màu sắc, kích thước, hình dáng, sức nặng, xúc giác v.v... thực tại tính của nó đối với bạn không phải ở trong vật chất tính của nó, mà ở trong những cảm giác đến từ ngón tay cái của bạn. Nếu bạn không có cảm giác, thì chiếc búa đối với bạn sẽ không hiện hữu tí nào; nó có thể đập vào ngón tay cái tê chết của bạn mãi mãi mà không được bạn chú ý mảy may. Nó chỉ là một mớ cảm giác, hay một mớ ký ức; nó là một điều kiện tâm thức. Tất cả vật chất chúng ta tri giác đều là điều kiện tâm thức; và thực tại độc nhất mà ta biết trực tiếp là tâm thức. Chừng ấy về duy vật đủ rồi.

Nhưng vị giám mục Ái-nhĩ-lan đã không kể gì đến nhà hoài nghi Tô-cách-lan. David Hume (1711 - 1776) vào năm 26 tuổi, đã làm chấn động mọi tín đồ Kitô giáo với cuốn sách nặng mùi "tà giáo" của ông, cuốn "Luận về bản tính con người" (Treatise on Human Nature) một trong những cổ thư và điều kinh dị của triết học tân thời. Theo Hume, chúng ta chỉ biết tâm thức như biết vật chất : nhờ tri giác, mặc dù trong trường hợp này là tri giác nội giới. Không bao giờ chúng ta tri giác một thực thể nào gọi là "tâm thức"; chúng ta chỉ tri giác những ý tưởng, ký ức, cảm giác v.v.. rời rạc. Tâm thức không phải là một thực chất, một cơ quan có những ý tưởng, nó chỉ là một cái tên trừu tượng để chỉ những loạt ý tưởng; tri giác, ký ức và cảm giác là tâm thức; không có cái "linh hồn" nào có thể quan sát đằng sau những quá trình tư tưởng. Kết quả dường như là Hume đã phá hoại tâm thức một cách hiệu quả, cũng như Berkeley đã phá hoại vật chất. Không có gì còn lại cả; và triết học bỗng thấy mình đứng giữa những điêu tàn đổ nát do chính nó gây ra. Thảo nào có một lối chơi chữ khôi hài khuyên nên bỏ cuộc tranh chấp: "No matter, never mind" ("Không có gì, đừng để ý" hay "chẳng có vật chất cũng chẳng có tâm thức"). Nhưng Hume không chỉ bằng lòng với sự phá huỷ tôn giáo chính thống bằng cách đánh đổ khái niệm linh hồn; ông còn đề nghị phá huỷ khoa học bằng cách đánh tan khái niệm định luật. Khoa học cũng như triết học, từ Bruno và Galilée, đã quá xem trọng luật lệ thiên nhiên, xem trọng "sự tất yếu" trong chuỗi tiếp nối nhân quả; Spinoza đã nuôi dưỡng nền siêu hình vĩ đại của ông bằng quan niệm đầy tự phụ này. Nhưng hãy nhìn kỹ xem, Hume bảo, chúng ta chỉ thấy những biến cố và chuỗi sự kiện tiếp nối, và suy ra nguyên nhân và sự tất yếu; một định luật không phải là một đạo luật bất diệt và thiết yếu mà những biến cố phải phục tùng, nhưng chỉ là một lối tóm lược tốc ký tinh thần của kinh nghiệm như ống kính vạn hoa của chúng ta; chúng ta không thể nào bảo đảm rằng những chuỗi sự kiện đã được quan sát từ trước đến nay sẽ tái xuất hiện không thay đổi trong kinh nghiệm vị lai. "Định luật" là một tục lệ được tuân theo trong chuỗi biến cố; nhưng không có gì là "tất yếu" ở trong tục lệ.

Chỉ những công thức toán học là tất yếu, chỉ có chúng mới là đúng thực một cách nội tại, bất biến; và sở dĩ như vậy chỉ là vì những công thức ấy đều có tính cách trùng phức, thuộc từ đã chứa sẵn trong chủ từ, "3 x 3 = 9" là một chân lý bất diệt và thiết yếu chỉ vì "3 x 3" và "9" là cùng một sự kiện được diễn tả khác nhau; thuộc từ không thêm gì cho chủ từ cả. Khoa học, như vậy, phải tự giới hạn mình hoàn toàn vào toán học và thí nghiệm trực tiếp; nó không thể tin cậy vào sự diễn dịch không được kiểm chứng từ những "định luật". Vào khắp các thư viện sau khi quả quyết về những nguyên tắc này rồi, - nhà hoài nghi cổ quái của chúng ta bảo- quả là chúng ta phải gây một cuộc tàn phá khổng lồ ! Nếu chúng ta cầm lên xem bất cứ cuốn sách nào chẳng hạn về siêu hình học kinh viện, ta hãy hỏi:

"Sách có chứa đựng một lý luận trừu tượng nào về số hay lượng không ?"   - Không.

"Sách có chứa đựng một lý luận thực nghiệm nào về sự kiện và hiện hữu không ?"  - Không.

Thế thì ném nó vào lửa, vì nó không thể chứa đựng gì ngoài ra ngụy biện và ảo tưởng" ( Royce trích dẫn trong The Spirit of Modern Philosophy, Boston, 1892, p.98). Hãy tưởng tượng những người chính thống giáo ù tai biết bao khi nghe những lời ấy. Ở đây truyền thống tri thức luận -sự truy tầm bản chất , nguồn gốc và giá trị của tri thức- đã thôi còn là một vật chống đỡ cho tôn giáo; mũi kiếm mà giám mục Berkeley đã dùng để giết con giao long của duy vật đã quay lại đâm vào tâm thức phi-vật-chất và linh hồn bất diệt; và trong cơn biến động ấy ngay cả khoa học cũng bị thương tổn nặng nề. Thảo nào vào năm  1775 khi Immanuel Kant đọc một bản tiếng Đức dịch những tác phẩm của David Hume, ông rất kinh ngạc trước những kết quả này, và được đánh thức dậy từ "cơn mê ngủ trong giáo điều" trong đó ông đã chấp nhận không hồ nghi những tinh yếu của tôn giáo và những nền tảng khoa học. Vậy cả khoa học lẫn đức tin phải đầu hàng trước hoài nghi chăng ? Có thể làm gì được để cứu vãn ?

 

1.3 Từ Rousseau đến Kant

Đối với luận cứ của phái tôn sùng lý trí cho rằng lý trí sẵn sàng thiên về duy vật, Berkeleyđã cố trả lời vật chất không hiện hữu. Nhưng điều này đã đưa đến bác luận của Hume theo đó chính vì không có vật chất nên tâm thức cũng không luôn. Có thể có một cách trả lời khác -ấy là lý trí không phải là trắc nghiệm cuối cùng. Có vài kết luận lý thuyết mà toàn thể con người của chúng ta phản kháng lại; chúng ta không có quyền để cho những đòi hỏi của bản chất chúng ta phải bị bóp nghẹt trước những tuyên bố của một luận lý mà chung quy chỉ là sản phẩm mới của một phần tử vừa mong manh vừa lừa dối trong ta. Đã biết bao lần bản tính tự nhiên và những cảm thức của chúng ta dẹp sang một bên những tam đoạn luận ti tiểu ấy, cứ muốn cho chúng ta phải sử sự như những hình kỷ hà học, và bắt tình với sự phân minh của toán học ! Dĩ nhiên một đôi khi, và đặc biệt trong những phiền toái giả tạo của sinh hoạt đô thị mới - lý trí là kẻ dẫn đường tốt nhất; nhưng trong những cơn khủng hoảng lớn của cuộc sống, và trong những vấn đề trọng đại về xử thế và đức tin, chúng ta tin cậy vào cảm thức của chúng ta hơn là vào những đồ hình. Nếu lý trí mà chống lại tôn giáo, thì lý trí phải mạt.

Quả thế, đấy là luận cứ của J.J. Rousseau (1712 - 1778), người hầu như duy nhất ở Pháp đã chống lại thuyết duy vật và vô thần của phái Tôn sùng lý trí. Một định mệnh thật đã oái oăm cho một bản chất yếu ớt thần kinh loạn, bị tung ra giữa đám duy lý khoẻ mạnh và thuyết hưởng lạc hầu như tàn bạo của nhóm Bách Khoa ! Rouseau vốn là một thanh niên ốm yếu, bị đẩy vào sự trầm tư và hướng nội vì cơ thể yếu ốm và thái độ thiếu thiện cảm của cha mẹ và thầy giáo. Chàng đã thoát ly những mũi dùi của thực tại để đi vào một thế giới tự tạo của mộng mị, nơi đó chàng có thể tưởng tượng ra những vinh quang mà cuộc đời và tình yêu đã khước từ chàng. Cuốn Tự thú của chàng biểu lộ mặc cảm cố hữu của cảm tính tế nhị nhất với một quan niệm trì độn về sự đứng đắn và danh dự; và một niềm tin vững chắc ở sự cao cả của tâm hồn mình.

Năm 1749, Hàn lâm viện Dijon ra một giải thưởng cho vài tiểu luận về vấn đề " Sự tiến bộ của khoa học và nghệ thuật đã góp phần hủ hoá hay thanh hoá đạo đức ?". Bài của Rousseau đã thắng giải. Văn hoá là một sự tệ hại nhiều hơn là một giá trị, Rousseau lý luận -với tất cả hăng hái và chân thành của một người thấy văn hoá vượt quá tầm của mình nên muốn chứng minh nó vô giá trị. Hãy nhìn những hỗn loạn mà sự ấn loát đã sinh ra ở Âu châu. Ở đâu triết học nổi lên, ở đấy sức khoẻ tâm hồn của quốc gia bị đồi truỵ. "Ngay những triết gia cũng nói giữa họ với nhau rằng vì những học giả đã xuất hiện, nên không tìm thấy ở đâu những người lương thiện chánh trực. "Tôi dám tuyên bố rằng một trạng thái suy tưởng là phản thiên nhiên; và một người suy tưởng (một người "trí thức" theo ngôn ngữ của chúng ta ngày nay) là một con vật hư hỏng". Tốt hơn nên bỏ sự phát triển tri thức quá mau chóng của chúng ta, và nên nhằm mục đích huấn luyện trái tim và tình cảm. Giáo dục không làm cho con người khôn lanh - thường thường là vào việc ác. Bản tính và cảm thức đáng tin cậy hơn lý trí.

Trong cuốn tiểu thuyết nổi tiếng của ông La Nouvelle Héloise (1761) Rousseau minh chứng dài dòng sự cao vượt của cảm thức đối với tri thức; cảm tính trở thành thời trang cho những bà quý tộc, và cho một số đàn ông; trong suốt một thế kỷ, nước Pháp đã được tưới bằng nước mắt trong văn chương, rồi nước mắt thật, và phong trào vĩ đại của ý thức Âu châu vào thế kỷ 18 đã nhường bước cho văn chương cảm xúc lãng mạn của thời kỳ 1789 - 1848. Trào lưu này mang theo nó một sự  phục hưng mạnh mẽ cảm thức tôn giáo; những say mê trong tác phẩm "Đặc chất tinh thần Kitô giáo" (1802) của Chateaubriand chỉ là một âm vang của bài "Lời thú về đức tin của cha sở Savoie"  mà Rousseau bao gồm trong Emile (1762),  cuốn tiểu luận của thời đại bàn về giáo dục. Vắn tắt, luận chứng của bài "Lời thú" như sau: mặc dù lý trí có thể chống lại đức tin vào Thượng Đế và linh hồn bất tử, cảm thức vẫn tràn ngập để bênh vực những ý niệm ấy; vậy thì tại sao chúng ta không tin vào bản tính ở dây thay vì nhượng bộ trước nỗi tuyệt vọng của một chủ nghĩa hoài nghi cằn cỗi

Khi Kant đọc Emile, ông bỏ cuộc đi dạo hằng ngày dưới rặng phi lao, để đọc xong cuốn sách một mạch. Đấy là một biến cố trong đời ông, khi gặp ở đây một người thứ hai đang dò dẫm tìm đường ra khỏi bóng tối của vô thần và lại mạnh dạn quả quyết sự ưu thắng của cảm thức trên lý trí trong những vấn đề siêu cảm giác này. Cuối cùng, đây là phân nửa thứ hai của câu trả lời cho thuyết phi-tôn-giáo; cuối cùng bây giờ mọi kẻ phỉ báng và hoài nghi sẽ tản mác. Chắp nối lại những sợi chỉ luận cứ này, phối hợp những ý tưởng của Berkeley và Hume với những cảm thức của Rousseau, cứu vớt tôn giáo khỏi lý trí, nhưng đồng thời cũng cứu khoa học khỏi hoài nghi chủ nghĩa - đấy là sứ mạng của Immanuel Kant. Nhưng Immanuel Kant là ai ?

 

2. CON   NGƯỜI

Kant sinh ở Koenigsberg, Đông Phổ vào năm 1724. Trừ một thời gian ngắn đi dạy ở một làng lân cận, vị giáo sư nhỏ người lặng lẽ này, con người rất yêu thích giảng về địa lý và nhân chủng học về những xứ xa xôi - không bao giờ rời khỏi đô thị quê hương mình. Ông xuất thân từ một gia đình nghèo đã rời bỏ xứ Tô-cách-lan (Scottland) chừng 100 năm trước khi Immanuel Kant ra đời. Mẹ Kant là một người phái Kính Tín -nghĩa là tín đồ của một giáo phái giống như những người Methodists ở Anh, nhấn mạnh vào sự nghiêm nhặt hoàn toàn và kỷ luật chặt chẽ trong đức tin và sự hành đạo. Nhà triết học của chúng ta chìm mình trong tôn giáo từ sáng đến tối, đến nỗi một đằng ông cảm nghiệm một phản kháng xui ông tránh xa giáo đường suốt cuộc đời tráng niên của mình và đằng khác ông giữ đến cùng ấn tượng u buồn của người Thanh giáo Đức, và cảm thấy, khi về già, một niềm khát khao lớn lao muốn duy trì cho chính mình và cho thế giới những điều tinh yếu, ít nhất, của đức tin mà mẹ ông đã ghi tạc sâu xa vào con người ông.

Nhưng một thanh niên lớn lên vào thời Fréderique và Voltaire không thể cô lập với trào lưu hoài nghi của thời đại. Kant chịu ảnh hưởng sâu xa ngay cả của những người mà về sau ông bài bác, và có lẽ chịu ảnh hưởng nhiều nhất từ kẻ thù ruột của ông, Hume. Chúng ta sẽ thấy về sau hiện tượng đáng chú ý khi một triết gia vượt qua tính bảo thủ của lúc trưởng thành và trở về -trong tác phẩm hầu như cuối cùng ở tuổi gần 70- với một sự phóng khoáng, hùng mạnh có lẽ sẽ đem lại cho ông những khổ hình về tôn giáo nếu tuổi tác và danh vọng đã không che chở ông. Ngay trong tác phẩm về sự khôi phục tôn giáo, lạ thay ta cũng rất thường nghe giọng điệu của một Kant thứ hai mà suýt nữa là ta có thể lầm với một Voltaire. Schopenhauer nghĩ rằng "công đức của Fréderique Đại đế không phải nhỏ, khi dưới triều đại ông Kant có thể công khai mãi võ và dám ấn hành cuốn Phê bình lý tính thuần tuý của ông. Không bao giờ dưới một nền cai trị nào khác, lại có một giáo sư ăn lương (ở Đức là một nhân viên chính phủ) dám làm một điều như vậy". Kant đã bị buộc phải hứa với người kế vị của đại đế rằng ông sẽ không viết nữa. Để tỏ lòng tán thưởng nền tự do này, Kant đã đề tặng cuốn Phê bình cho Zedlitz, vị tổng trưởng giáo dục cấp tiến và nhìn xa của vua Fréderique.

Năm 1755 Kant bắt đầu công việc với tư cách giảng sư ở đại học Koenigsberg. Trong mười năm ông bị đặt trong chức vị thấp kém đó; hai lần ông xin làm giáo sư thực thụ đều bị từ chối. Cuối cùng, năm 1770, ông được làm giáo sư luận lý và siêu hình. Sau nhiều năm kinh nghiệm dạy học, ông viết một cuốn sách giáo khoa về sư phạm, ông thường nói về cuốn này rằng nó chứa đựng nhiều lời khuyên tuyệt diệu, nhưng ông chưa bao giờ áp dụng một lời nào. Tuy nhiên ông có lẽ là một giáo sư tốt hơn là một văn sĩ; và hai thế hệ sinh viên đã dần dần đâm ra yêu mến ông. Một trong những nguyên tắc thực tiễn của ông là để ý nhiều nhất đến những học trò có khả năng trung bình; những kẻ u mê, ông bảo, thì vô phương cứu chữa, còn những thiên tài thì đã có thể tự lực.

Không ai ngờ Kant sẽ làm chấn động thế giới với một hệ thống siêu hình mới mẻ; làm cho bất cứ ai giật mình dường như là tội lỗi cuối cùng mà vị giáo sư khiêm tốn rụt rè này có thể phạm phải. Chính ông cũng không mong đợi gì điều ấy; năm 42 tuổi Kant viết: "Tôi may mắn làm một người yêu của siêu hình học; nhưng cô nhân tình của tôi cho đến nay chỉ ban cho tôi rất ít ân huệ". Vào thời ấy ông thường nói đến "vực sâu không đáy của siêu hình học", và siêu hình học là "một đại dương đen thẫm không bến bờ cũng không hải đăng", trong đó rải rắc đầy những cuộc đắm tàu triết học. Ông lại có thể đả kích những nhà siêu hình học như là những người ở trên những tầng tháp cao của tư duy thuần lý, "ở đấy thường có rất nhiều cuồng phong". Ông không dè cơn bão táp siêu hình dữ dội nhất sẽ do chính ông thổi tới.

Trong những năm êm lặng này ông chú trọng nhiều đến vật lý hơn là siêu hình. Ông viết về những hành tinh, động đất, lửa, gió, không gian, núi lửa, hình học, nhân chủng học và một trăm thứ khác thuộc loại ấy, thường không dính dấp gì tới siêu hình học. Cuốn Lý thuyết về những từng trời (1755) đưa ra một cái gì rất tương tự giả thuyết tinh vân của Laplace, thử đề nghị một lối giải thích cơ giới về mọi chuyển động và phát triển của thiên thể. Tất cả những hành tinh, Kant nghĩ đều đã hay sẽ có sinh vật ở; và những hành tinh xa mặt trời nhất, có lẽ có một loài trí tuệ cao hơn bất cứ loài nào được sản xuất trên hành tinh chúng ta từ trước đến nay. Cuốn Nhân chủng học (gồm những bài giảng cả đời ông góp lại vào năm 1798) nêu lên giả thuyết rằng có thể con người có nguồn gốc thú vật. Kant lý luận rằng nếu hài nhi người -vào những thời đại sơ khai lúc con người còn bị nguy khốn nhiều với dã thú- đã khóc lớn khi ra đời như ngày nay, thì nó đã bị những con thú khám phá ra và ngấu nghiến; bởi thế, rất có thể lúc đầu con người rất khác với con người văn minh. Đoạn Kant tiếp tục, một cách tinh tế: "Làm sao thiên nhiên đã đem lại một lối phát triển như thế, và nó được trợ giúp nhờ những nguyên nhân nào, chúng ta không biết được. Nhận xét này đưa chúng ta đi rất xa. Nó gợi lên ý nghĩ rằng biết đâu giai đoạn hiện tại của lịch sử, nhân một cuộc cách mạng vật lý vĩ đại nào đó, lại không được tiếp theo bởi một giai đoạn thứ ba, khi một con đười ươi hay một con hắc tinh tinh sẽ phát triển những cơ quan dùng để đi, sờ mó, nói, thành ra cơ cấu chặt chẽ của một con người, với cơ quan trung tâm để dùng vào việc hiểu biết, và dần dần tiến lên dưới sự huấn luyện của các định chế xã hội". Có phải lối dùng thì vị lai này là lối Kant gián tiếp dè dặt đưa ra quan điểm con người đã thực sự tiến triển từ con thú ?

Như thế ta thấy sự phát triển chậm chạp của con người nhỏ thó đơn giản này, không cao đến 1 m 53, khiêm tốn, rụt rè, tuy thế lại chứa trong đầu cuộc cách mạng lan xa nhất trong triết học tân thời. Đời sống của Kant - một nhà viết tiểu sử nói- trôi qua như động từ  có quy tắc nhất trong những động từ quy tắc. "Thức dậy, uống cà-phê, viết, giảng, ăn tối, đi dạo, Heine bảo - mỗi việc đều có giờ giấc của nó. Và khi Immanuel Kant, trong chiếc áo choàng xám, tay cầm gậy, xuất hiện ở cửa nhà ông, và tản bộ về phía rặng phi lao nhỏ mà ngày nay người ta còn gọi nó là "con đường của nhà triết học", thì những kẻ láng giềng biết đồng hồ lớn đã chỉ đúng ba giờ rưỡi. Cứ thế ông đi dạo lui tới, suốt bốn mùa; và khi thời tiết ảm đạm, hay những ngày mây xám báo hiệu mưa sắp đến, thì người ta thấy lão bộc Lampe lo ngại đi theo với một chiếc dù lớn cặp tay, như một biểu tượng của sự phòng xa".

Kant quá yếu sức về thể chất đến nỗi ông phải theo những phương thức nghiêm nhặt để giữ gìn sức khoẻ; ông nghĩ tốt hơn không nên nhờ đến một y sĩ. Bởi thế ông sống tới tuổi tám mươi. Vào năm thất tuần ông viết một tiểu luận "Về năng lực tâm lý để khắc phục  cảm giác bệnh hoạn nhờ sức mạnh của quyết ý". Một trong những nguyên tắc yêu thích của ông là chỉ thở bằng mũi, nhất là khi ở ngoài trời; do đó về mùa thu, đông và xuân, ông thường không cho phép ai nói chuyện với  ông trong những buổi đi dạo hàng ngày: im lặng tốt hơn là cảm lạnh. Ông suy ngẫm mọi sự chu đáo trước khi hành động; và bởi thế ông ở độc thân suốt đời. Có hai lần ông suy nghĩ đến việc cầu hôn một thiếu nữ, nhưng suy nghĩ  lâu quá nên lần đầu thì thiếu nữ kết hôn với một người dạn dĩ hơn, và lần sau thì cô kia dọn nhà khỏi Koenigsberg trước khi nhà triết học có thể quyết định. Có lẽ ông nghĩ, như Nietzsche, rằng hôn nhân sẽ chướng ngại ông trong công việc theo đuổi chân lý một cách đứng đắn. "Một người đàn ông có gia đình, Talleyrand thường bảo, sẽ làm bất cứ việc gì để kiếm tiền". Và vào năm hai mươi hai tuổi, Kant đã viết với tất cả lòng nhiệt thành tốt đẹp của tuổi trẻ: "Tôi đã chuyên chú vào đường hướng hành động mà tôi quyết địh giữ. Tôi sẽ đi con đường của tôi và không gì ngăn cản được tôi đi theo đường ấy".

Bởi thế ông kiên tâm chịu đựng sự nghèo túng, vô danh, phác họa, viết đi viết lại tác phẩm của ông trong gần mười lăm năm; và chỉ hoàn thành vào năm 1781, khi ông năm mươi bảy tuổi. Chưa có người nào chín muồi chậm đến thế; và cũng chưa có tác phẩm nào làm kinh động và lật đổ cả thế giới triết học như thế.

 

3. PHÊ  BÌNH    TÍNH  THUẦN  TUÝ

Nhan đề ấy nói gì ? Phê bình không hẳn nhiên là một sự chỉ trích mà là một sự phân tích phê phán; Kant không đả kích "lý tính thuần tuý" trừ phi để chỉ rõ những giới hạn của nó; đúng hơn ông hy vọng chứng minh khả năng của lý tính, và nâng nó lên trên tri thức không thuần tuý đến với chúng ta qua những ngõ ngách xuyên tạc của giác quan. Vì lý tính "thuần tuý" là muốn nói các tri thức không đến qua giác quan, mà biệt lập với mọi kinh nghiệm giác quan; các tri thức thuộc  về chúng ta do bản chất và cơ cấu nội tại của tâm thức.

Ngay từ đầu, Kant ném ra một thách đố với Locke và trường phái Anh: tri thức không hoàn toàn có xuất xứ từ giác quan. Hume tưởng đã chứng minh được rằng không có linh hồn; rằng tâm thức của ta chỉ là những ý nghĩ đang diễn ra và liên kết; và những sự chắc chắn của chúng ta chỉ là những "có lẽ" không lấy gì làm chắc chắn. Những kết luận sai lạc ấy - Kant bảo- là kết quả của tiền đề sai: bạn cho rằng mọi tri thức đều đến từ những cảm giác "riêng rẽ và rõ ràng"; dĩ nhiên những cảm giác này không thể đem lại cho bạn cái tất yếu, hay những kết quả tất nhiên mà bạn có thể đoan chắc sẽ xẩy ra;  dĩ nhiên bạn đừng hòng "thấy" được linh hồn bạn, ngay cả với những con mắt của cảm giác nội tâm. Đã đành sự chắc chắn tuyệt đối của tri thức là bất khả nếu mọi tri thức đều đến từ cảm giác, từ một ngoại giới độc lập không hứa hẹn gì với ta về  một vận hành đều đặn. Nhưng nếu ta có cái tri thức biệt lập với giác quan thì sao ? tri thức chắc chắn của chúng ta về chân lý ngay cả trước kinh nghiệm tri thức, tri thức tiên nghiệm ? Thế thì chân lý tuyệt đối và tri thức tuyệt đối, sẽ trở nên khả hữu, phải thế không ? Có một tri thức tuyệt đối như thế không ? Đây là vấn đề phê phán thứ nhất. "Câu hỏi của tôi là: Với lý tính chúng ta có thể hy vọng làm được những gì khi tất cả nguyên liệu và giúp đỡ của kinh nghiệm đều bị tước mất". (Phê bình lý tính thuần tuý, Lời tựa). Cuốn Phê bình trở thành một cuốn sinh vật học chi tiết về tư tưởng, một cứu xét về nguồn gốc và sự tiến hoá của những khái niệm, một phân tích về cơ cấu tâm thức. Đây là toàn thể vấn đề siêu hình học, theo Kant tin tưởng. "Tác phẩm này tôi cốt trình bày thật đầy đủ; và tôi dám chắc rằng không thể có một vấn đề siêu hình nào chưa được giải quyết ở đây, hoặc chưa có ít ra là chìa khoá cho sự giải quyết". Exegi monumentum aere perennius ! Với một lòng tự tôn như thế thiên nhiên đã thúc đẩy chúng ta sáng tạo.

Cuốn Phê bình đi ngay vào vấn đề. "Kinh nghiệm, tuyệt nhiên không phải là phạm vi duy nhất, trong đó sự hiểu biết của chúng ta có thể bị hạn chế. Kinh nghiệm cho ta biết cái đang là, nhưng không phải nó bắt buộc là hiện thể ấy một cách tất yếu chứ không thể khác. Bởi thế nó không bao giờ cho chúng ta những chân lý tổng quát thực tại nào; và lý trí chúng ta vốn đặc biệt băn khoăn về loại tri thức này bị kích thích hơn là được thoả mãn. Chân lý tổng quát, mà đồng thời cũng mang tính chất của sự tất yếu nội tại, phải được biệt lập với kinh nghiệm, tự chúng đã rõ ràng chắc chắn". Như thế nghĩa là, những chân lý ấy phải là thật, bất kể kinh nghiệm về sau của chúng ta ra thế nào đi nữa; thật ngay cả trước kinh nghiệm, thật một cách tiên nghiệm. "Đến mức độ nào đó chúng ta có thể tiến lên biệt lập mọi kinh nghiệm, trong tri thức tiên nghiệm, điều ấy được chứng minh bởi thí dụ sáng chói về toán học". Tri thức toán học là tất yếu và chắc chắn chúng ta không quan niệm được rằng kinh nghiệm về sau sẽ phản lại nó. Chúng ta có thể tin rằng mặt trời sẽ "mọc" ở phương tây ngày mai, hoặc một ngày kia, trong một thế giới nào đó, lửa sẽ không đốt cháy củi; nhưng ta không thể tin rằng 2 x 2 thành ra cái gì khác hơn là 4. Những chân lý như vậy là thực, đứng trước kinh nghiệm; chúng không tuỳ thuộc vào kinh nghiệm quá khứ, hiện tại, vị lai. Bởi thế chúng ta có những chân lý tuyệt đối và tất yếu, không thể quan niệm được rằng có ngày nó sẽ thành sai. Nhưng từ đâu chúng ta có được tính cách tuyệt đối và tất yếu này ? Không phải từ kinh nghiệm, vì kinh nghiệm chỉ đem lại cho chúng ta những cảm giác và biến cố rời rạc, có thể thay đổi chuỗi liên tục của chúng ta trong tương lai. Những chân lý này rút tính cách tất yếu của chúng từ cơ cấu nội tại của tâm thức chúng ta, từ cách thế tự nhiên  và không thể tránh trong đó tâm thức ta phải vận hành. Vì tâm thức con người (và cuối cùng, đây chính là tiền đề trọng đại của Kant ) không phải là chất sáp thụ động trên đó kinh nghiệm và cảm giác viết lên ý muốn tuyệt đối mà hay thay đổi của chúng; nó cũng không phải chỉ là một tên trừu tượng để chỉ những loạt hay nhóm trạng thái tâm thần; nó là một cơ quan năng động biết un đúc và phối hợp những cảm giác thành ra tư tưởng, một cơ quan biến đổi sự phiền đa hỗn tạp của kinh nghiệm trở thành sự nhất tính có trật tự của tư tưởng. 

Nhưng biến đổi cách nào ?

 

3.1 Cảm giác học siêu nghiệm

Nỗ lực để giải đáp câu hỏi này, để nghiên cứu cơ cấu nội tại của tâm linh, hay những định luật bẩm sinh của tư tưởng, là cái mà Kant gọi là "triết học siêu nghiệm" bởi vì đó là một vấn đề siêu việt kinh nghiệm giác quan. "Tôi gọi tri thức là siêu nghiệm khi nó không bận tâm nhiều đến các sự vật cho bằng đến những khái niệm tiên nghiệm của chúng ta về sự vật, đến những cách thế của chúng ta để liên kết kinh nghiệm vào tri thức". Có hai cấp bực hay giai đoạn trong quá trình biến đổi nguyên liệu thô sơ của cảm giác thành ra sản phẩm hoàn tất của tư tưởng. Giai đoạn thứ nhất là sự phối hợp những cảm giác bằng cách áp dụng cho chúng những hình thức của tri giác không gian và thời gian; giai đoạn thứ hai là sự phối hợp những tri giác đã phát triển ấy, bằng cách áp dụng cho chúng những hình thức của quan niệm, những phạm trù của tư tưởng . Sử dụng danh từ Esthetic trong nguyên nghĩa của nó, chỉ cảm giác hay cảm thức, Kant đã gọi giai đoạn thứ nhất là "cảm giác học siêu nghiệm" (Transcendental esthetic) và dùng danh từ logic theo nghĩa khoa học về những hình thái của tư tưởng, ông gọi giai đoạn thứ hai là "luận lý học siêu nghiệm". Đấy là những danh từ kinh khủng, sẽ có nghĩa khi những luận cứ diễn tiến; một khi vượt qua ngọn đồi này, con đường đi đến Kant sẽ trở thành quang đãng.

Bây giờ hãy nói cảm giác và tri giác có nghĩa gì ? - và làm thế nào tâm thức biến đổi cảm giác thành ra tri giác ? Tự nó, cảm giác chỉ là sự nhận biết một kích thích; chúng ta có một vị nơi lưỡi, một nhiệt độ trên da, một tia sáng trên võng mạc, một sức đè trên những ngón tay; đấy là khởi điểm thô sơ nguyên chất của kinh nghiệm ; đấy là những gì hài nhi có vào những ngày sớm sủa nhất của đời sống tinh thần sờ soạng của nó; đấy chưa phải là tri thức. Nhưng hãy để những cảm giác khác nhau này tự nhóm họp lại xung quanh một đối tượng trong không gian và thời gian -tỉ dụ trái táo, hãy đề mùi nơi lỗ mũi, vị nơi lưỡi, ánh sáng nơi võng mạc, sức đè biểu thị hình dáng trên những ngón và bàn tay, để tất cả nhóm họp lại xung quanh "vật" này: bây giờ ta sẽ có một sự nhận biết không những chỉ về một kích thích mà hơn thế nữa, về một đối vật đặc biệt, ta có một tri giác. Cảm giác đã chuyển thành tri giác.

Nhưng lại nữa, sự nhóm họp đó, sự chuyển qua đó có phải tự động không ? Có phải những cảm giác tự động, tự nhiên rơi vào trong một chùm và một trật tự, và trở thành tri giác ? Phải, Locke và Hume bảo; hoàn toàn không, Kant trả lời.

Bởi vì những cảm giác thay đổi này đến với chúng ta qua những giác quan khác nhau, qua một nghìn "sợi thần kinh dẫn truyền" đi từ da và mắt, tai lưỡi, vào não; chúng quả là một đán sứ giả hỗn độn khi chen nhau ùa vào những phòng ngăn của tâm thức để kêu gọi sự chú ý ! Thảo nào Platon nói đến "đám hỗn độn của những cảm giác ". Và để chúng một mình, chúng cũng vẫn hỗn độn; vẫn là một đám phiền tạp hỗn mang, bất lực một cách thảm hại, chờ đợi một cuộc sắp đặt có ý nghĩa, mục đích và năng lực. Có phải những thông điệp mang đến cho một tướng soái từ một ngàn khu vực của chiến tuyến có thể sẵn sàng tự kết lại thành hiểu biết và sự điều khiển chăng ? Không, có một người ra lệnh cho đám này, một năng lực điều khiển và phối hợp không những chỉ thâu nhận mà thôi, mà còn lấy những nguyên tố này của cảm giác để un đúc thành cảm thức.

Trước hết, hãy để ý rằng không phải tất cả các thông điệp đều được đón nhận. Muôn ngàn năng lực đang tác động trên thể xác bạn ngay giờ phút này, một đám mưa giông những vật kích thích tuôn xuống trên những đầu dây thần kinh mà, giống như biến hình trùng (??), bạn đưa ra để kinh nghiệm ngoại giới, nhưng không phải hết mọi kẻ được gọi đều được chọn, chỉ được chọn những cảm giác nào có thể đúc kết thành tri giác thích hợp với mục đích hiện tại của ta, hay những cảm giác nào đem đến những thông tin cấp bách về sự nguy hiểm, những tin tức luôn luôn xác đáng. Chiếc đồng hồ đang tích tắc ta không nghe thấy, nhưng cũng chính tiếng tích tắc ấy không lớn gì  hơn trước sẽ được nghe tức khắc nếu ta có ý muốn nghe. Bà mẹ ngủ bên cạnh nôi con thường không nghe gì về sự huyên náo của sinh hoạt chung quanh, nhưng nếu đứa con động đậy, bà sẽ lần tìm trở lại sự chú ý tỉnh thức như một người thợ lặn vội vàng nhô lên mặt biển. Thử có ý định làm phép cộng, thì sự kích động "2 và 3" sẽ đem lại phản ứng "5"; ý định làm phép nhân thì cùng kích động ấy, "2 và 3" sẽ đem lại phản ứng "6". Sự liên kết của những cảm giác hay ý tưởng không phải nhờ sự tiếp cận  trong không gian và thời gian cũng không phải nhờ sự tương đồng, cũng không phải nhờ sự mới mẻ, thường xuyên hay cường độ của kinh nghiệm, trên tất cả, nó được định đoạt bởi ý định của tâm thức. Cảm giác và ý tưởng chỉ là những tôi tớ, chúng đợi tiếng gọi của ta, chúng không đến nếu chúng ta không cần. Có một yếu tố tuyển chọn và điều khiển, sử dụng và làm chủ chúng. Cộng thêm vào cảm giác và ý tưởng, có tâm thức.

Cơ quan tuyển chọn và phối hợp này, theo Kant nghĩ, sử dụng trước tiên hai phương pháp giản dị để phân loại nguyên liệu đưa đến cho nó: Cảm thức về không gian và cảm thức về thời gian. Như vị tướng lãnh sắp đặt những tin tức gửi đến cho ông tùy theo nơi gởi và thời gian nó được viết rồi tìm ra một thứ tự và một hệ thống cho tất cả những tin tức ấy; tâm thức cũng vậy, định vị trí cảm giác của nó trong không gian và thời gian, quy chúng cho sự vật này ở đây hay sự vật kia chỗ nọ, cho thời gian hiện tại này hay cho quá khứ nọ. Không gian và thời gian không phải là những sự vật được tri giác, mà là những phương pháp tri giác, những cách sắp đặt cảm tố rời rạc thành cảm giác; không gian và thời gian là những phương tiện để tri giác.

Chúng có tính chất tiên nghiệm, bởi vì mọi kinh nghiệm có trật tự đều bao hàm và tiên quyết phải có chúng. Không có chúng, cảm giác sẽ không bao giờ có thể tăng trưởng thành tri giác. Chúng tiên nghiệm bởi vì không thể quan niệm được rằng có khi nào chúng ta lại có một kinh nghiệm vị lai nào bất cứ, mà không bao gồm luôn chúng, và bởi vì chúng tiên nghiệm, nên những định luật của toán học, cũng tiên nghiệm, tuyệt đối và tất yếu.

Không những chỉ có thể, nhưng còn chắc chắn rằng chúng ta sẽ không bao giờ tìm thấy một đường thẳng nào lại không phải là khoảng cách ngắn nhất giữa hai điểm. Toán học, ít nhất, đã được cứu thoát khỏi thuyết hoài nghi phá hoại của David Hume.

Có thể những khoa học khác cũng được cứu thoát như thế chăng ? Có thể, nếu nguyên tắc căn để của chúng, luật nhân quả -một nguyên nhân phải luôn luôn được đi kèm bởi một kết quả- có thể được chứng minh như không gian và thời gian, là một yếu tố nội tại trong mọi quá trình hiểu biết, và không thể quan niệm trong tương lai sẽ có một kinh nghiệm nào có thể đi ngược lại hay thoát khỏi định luật ấy. Có phải luật nhân quả của tiên nghiệm và là một điều kiện tiên quyết thiết yếu cho mọi tư tưởng ?

 

3.2 Phân tích pháp siêu nghiệm

Như thế chúng ta đi từ lãnh vực rộng lớn của cảm giác và tri giác đến căn buồng tối và hẹp của tư tưởng ; từ cảm giác học siêu nghiệm đến luận lý học siêu nghiệm. Trước tiên chúng ta đi đến sự đặt tên và phân tích những yếu tố trong tư tưởng ta, những yếu tố mà tâm thức đã cho tri giác đúng hơn là tri giác đã cho tâm thức, những đòn bẫy đã nâng sự hiểu biết bằng tri giác về sự vật lên đến sự hiểu biết bằng "khái niệm" về những tương quan nhân quả và định luật, những dụng cụ của tâm thức đã tinh luyện kinh nghiệm thành ra kiến thức. Hệt như những tri giác đã sắp đặt cảm giác về sự vật trong không gian và thời gian, quan niệm của sắp đặt những tri giác (những sự vật và biến cố) xung quanh những ý niệm về nguyên nhân, nhất tính, hỗ tương liên hệ, tất yếu, ngẫu nhiên v.v., những phạm trù này là cơ cấu trong đó tri giác được nhận vào và qua đó chúng được phân loại và đúc kết thành những khái niệm có trật tự của tư tưởng. Những phạm trù này chính là tinh thể và đặc tính của tâm thức, tâm thức là sự phối hợp kinh nghiệm.

Lại nữa, ta hãy quan sát ở đây hoạt động của tâm thức mà theo Locke và Hume, chỉ là "chất sáp thụ động"  dưới những tác dụng của kinh nghiệm giác quan. Hãy xét một tư tưởng hệ như của Aristote có thể quan niệm được chăng rằng sự sắp xếp dữ kiện hầu như của toàn vũ trụ kia, lại chỉ xuất hiện do sự ngẫu nhiên hỗn loạn máy móc của chính những dữ kiện ấy ? Hãy nhìn tủ đựng thẻ khổng lồ trong thư viện, được sắp xếp một cách thông minh liên tục theo ý định của con người. Rồi hãy hình dung tất cả những hộc thẻ này bị ném vung giữa sàn nhà, các thẻ văng ra tung toé hỗn độn. Ta có thể nào quan niệm được chính những thẻ rải rác bừa bãi nầy tự đứng lên từ đám hỗn độn, lặng lẽ đi vào vị trí theo mẫu tự và theo đề tài trong những hộc dành riêng, và mỗi hộc tự đi vào chỗ của nó trong tủ -cho đến khi mọi sự trở lại có trật tự nghĩa lý và mục đích như cũ ? Ôi, tóm lại, quả là những nhà hoài nghi đã kể cho chúng ta nghe một chuyện thần kỳ !

Cảm giác là một kích thích chưa được tổ chức, tri giác là cảm giác được tổ chức, quan niệm là tri giác được tổ chức, tri thức là hiểu biết được tổ chức. Mỗi thứ là một trình độ cao hơn về trật tự, sự liên tục và nhất tính. Trật tự, sự liên tục và nhất tính ấy phát sinh từ đâu ? Không phải từ chính sự vật, vì chúng ta chỉ biết sự vật qua những cảm giác đến từ một ngàn lối, cùng lúc và hỗn độn. Chính ý định của ta đã đặt sự trật tự, liên tục và nhất tính trên tình trạng vô luật lệ phiền nhiễu này; chính chúng ta, nhân cách, tâm thức chúng ta đã đem ánh sáng đến cho biển cả ấy. Locke đã sai lầm khi nói: "Không có gì trong tri thức cả trừ phi những gì đã có trước trong các giác quan"; Leibnitz còn nói thêm: "Không có gì cả trừ ra chính tri thức". Theo Kant, "tri giác mà không có quan niệm là mù". Nếu những tri giác tự dệt lại một cách máy móc thành ra ý tưởng có trật tự, nếu tâm thức không phải là một nỗ lực tích cực tạo nên trật tự từ cảnh hr />Chương 7: Schopenhauer

 

Chương 7

Schopenhauer (1788 – 1860)

 

 I. THỜI  ĐẠI

Tại sao nửa đầu thế kỷ 19 đã nổi lên làm tiếng nói của thời đại một nhóm thi sĩ bi quan: Byron ở Anh, de Musset ở Pháp, Heine ở Đức, Leopardi ở Ý, Pushkin và Lermontof ở Nga; một nhóm nhạc sĩ bi quan : Schubert, Schumann, Chopin và cả Beethoven sau này ( một nhà bi quan cố tự thuyết phục rằng mình lạc quan); và trên tất cả, một triết gia vô cùng bi quan - Arthur Schopenhauer ?

 Tuyển tập vĩ đại về nỗi thống khổ, tác phẩm "Thế giới: ý dục và biểu tượng", xuất hiện vào năm 1818. Đó là thời đại của quân đồng minh "thần thánh". Trận Waterloo đã chung cuộc, cách mạng đã chết và "Con người của Cách mạng" đang tàn suy dần trên một mỏm đá ở biển xa. Sự tôn sùng ý chí của Schopenhauer có phần nào ảnh hưởng sự xuất hiện vĩ đại của ý chí được biến thành xác thịt nơi người dân đảo Corse nhỏ con ấy, và sự thất vọng của ông về cuộc đời một phần do khoảng cách bi thảm giữa đảo St. Hélène và ý chí cuối cùng bị đánh bại, và thần chết đen tối là kẻ vinh quang độc nhất trong mọi cuộc chiến tranh. Dòng họ Bourbons được khôi phục, những bá tước phong kiến trở về đòi lại đất đai họ, và chủ nghĩa duy tâm hoà bình của Alexandre đã vô tình sản sinh ra một liên minh cho sự bóp chẹt tiến bộ ở khắp nơi. Thời đại huy hoàng đã qua. "Tôi cám ơn Thượng đế - Goethe bảo, vì tôi không còn trẻ trong một thế giới đã đến chỗ hoàn toàn bị tiêu vong".

Toàn thể Âu châu suy sụp. Hàng triệu người mạnh khoẻ bị tiêu diệt; hàng triệu mẫu đất trở thành hoang phế; khắp nơi trên lục địa cuộc đời phải bắt đầu lại từ căn để, hòng khôi phục một cách nhọc nhằn chậm chạp mối thặng dư kinh tế mà chiến tranh đã nuốt chửng. Schopenhauer khi du lịch qua Pháp và Áo năm 1804 đã kinh ngạc trước sự hỗn độn và dơ bẩn của những khu làng, cái nghèo nàn khốn nạn của các điền chủ, nỗi bất an khốn cùng của những thành phố. Cuộc hành binh của Nã phá luân và quân chống Nã phá luân đã để lại những vết sẹo to lớn trên mặt mày mọi xứ sở. Mạc tư khoa đã ra tro. Ở Anh, xứ chiến thắng, những tá điền bị tan gia bại sản vì giá lúa sụt; những công nhân kỹ nghệ đang nếm trải tất cả kinh hoàng của chế độ cơ xưởng đang lên không được kiểm soát. Sự giải ngũ quân đội gia tăng số người thất nghiệp. Carlyle đã viết: "Tôi nghe thân phụ tôi kể rằng vào những năm lúa kiều mạch lên giá đến 10 Anh kim một "Stone" (6 368 grams), ông đã thấy những tá điền rút lui riêng rẽ về một con suối, uống nước suối thay bữa và nơm nớp che dấu nỗi cơ cực của mình để tá điền khác khỏi thấy (*) [(*) Froude: Life and Letters of Thomas Carlyle I, p. 52]. Chưa bao giờ cuộc đời có vẻ vô nghĩa đến thế, đê hèn đến thế ".

Vâng, cách mạng đã chết, và cùng với cách mạng sự sống dường như đã lìa khỏi linh hồn Âu châu. Thiên đường mới mẻ kia, được gọi là Xã hội lý tưởng, mà ánh sáng mê hoặc đã thay thế ánh hoàng hôn của những thần linh, đã lùi vào một tương lai mờ mịt chỉ có những cặp mắt trẻ trung mới nhìn thấy. Những người già đã theo dõi cám dỗ ấy khá lâu rồi, bây giờ họ quay đi tránh nó như tránh một sự nhạo báng đối với niềm hy vọng của con người. Chỉ có những người trẻ mới có thể sống trong  tương lai, và chỉ có người già mới có thể sống trong quá khứ; phần đông con người bị bắt buộc phải sống trong hiện tại, mà hiện tại bấy giờ là một cảnh tàn phế điêu linh. Biết bao nghìn vạn anh hùng và những người tin tưởng đã chiến đấu cho cách mạng ! Những trái tim thanh niên khắp nơi ở Âu châu đã hăm hở xiết bao khi hướng về nền cộng hoà trẻ trung, và đã sống bằng ánh sáng và niềm hy vọng về nó, cho đến khi Beethoven xé nát lời đề tặng bản hoà tấu bi hùng của mình cho con người không còn là người con của cách mạng mà đã trở thành con rể của phản động. Biết bao người ngay lúc đó vẫn còn chiến đấu cho niềm kỳ vọng lớn lao và đã tin tưởng cho đến phút cuối cùng ? Và đây là phút cuối ấy: Waterloo, St. Hélène và Vienne, và trên ngai vàng của nước Pháp kiệt quệ ngự trị một người thuộc giòng họ Bourbon đã không học được gì và cũng không quên gì *) [(*) Sau khi Napoléon thất bại với trận Waterloo, dòng Bourbons trở lại với Louis 18 lên ngôi]. Đây là kết cục vinh quang của một thời đại có một hy vọng và nỗ lực lớn lao như chưa từng thấy trong lịch sử loài người . Thật là một bi kịch khôi hài biết bao cho những người mà tiếng cười đã đẫm lệ chua chát.

Trong những ngày vỡ mộng, đau khổ ấy, nhiều người trong giới nghèo khổ còn có niềm an ủi của hy vọng tôn giáo; nhưng một số lớn của giai cấp thượng lưu đã mất hết niềm tin, nhìn thế giới bị tàn phá mà không có một viễn tượng nào để giải khuây, viễn ảnh một cõi đời rộng lớn hơn, trong cõi tuyệt mỹ và chí công ấy, những đau khổ xấu xa này sẽ tan biến. Và quả thật khó mà tin rằng một hành tinh buồn thảm như người ta thấy vào năm 1818 lại do một vì Thượng đế trí huệ và bác ái nắm giữ. Mephistopheles đã thắng và mọi Faust đều thất vọng. Voltaire đã gieo ngọn cuồng phong và Schopenhauer phải gặt lấy kết quả.

 Thật hiếm khi vấn đề sự ác lại được ném vào mặt triết học và tôn giáo một cách gắt gay và quyết liệt đến thế. Mọi nấm mồ binh sĩ từ Boulogne đến Moscow và kim tự tháp đều nêu một câu hỏi câm lặng lên những vì sao lạnh lùng. Hỡi Thượng đế, còn bao lâu nữa và tại sao ? Có phải tại hoạ gần như cùng khắp này là sự báo thù của một Thượng đế công chính đối với thời đại Lý Trí và Bất Tín ? Có phải đấy là một lời giục gọi tri thức ăn năn phải khuất phục những đức hạnh cũ - đức tin, hy vọng, bác ái ? Đấy là ý kiến của Schlegel, Novalis, Chateaubriand, De Musset, Southey, Wordsworth và Gogol; họ quay về niềm tin cũ như những đứa con hoang phá sung sướng được trở về gia đình. Nhưng nhiều người khác có giải đáp phũ phàng hơn: theo họ, tình trạng hỗn mang của Âu châu chỉ là phản ảnh cái hỗn mang của vũ trụ; rốt cuộc chẳng có một trật tự thiêng liêng nào cả, cũng không có niềm hy vọng thiên đường nào: Thượng đế nếu có chỉ là một Thượng đế mù loà, sự ác đang trùm lấp mặt mày trái đất. Đấy là quan điểm của Byron, Heine, Urmontof, Leopardi và triết gia của chúng ta, Schopenhauer.

 

II. CON   NGƯỜI

Arthur Schopenhauer sinh ở Dantzig ngày 22 tháng 2 năm 1788. Thân phụ ông là một thương gia được tiếng có tài, nóng tính, tự chủ và yêu chuộng tự do. Ông dời nhà từ Dantzig tớiHamburg khi A. Schopenhauer mới lên năm, vì Dantzig mất tự do trong khi bị Poland sáp nhập vào năm 1793. Cậu bé Schopenhauer lớn lên trong không khí doanh nghiệp và tài chính; và mặc dù chẳng bao lâu cậu đã bỏ nghề thương mãi mà cha cậu đẩy cậu vào, nó vẫn còn dấu vết trên nhân cách cậu ở lối cư xử cộc lốc, lối xoay chiều tư tưởng về thực tế, lối hiểu biết về thế gian và con người ... làm cho Schopenhauer trở nên đối nghịch với mẫu triết gia hàn lâm, tháp ngà mà ông khinh miệt. Thân phụ ông mất, có lẽ tự sát, vào năm 1805; bà nội chết trong cơn điên. "Tính tình hay ý chí được thừa hưởng từ người cha, trí huệ từ người mẹ". Schopenhauer bảo. Mẹ ông là người có trí huệ -bà là một trong những tiểu thuyết gia phổ thông nhất đương thời, nhưng cũng rất nóng tính. Bà không được hạnh phúc với người chồng phàm tục, không biết gì về văn chương, nên khi ông chết, bà bắt đầu sống đời tự do luyến ái, và dọn nhà đến Weimar, nơi có không khí thích hợp nhất cho lối sống kia. Arthur chống đối điều này hệt như Hamlet chống đối sự tái giá của mẹ mình; và những cuộc gây gổ với mẹ ông đã đem lại cho ông phần lớn những chân lý nửa vời về phụ nữ mà ông dùng để biện minh cho triết lý của ông. Một bức thư của bà mẹ cho ta thấy tình trạng giữa hai mẹ con: "Mày thật khó chịu và rầy rà, thật khó sống với mày. Tất cả những đức tính của mày đều bị tánh tự phụ che lấp, chúng thành ra vô dụng chỉ vì mày không thể kiềm hãm được khuynh hướng "vạch lá tìm sâu" của mày *) [(*) Wallace "Cuộcđời Schopenhauer, trường. 59].

Bởi thế họ thu xếp để sống xa nhau, Schopenhauer đến chơi nhà mẹ vào những buổi tiếp tân tại nhà bà và làm một người khách  như những người khác, khi ấy họ có thể lịch sự với nhau như những người xa lạ, thay vì thù ghét nhau trong vai thân thuộc bà con. Goethe thích bà Schopenhauer vì bà ta để ông tự do mang theo Christianne, song ông ta đã đổ dầu thêm vào lửa khi bảo rằng danh tiếng của con bà sẽ nổi như cồn. Bà Schopenhauer chưa hề nghe một gia đình có đến hai thiên tài. Cuối cùng, trong một trận gây gỗ quyết liệt, bà mẹ xô con trai đối nghịch xuống cầu thang, và triết gia của chúng ta liền báo cho bà hay rằng hậu thế có biết tới bà cũng chỉ  nhờ qua tay ông mà thôi. Ngay sau đó Schopenhauer rời Weimar; và mặc dù mẹ ông còn sống 24 năm nữa, ông không hề gặp lại. Byron, cùng sinh vào năm 1788, dường như cũng có cùng một tình trạng mẹ con tương tự. Những người này hầu như vì hoàn cảnh ấy nên phải chuốc lấy tâm trạng bi quan, một người không từng nếm trải tình yêu của mẹ, và tệ hơn, đã từng nếm trải sự thù hằn của mẹ, thì thật không có lý do nào để yêu mến cuộc đời.

Trong lúc đó Schopenhauer đã qua bực trung học và đại học, và đã học nhiều hơn chương trình. Ông lao mình vào ái tình và cuộc đời kết quả là nó ảnh hưởng đến tính tình và triết lý của ông. Ông đâm ra u trầm, cay cú, hoài nghi; ông bị ám ảnh bởi sợ hãi và những khuynh hướng quỷ mỵ . Ông khoá kỹ những ống điếu và không bao giờ tin cậy người thợ cạo; ông ngủ với những khẩu súng lục nạp đạn để sẵn bên giường - có lẽ dành cho kẻ trộm. Ông không thể chịu đựng tiếng ồn: "Từ lâu tôi đã quan niệm rằng số lượng tiếng động mà một người có thể an nhiên chịu đựng tỷ lệ nghịch với khả năng tinh thần của họ, và do đó có thể được xem như một thước đo khá đúng về khả năng ấy... Tiếng động là một cực hình đối với mọi người trí thức... Sự phô trương sinh lực dồi dào bằng hình thức gõ, nện, quăng ném đồ vật một cách ồn ào đã là một cực hình thường nhật suốt đời tôi"*) (* Thế giới..., 199, Tiểu luận "Về tiếng ồn"). Ông có cảm tưởng -gần như một tâm bệnh do sự kiêu căng thái quá- rằng mình có đại tài mà không được công nhận; thiếu thành công và danh tiếng, ông xoay vào nội tâm để ray rứt chính tâm hồn mình.

Ông không có mẹ, không vợ con, gia đình, xứ sở. Ông tuyệt đối cô độc, không có lấy một người bạn. Giữa "một người" và "không người nào" là cả một khoảng cách vô cùng **) (** Nietzsche: Schopenhauer nhà giáo dục, London, 1910, tr.122). Còn hơn cả Goethe, ông hoàn toàn không nhiễm cơn sốt ái quốc của thời đại. Năm 1813 ông bị lôi cuốn theo sự nồng nhiệt của Fichte về một cuộc chiến tranh giải phóng ách Napoléon, đến nỗi ông đã nghĩ đến việc tình nguyện nhập ngũ và lại còn mua cả một bộ khí giới. Nhưng tính lo xa đã giữ ông lại kịp thời; ông lý luận: "Chung quy, Napoléon chỉ biểu hiện -một sự biểu hiện quá đà, chỉ tập trung vào một đối tượng duy nhất- sự xác định tự ngã và lòng ham muốn tăng cường sự sống, những điều mà người yếu hơn ông cũng cảm thấy nhưng đành phải nguỵ trang chúng". Thay vì đi vào chiến trường, ông ta đi về quê và viết một luận án tiến sĩ triết học.

Sau luận án nhan đề "Về bốn cội rễ của lý trí túc lý" (1813), Schopenhauer đem hết thì giờ năng lực để viết một tác phẩm về sau trở thành kiệt tác của ông - "Thế giới kể như ý dục và biểu tượng". Ông gởi bản thảo "Magna cum laude" đến nhà xuất bản . Theo ông tác phẩm này không phải chỉ là nhai lại những ý tưởng cũ, mà là một kết cấu vô cùng chặt chẽ những ý tưởng vô cùng độc đáo, "rất dễ hiểu, mạnh mẽ và không phải là không hoa mỹ"; một tác phẩm mà "về sau sẽ khơi nguồn khởi hứng cho một trăm tác phẩm khác" (Wallace). Tất cả những lời đó biểu lộ tính tự đắc quá trớn và đều tuyệt đối đúng thật... Nhiều năm sau, Schopenhauer quá tin rằng mình đã giải quyết những vấn đề chính yếu của triết học đến nỗi ông thuê chạm trổ trên nhẫn đeo tay một hình quái vật Sphinx (đầu đàn bà mình sư tử) đâm đầu xuống vực thẳm như lời hứa khi những nạn vấn của nó đã được giải đáp.

Tuy thế, tác phẩm đã không lôi cuốn một sự chú ý nào, thế giới quá nghèo nàn kiệt quệ để đọc về những nỗi nghèo kiệt của nó. Mười sáu năm sau khi xuất bản, Schopenhauer được báo tin là phần lớn số sách in ra đã được bán làm giấy loại. Trong bài tiểu luận về "Danh tiếng"  trong "Túi khôn của đời người", ông trích dẫn hai nhận xét của Lichtenberger, hiển nhiên để ám chỉ kiệt tác của ông : "Những tác phẩm như vầy giống như một chiếc gương: nếu một con khỉ nhìn vào đấy thì bạn không thể nào chờ đợi một thiên thần nhìn ra" và "Khi một cái đầu và cuốn sách va chạm nhau, và nếu một bên nghe rỗng tuếch, thì đấy có phải luôn luôn là cuốn sách không ?". Schopenhauer lại tiếp, với giọng điệu của lòng tự phụ bị tổn thương: "Một người càng thuộc về hậu thế bao nhiêu ... -hay thuộc về nhân loại nói chung- thì người ấy càng xa lạ với người đồng thời bấy nhiêu, vì tác phẩm của người ấy không cốt dành cho những người đồng thời trừ phi những người ấy là thành phần của nhân loại rộng lớn; trong những tác phẩm của người kia không có cái màu địa phương quen thuộc hấp dẫn họ". Rôi ông trở nên hùng biện như chú chồn trong truyện ngụ ngôn: "Một nhạc sĩ có thể cảm thấy khoái vì tiếng vỗ tay của một thính chúng chăng, khi người ấy biết rằng hầu hết những người nghe kia đều điếc, và thấy vài người vỗ tay để che dấu sự tàn tật của mình ? Và nhạc sĩ kia sẽ nói gì khi khám phá rằng một vài người kia thường nhận hối lộ để tán thưởng lớn tiếng nhất cho người chơi dở nhất". Trong một số người, tính tự đại tự cao là một bù trừ cho sự vô danh tiểu tốt; trong vài người khác, tính tự cao lại cộng tác đắc lực cho việc nổi danh.

Schopenhauer đã để hết mình vào tác phẩm này đến nỗi những tác phẩm về sau của ông chỉ là những phụ chú cho nó; ông trở thành nhà luận giải cho kinh điển của chính ông. Năm 1836 ông xuất bản một cuốn tiểu luận "Về ý dục trong thiên nhiên", tác phẩm một phần nào đã nhập vào trong bản in khoáng đại cuốn "Thế giới kể như ý dục và biểu tượng" xuất hiện năm 1844. Năm 1841 ông ra cuốn "Hai vấn đề căn để của đạo đức", và 1851 hai cuốn sách khổng lồ "Parerga và Paralipomena" -dịch sát là "Thặng phẩm" và "Cặn bã"- đã được dịch ra Anh ngữ dưới nhan đề "Tiểu luận" (Essays). Về cuốn sách này, tác phẩm dễ đọc nhất của ông, nhan nhản những lời dí dỏm sâu sắc, Schopenhauer nhận được mười ấn bản khỏi trả tiền, đấy là tất cả nhuận bút của ông. Kể cũng khó lạc quan được trong những hoàn cảnh như thế.

Chỉ có một cuộc phiêu lưu quấy động sự đều đặn trong chuỗi ngày ẩn dật của ông sau khi rời Weimar. Ông đã hy vọng được dịp trình bày triết học của mình ở một trong những đại học lớn của Đức; dịp ấy đến vào năm 1822, khi ông được mời đến Berlin làm Privatdozent (Giáo sư / Giảng sư ngoại ngạch / ngoài biên chế -chú thích của người đánh máy-). Ông cố ý chọn buổi giảng vào đúng giờ mà Hegel  -lúc ấy đang có uy thế- được sắp giờ dạy trong thời khắc biểu; Schopenhauer tin tưởng rằng sinh viên sẽ nhìn ông và Hegel với con mắt của hậu thế. Nhưng những sinh viên không thể biết trước được quá trình xa như vậy, và Schopenhauer tự thấy mình nói với những hàng ghế trống. Ông từ chức, và trả đũa bằng những bài công kích Hegel một cách chua chát, những lời đã làm hỏng những bản in lần sau của tuyệt tác ông. Năm 1831, một trận dịch tả nổi lên ở Berlin, cả Hegel lẫn Schopenhauer chạy trốn; nhưng Hegel trở về quá sớm, bị nhiễm và chết vài ngày sau. Schopenhauer không dừng bước cho đến khi ông tới Frankfurt, ở đó ông sống nốt những ngày còn lại trong bảy mươi hai năm đời.

Vốn là người bi quan nhạy cảm, ông tránh cái cạm bẫy đặt cho những kẻ lạc quan -toan sống nhờ cây bút. Ông đã thừa hưởng một lợi nhuận trong công ty của thân phụ ông, và sống trong tiện nghi vừa phải với số lợi tức này. Ông đầu tư tiền một cách khôn ngoan hiếm thấy nơi một nhà triết học. Khi một công ty ông có hùn vốn bị thua lỗ và những người hùn khác đều chịu cho trả 70% số vốn, Schopenhauer quyết tranh đấu lấy lại toàn vốn, và thắng cuộc. Ông có đủ tiền để thuê hai phòng nhà trọ; ở đấy ông sống cô độc ba mươi năm sau cùng, với một con chó làm bạn. Ông đặt tên cho nó là Atma (danh từ của Bà la môn giáo có nghĩa là Linh hồn vũ trụ), nhưng những người trong thành phố thường gọi đùa là "Schopenhauer con". Ông thường ăn tối ở quán Englischer Hof. Đầu mỗi bữa ăn ông thường đặt một đồng tiền vàng trước mặt, và cuối bữa lại bỏ đồng tiền vào túi. Cuối cùng, một bồi bàn bất mãn trước cái lễ tục bất di dịch ấy, đã hỏi ông về ý nghĩa của nó. Schopenhauer trả lời đấy là tiền ông tự đánh cuộc với mình, và ông sẽ bỏ nó vào trong hộp lạc quyên cho người nghèo nếu những sĩ quan Anh vào ăn ở đấy sẽ nói một điều gì khác hơn là ngựa, đàn bà hay chó (Wallace, tr.171).

Những đại học làm ngơ xem như không có ông và những cuốn sách ông viết, dường như muốn cụ thể hoá lời tuyên bố của ông, theo đó mọi bước tiến về triết học đều được thực hiện ở bên ngoài những bức tường đại học. Nietzsche bảo: "Không có gì làm tổn thương những nhà bác học Đức cho bằng sự ghét bỏ của Schopenhauer đối với họ". Nhưng ông đã tập được chút ít kiên nhẫn; ông tin tưởng rằng dù chậm trễ đến đâu, cuối cùng ông cũng sẽ được công nhận. Và cuối cùng sự thừa nhận ấy đã đến, mặc dù rất chậm. Những người trung lưu -luật sư, bác sĩ, thương gia- tìm thấy nơi ông một triết gia đem lại cho họ không phải chỉ một mớ tiếng lóng kênh kiệu của những gì phi thực siêu hình, mà một thống quan khả dĩ hiểu được về những hiện tượng của đời sống thực. Một Âu châu vỡ mộng vì những lý tưởng và nỗ lực của 1848 nồng nhiệt quay về với nền triết học này, nền triết học đã nói lên nỗi tuyệt vọng của năm 1815. Sự đả kích của khoa học đối với thần học, bản cáo trạng của xã hội chủ nghĩa về nghèo khó và chiến tranh, sự nhấn mạnh của sinh lý học vào việc cạnh tranh sinh tồn, -tất cả những yếu tố này cuối cùng đã nâng Schopenhauer lên đài danh vọng.

Ông không đến nỗi quá già hết muốn thưởng thức danh vọng của mình: ông hăm hở đọc tất cả những mục báo nói về ông; ông bảo bạn bè gởi cho ông tất cả mọi sách báo phê bình mà họ gặp -ông sẽ trả tiền cò. Năm 1854 Wagner gởi cho ông một ấn bản của tác phẩm Der Ring der Nibelungen  với một lời tán thưởng cái triết lý về âm nhạc của Schopenhauer. Bởi thế nhà bi quan trở thành gần như một nhà lạc quan khi về già; ông thổi sáo luôn mồm sau mỗi buổi ăn tối, và cám ơn Thời gian đã xua đuổi cho ông những hăng hái của tuổi trẻ. Từ khắp nơi trên thế giới, khách đến viếng tấp nập, và vào sinh nhật thất tuần ông năm 1858, những lời chúc tụng đổ tới ông từ mọi phương và mọi lục địa.

 Nhưng không quá sớm, ông chỉ còn sống hai năm nữa. Vào ngày 21 tháng 9 năm 1860, Schopenhauer ngồi ăn sáng một mình, xem bề ngoài vẫn mạnh. Một giờ sau bà chủ nhà thấy ông vẫn ngồi nguyên chỗ, nhưng đã chết tự bao giờ.

 

III. THẾ  GIỚI  KỂ  NHƯ  BIỂU  TƯỢNG:

Điều làm cho độc giả chú ý ngay khi vừa mở cuốn "Thế giới kể như ý dục và biểu tượng" chính là lời văn. Ở đây không có cái lắc léo kiểu Tàu của thuật ngữ Kant, cũng không có sự bí hiểm của Hegel, cũng không có kỷ hà học của Spinoza; mọi sự đều sáng sủa, trật tự; tất cả đều xoay quanh một cách tuyệt diệu cái trung tâm là quan điểm dẫn đạo về thế giới kể như ý dục, từ ý dục có ra đấu tranh, và từ đấu tranh có ra đau khổ. Thật là thẳng thắn rõ ràng, thật là mạnh mẽ tỉnh táo, thật là trực tiếp không quanh co ! Trong khi những người trước ông trừu tượng đến độ không thể thấy được, lập những lý thuyết mở rất ít cửa sổ minh chứng ra thế giới hiện thực, thì Schopenhauer, đúng như người con trai của một thương gia, rất phong phú về những hình ảnh cụ thể, về tỉ dụ, về sự áp dụng, ngay cả về óc hài hước. Sau Kant, sự hài hước trong triết học quả là một mới mẻ làm ta giật mình.

 Nhưng vì sao cuốn sách lại bị từ chối ? Phần vì nó công kích ngay chính những người có thể lăng-xê nó -những giáo sư đại học-.  Hegel là nhà độc tài triết học của Đức vào năm 1818; tuy thế Schopenhauer không trì hoãn tấn công ông ta. Trong lời tựa in lần hai, Schopenhauer viết:

 "Không thời nào bất lợi cho triết học hơn cái thời mà triết học bị lạm dụng một cách đáng hổ thẹn, một mặt để đưa ra những mục tiêu chính trị, mặt khác để làm phương tiện sinh nhai... Thế không có gì để chống lại châm ngôn: Primum vivere, deinde philosophari (sống trước đã, rồi triết lý sau) hay sao ?  Những ông lớn này muốn sống, và quả vậy, sống nhờ triết học. Họ được bao thầu triết học để nuôi vợ con... Định luật "ăn cây nào rào cây ấy" đã luôn luôn đúng: sự làm tiền bằng triết học được những người xưa xem như đặc điểm của những ngụy luận gia... Chỉ có sự xoàng xĩnh mới được mua chác bằng tiền. Không thể nào một thời đại mà trong hai mươi năm đã tán dương Hegel, một thằng ngợm trí thức, xem như triết gia vĩ đại nhất... lại làm cho người đã chứng kiến cảnh tượng ấy còn muốn được thời đại kia tán dương... Nhưng đúng hơn, chân lý luôn luôn thuộc về một số it người, paucorum hominum , và bởi thế phải lặng lẽ khiêm tốn chờ đợi số ít ấy, những người mà cách thế tư duy khác thường của họ có thể ham thích chân lý kia... Đời người ngắn ngủi, nhưng chân lý có tác dụng xa rộng và trường tồn; ta hãy nói lên chân lý.

Những câu cuối cùng này cao quý thật nhưng tất cả những lời ấy có vẻ gì "nho xanh chẳng xứng miệng người phong lưu". Chưa ai khao khát được ca tụng hơn Schopenhauer . Có lẽ lời kia nghe sẽ cao quý hơn nữa nếu đừng nói xấu gì Hegel cả; de vivis nil nisi bonom - về những người còn sống chúng ta hãy chỉ nói những điều tốt. Còn về sự khiêm tốn chờ đợi được công nhận, thì: "Tôi không thể thấy được ngoài Kant và tôi -Schopenhauer bảo- đã có thêm gì vào cho triết học" (Vol. ii, tr.5) . "Tôi cho tư tưởng theo đó thế giới là ý dục, là tư tưởng người ta đã từ lâu tìm kiếm dưới cái tên "triết học", và bởi thế sự khám phá ra nó được những người quen thuộc với lịch sử xem như hoàn toàn bất khả cũng như sự khám phá ra tảng đá của triết gia". "Tôi chỉ muốn công bố một tư tưởng độc nhất. Tuy nhiên, dù cố gắng hết mức, tôi cũng không thể tìm một cách nào để công bố nó vắn tắt hơn toàn tập sách này... Hãy đọc nó hai lần, và lần thứ nhất cần nhiều kiên nhẫn". Khiêm tốn dữ ! "Khiêm tốn là gì nếu không là sự tự hạ mình một cách giả dối, nhờ đó trong một thế giới căng phồng ganh tị một người cố xin lỗi vì những ưu điểm và giá trị của mình trước những người  không có một ưu điểm giá trị nào" (I, 303). "Dĩ nhiên, khi sự khiêm tốn đã thành ra đức hạnh, thì đấy là một điều rất lợi cho những kẻ ngu; vì khi ấy mọi người sẽ nói về mình như thể mình là một người ngu" (Tiểu luận "Về sự kiêu căng").

Không có sự khiêm cung nào trong câu đầu tác phẩm của Schopenhauer. Nó bắt đầu: "Thế giới là Ý nghĩ của tôi". Khi Fichte đã thốt ra một mệnh đề tương tự, ngay những người Đức rành về siêu hình cũng đã hỏi: "Vợ ông ta nói gì về điểm này ?" Nhưng Schopenhauer không có vợ. Dĩ nhiên, ý ông muốn nói khá giản dị: ông muốn ngay từ đầu, công nhận lập trường Kant cho rằng chúng ta chỉ biết ngoại giới qua cảm giác và ý tưởng của ta. Kế đó, ông trình bày về duy tâm luận khá rõ ràng vững chắc, nhưng đấy là phần ít độc đáo nhất trong sách và đáng nên nằm sau cùng hơn là nằm ở đầu. Thế giới phải mất cả một thời đại mới khám phá được Schopenhauer vì ông đã thò bàn chân tồi nhất ra trước, và dấu tư tưởng riêng của ông sau một hàng rào ngăn gồm hai trăm trang về duy tâm luận cũ rích.

Phần trọng yếu nhất của tiết đầu là một trận đả kích duy vật. Làm sao ta giải thích được tâm và vật khi ta chỉ biết được vật chất qua tâm thức ?

"Nếu đến đây chúng ta đã theo dõi duy vật luận với những ý tưởng minh bạch, khi ta đạt đến điểm tột cùng của nó ta sẽ bất chợt phải cười lớn lên một tràng cười không thể dập tắt. Như thể tỉnh dậy từ một cơn mộng bỗng chốc ta sẽ ý thức được rằng kết quả cuối cùng của duy vật luận tức cái tri thức mà nó đã dày công đạt đến, đã được tiền định như là điều kiện cần thiết cho chính khởi điểm của nó. Chỉ có vật chất, và khi ta tưởng rằng ta tư duy vật chất, kỳ thực chúng ta chỉ tư duy cái chủ thể tri giác vật chất; con mắt nhìn thấy vật, bàn tay sờ mó, sự hiểu biết nó. Như thế khởi điểm tranh biện lộ ra một cách không ngờ; vì bỗng chốc người ta thấy móc xích cuối cùng chính là khởi điểm và dây xích là một vòng tròn, cái duy vật luận trân tráo mà ngay bây giờ, giữa thế kỷ 19, đã được dọn ra dưới cái ảo tưởng ngu si rằng nó mới lạ, ... đã chối bỏ một cách ngu ngốc "sức sống", và trước hết cố giải thích những hiện tượng của đời sống là do những năng lực vật lý và hoá học, và những năng lực này lại do hậu quả máy móc của vật chất ..., nhưng tôi sẽ không bao giờ tin rằng ngay cả sự phối hợp hoá chất đơn sơ nhất có thể chấp nhận lối giải thích máy móc huống nữa là ánh sáng, hơi nóng, điện. Những thứ này sẽ luôn luôn đòi hỏi một lối giải thích năng động".

 Không, không thể nào giải quyết bài toán siêu hình nan giải, không thể khám phá tinh yếu bí mật của thực tại, bằng cách xét vật chất trước, rồi tiếp đến xét tư tưởng. Ta phải bắt đầu bằng cái mà chúng ta biết trực tiếp và thân thiết nhất - chính tự thân. "Ta không bao giờ có thể đạt đến bản chất thực sự của vật từ bên ngoài. Dù truy tầm bao nhiêu nữa, ta cũng không bao giờ đạt được gì ngoài ra những hình ảnh và danh từ. Chúng ta giống như một người đi quanh một lâu đài, tìm kiếm vô vọng một lối vào, và đôi khi phác hoạ ra mặt tiền". Ta hãy đi vào trong; nếu ta có thể phanh phui ra bản chất tối hậu của chính tâm thức mình, thì có lẽ ta sẽ có chìa khoá mở ra ngoại giới.

 

IV.    THẾ  GIỚI:  DỤC  VỌNG

1.Dục vọng muốn sống

             Hầu như không một ngoại lệ nào, tất cả triết gia đều đặt tinh yếu của tâm thức ở tư tưởng và ý thức; người là một con vật tri giác animal rationale. "Lầm lỗi căn để, phổ quát và xưa cũ này, lầm lỗi to tát đầu tiên này... trước hết phải được gạt ra. Ý thức chỉ là bề mặt của tâm thức ta, về tâm thức này, cũng như về quả đất, ta không biết bên trong mà chỉ biết cái vỏ". Dưới trí năng (intellect) hữu thức là dục vọng hữu thức hoặc vô thức, một sức sống nỗ lực dai dẳng, một hoạt động tự nhiên, một ý dục với nỗi khát thèm mãnh liệt. Trí năng thỉnh thoảng dường như có thể điều khiển ý dục nhưng chỉ như một kẻ đưa đường dẫn dắt người chủ; ý dục là người mù khoẻ mạnh mang trên vai người què sáng mắt. Không phải ta muốn một điều gì bởi vì ta đã tìm ra lý lẽ cho điều ấy, trái lại, ta tìm lý lẽ cho nó vì ta muốn nó; chúng ta lại còn thiết lập, khai triển ra những nền triết học và thần học để khoác ra ngoài dục vọng của mình *) [(*) Một nguồn gốc của học thuyết Freud]. Bởi thế Schopenhauer gọi người ta là "con vật siêu hình"; những con vật khác ham muốn không cần siêu hình "không gì làm ta tức bực hơn, khi ta dùng lý luận và giải thích để cãi với một người nào, mất công thuyết phục y, mà cuối cùng ta lại khám phá rằng y nhất định không muốn hiểu, rằng chúng ta đang đương đầu với ý chí của y". Do đó, luận lý thật vô dụng: không ai từng thuyết phục ai được nhờ luận lý; và ngay những nhà luận lý cũng chỉ sử dụng luận lý như một nguồn lợi. Để thuyết phục người nào ta phải lôi cuốn lòng tư lợi của y, dục vọng y, ý chí y. Hãy quan sát chúng ta nhớ những chiến thắng của mình lâu biết bao, và chóng quên làm sao những thất bại; ký ức là kẻ tôi đòi của ý chí (Tiểu luận, 126). Khi tính toán ta thường lầm lẫn có lợi cho mình hơn là hại; và ta làm thế khi tuyệt nhiên không có một ý định bất lương nào cả.  "Trái lại, sự hiểu biết của con người ngu si nhất trở nên bén nhạy khi những sự vật đang bàn có liên quan mật thiết với những ước vọng của y"; nói chung, trí năng được phát triển nhờ hiểm nguy, như nơi con chồn, hoặc do sự thiếu thốn, như nơi người tội lỗi. Nhưng nó dường như luôn luôn phụ thuộc dục vọng và làm khí cụ cho dục vọng; khi trí năng cố truất phế ý chí, thì hỗn loạn sẽ theo sau. Không ai dễ lầm lạc hơn là người chỉ hành động theo suy tưởng. Hãy nhìn   cuộc tranh đấu sôi nổi của người ta về thức ăn, nam nữ, con cái; có thể nào đây là công việc của sự suy tưởng chăng ? Dĩ nhiên không ; nguyên do chính ở cái ý chí muốn sống (nửa vô ý thức), và muốn sống thật trọn vẹn. "Bề ngoài, con người tuồng như có cái gì ở trước thúc đẩy họ đi tới, song kỳ thực họ bị thúc tới từ đàng sau", họ tưởng họ được thúc đẩy tiến tới do những gì họ thấy nhưng thực ra họ bị thúc dục bởi những gì họ cảm thấy -bởi những bản năng mà về sự vận hành của chúng, họ không hoàn toàn ý thức được. Trí năng chỉ là một bộ trưởng ngoại giao; "Thiên nhiên đã sản xuất nó ra và phụng sự cho ý chí cá nhân. Bởi thế nó chỉ dành để biết sự vật trong giới hạn sự vật ấy cung cấp nguyên động lực cho ý chí chứ không phải dành để thăm dò căn nguyên sự vật hay lãnh hội bản thể đích thực của sự vật. "Ý chí là yếu tố duy nhất trường tồn bất biến trong tâm thức; chính ý chí, qua sự liên tục của mục đích, đã đem lại nhất tính cho ý thức và liên kết những ý nghĩ và tư tưởng của ý thức đi theo chúng như một hoà điệu liên tục". Chính ý chí lãnh đạo tư tưởng.

Cá tính nằm trong ý chí, không phải trong trí năng; cá tính cũng là sự liên tục của mục đích và thái độ: và những yết tố này chính là ý chí. Ngôn ngữ thông  thường đã đúng khi nó thích nói "Lòng" hơn là "Đầu" ; nó biết (bởi vì đã không lý luận) rằng một "thiện chí" là sâu sắc và đáng tin cậy hơn một tâm thức sáng suốt; và khi ngôn ngữ thông thường gọi một người là "tinh ranh", "khôn", "láu cá", điều ấy ngụ sự nghi ngờ và ít ưa. "Những tính xuất sắc của tri thức làm cho người ta khâm phục, nhưng chẳng bao giờ làm người ta thương yêu"; và mọi tôn giáo đều hứa hẹn một phần thưởng ... cho những ưu điểm của ý chí hay trái tim, nhưng không phần thưởng nào dành cho những ưu điểm của cái đầu hay tri thức".

Ngay thân xác là sản phẩm của ý chí. Được thúc đẩy tiến tới do cái ý dục mà ta thường gọi mơ hồ là sự sống, máu huyết tự xây dựng lên những mạch cho nó bằng cách tạo thành những rãnh trong cơ thể của bào thai: những rãnh này sâu dần và kín lại đã thành những động mạch và tĩnh mạch. Ý chí muốn hiểu biết xây dựng nên não bộ, hệt như ý chí muốn nắm cầm đã dựng nên bàn tay, hoặc như ý chí muốn ăn đã phát triển bộ phận tiêu hoá. Quả thế, những cặp này - hình thức của ý chí và hình thể của xác thịt - chỉ là hai mặt của tiến trình và một thực tại duy nhất. Mối tương quan được thấy rõ nhất trong sự xúc động, ở đấy cảm thức và những biến chuyển nội thân hợp thành một nhất thể phức tạp*) [*) Phải chăng đây là một nguồn gốc cho thuyết cảm xúc của J. Lange ?].

"Hành vi của ý chí và chuyển động của thân xác không phải là hai chuyện khác nhau được kết hợp lại theo luật nhân quả mà là cùng một chuyện xảy ra theo những cách hoàn toàn khác nhau, tức khắc, rồi bằng tri giác ... Hành động của thân thể chỉ là một hành vi của ý chí được cụ thể hoá. Điều này đúng cho mọi chuyển động của thân xác; ... toàn thể thân xác chỉ là ý chí được cụ thể hoá. Bởi thế, những phần tử của thân thể phải hoàn toàn tương ứng với dục vọng chính yếu qua đó ý chí biểu lộ; chúng phải là biểu hiện của những dục vọng này. Răng, yết hầu, ruột là cơn đói được cụ thể hoá ... Thần kinh hệ là những dây ăng-ten của ý chí , ý chí đã giăng chúng ra bên trong và bên ngoài... cũng như cơ thể con người nói chung tương ứng với ý chí con người nói chung, cơ cấu thể xác cá nhân cũng tương ứng với ý chí đã biến đổi theo cá nhân, nghĩa là tương ứng với cá tính của cá nhân". Trí năng có mỏi mệt nhưng ý chí thì không bao giờ mỏi mệt. Trí năng cần ngủ nhưng ý chí hoạt động ngay cả trong giấc ngủ. Sự mỏi mệt, cũng như đau đớn, có chỗ ở của nó trong não cân; nhưng bắp thịt không liên lạc với não bộ (như quả tim) thì không bao giờ mệt *) [(*) Nhưng há không có cái gọi là sự ngấy chán hay kiệt dục ? Trong sự mệt mỏi hay đau yếu quá độ, thì ngay cả ý chí muốn sống cũng phai tàn.]. Não cân dinh dưỡng bằng giấc ngủ; nhưng ý chí thì không cần thức ăn nào cả. Do đó mà nhu cầu ngủ lớn lao nhất nơi những người làm việc bằng trí óc. Tuy nhiên "không nên vì thế mà ngủ quá độ; vì khi ấy giấc ngủ không còn cần thiết mà chỉ thành ra mất thì giờ" **) [(**)Tiểu luận "Về mối liên lạc giữa chúng ta với chúng ta"].  Trong giấc ngủ, sự sống con người chìm xuống hàng thảo mộc, và khi ấy "ý chí làm việc tuỳ theo bản chất nguyên thuỷ của nó, không bị bên ngoài quấy rầy, không bị giảm năng lực vì hoạt động của não và sự thi thố trí năng, vốn là nhiệm vụ nặng nề nhất ..., bởi thế, trong giấc ngủ toàn thể năng lực ý chí được hướng về việc duy trì và cải thiện cơ thể. Do đó mọi sự lành bệnh, mọi cuộc khủng hoảng cần thiết đều xẩy đến trong giấc ngủ. Burdach có lý khi tuyên bố rằng giấc ngủ là trạng thái tối sơ. Bào thai ngủ hầu như liên miên, hài nhi ngủ phần lớn thì giờ của nó. Đời sống là "một cuộc tranh đấu chống lại giấc ngủ: đầu tiên chúng ta thắng giấc ngủ, cuối cùng giấc ngủ phụ hồi. Giấc ngủ là một mảnh của sự chết được vay mượn để duy trì và đổi mới một phần của sự sống đã bị tiêu hao vào ban ngày". Giấc ngủ là kẻ thù bất diệt của ta; ngay cả khi thức, giấc ngủ cũng chiếm đoạt chúng ta một phần. Chung quy, ta chờ đợi gì được từ nơi những cái đầu mà ngay những cái khôn ngoan nhất cũng là sân khấu cho những giấc mộng quái gở phi lý nhất ban đêm, những cái đầu phải trầm tư trở lại khi thức dậy từ những giấc mộng kia ?".

Thế thì ý chí cũng là tinh thể của con người. Bây giờ, đọc giả nghĩ sao nếu ý chí cũng là tinh thể của sự sống trong mọi hình thức của nó, và ngay cả của vật chất "vô tri" ? Nếu ý chí chính là "vật tự thân" mà ta tìm kiến bấy lâu, mà ta đã từ lâu tuyệt vọng trong sự truy tầm, nếu ý chí chính là thực tại nội tâm tối hậu và tinh thể bí yếu của mọi sự ?

Vậy chúng ta hãy thử giải thích ngoại giới theo tiêu chuẩn của ý chí. Và hãy đi ngay vào căn để; chỗ mà những người khác bảo ý chí là một hình thức của sức mạnh, chúng ta hãy nói rằng sức mạnh chính là một hình thức của ý chí. Trả lời cho câu hỏi của Hume: nhân quả là gì ? Ta sẽ bảo: ý chí. Cũng như ý chí là nguyên nhân phổ quát trong chính chúng ta, trong sự vật nó cũng vậy, và nếu chúng ta không hiểu được nguyên nhân là ý chí như thế thì nhân quả vẫn chỉ là một phù chú thần bí, hoàn toàn vô nghĩa. Nếu không có bí yếu này, chúng ta chỉ đi đến những đặc tính tối nghĩa như "năng lực" hay "dẫn lực" (Gravity) hay "ái lực" (affinity); chúng ta không biết những sức mạnh này là gì, nhưng   chúng ta biết -ít nhất là rõ hơn một chút- ý chí là gì; thế thì hãy nói rằng sự ghê tởm và vẻ quyến rũ, sự phối hợp và phân chiết từ lực, dẫn lực, sự kết tinh (crystalization) chính là ý chí, Goethe đã diễn tả ý tưởng này trong nhan đề một cuốn tiểu thuyết khi ông gọi sự thu hút không thể cưỡng lại của những tình nhân là die Wahlverwandtschaft - sự "thân mật tuyển chọn" [die Wahlverwandtschaft (congeniality -engl.) = "Sự tâm đầu ý hợp; sự tương đắc"; một nghĩa khác trong hoá-học: elective affinity (engl.) ="ái lực của sự tuyển chọn"_  chú thích riêng của người đánh máy!]. Cái mãnh lực thu hút người đang yêu, và mãnh lực thu hút hành tinh chỉ là một.

Trong đời sống thảo mộc cũng thế. Càng đi xuống những hình thức thấp kém của sự sống bao nhiêu, chúng ta càng nhận thấy vai trò của trí năng nhỏ lại bấy nhiêu; nhưng với ý chí thì không thế.

"Cái năng lực trong ta theo đuổi mục đích của nó nhờ tri thức, nhưng ở đây thì chỉ có tiến lên một cách mù quáng câm điếc với cách thế một chiều bất biến, song trong cả hai trường hợp - nó cũng có tên là ý chí ... Vô thức là điều kiện nguyên thuỷ tự nhiên của mọi sự vật, và bởi thế cũng là nền tảng từ đấy, trong những loài chúng sinh đặc biệt, ý thức đã sinh thành như sự triển khai tột độ của loài ấy; và đến lúc ấy vô thức cũng luôn luôn tiếp tục chiếm ưu thế. Do đó phần lớn mọi cuộc tồn sinh đều không có ý thức; tuy nhiên chúng hành động theo những định luật của bản tính chúng, nghĩa là của ý chí chúng. Thảo mộc chỉ có một tương tự rất yếu với ý thức loài động vật thấp nhất chỉ có bóng dáng sơ khai của ý thức. Nhưng ngay cả sau khi ý thức đã lên cao qua quá trình từ động vật cho đến con người với lý trí của nó, vô ý thức của thảo mộc (khởi điểm của ý thức) vẫn còn là căn bản, và ta có thể truy tầm căn bản ấy trong nhu cầu ngủ. Aristote có lý: có một năng lực nội tại un đúc hình thể trong cây cối và hành tinh, trong động vật và người "Bản năng của động vật nói chung cho chúng ta tỷ dụ tốt nhất về cái gì gọi là cùng đích ở trong thiên nhiên. Vì, cũng như bản năng là một hành động tợ như hành động được dẫn dắt bởi quan niệm về một cứu cánh, tuy nhiên lại hoàn toàn không có một cứu cánh nào; cũng thế, mọi sự tạo tác trong thiên nhiên cũng tợ như sự tạo tác được hướng dẫn bởi quan niệm về mục đích, tuy nhiên lại hoàn toàn không mục đích". Sự khéo léo một cách máy móc nhưng tuyệt diệu nơi động vật chứng tỏ ý chí có trước trí năng ra sao. Một con voi đã được đưa đi khắp Âu châu , và đã qua hàng trăm chiếc cầu, sẽ không chịu bước lên một chiếc cầu ọp ẹp, mặc dù nó đã thấy người và ngựa đi qua. Một con chó nhỏ sợ nhảy từ bàn xuống; nó thấy trước kết quả cuộc té ngã không phải nhờ lý luận (và nó không có một kinh nghiệm nào về một vụ té như vậy) mà nhờ bản năng. Những con đười ươi sưởi ấm bên một lò sưởi chúng gặp thấy, nhưng không nuôi ngọn lửa; như vậy rõ ràng những hành vi kia là do bản năng, chứ không phải kết quả của lý luận; chúng là biểu hiện không phải của trí năng mà của ý dục (I, 29).

Ý dục ấy, dĩ nhiên, là dục vọng muốn sống, một ý chí muốn được sống tới mức tối đa. Sự sống quý giá biết bao đối với tất cả mọi loài ! - Và nó chờ đợi cơ hội một cách kiên nhẫn biết bao! "Trong hàng năm, lưu điện  (galvanism) ngủ mê trong đồng đỏ và thiếc, và những kim khí này nằm yên bên cạnh bạc, cả ba thứ sẽ được đốt cháy thành ngọn vừa khi chúng được mang lại nhau dưới những điều kiện cần thiết. Ngay trong lãnh vực của loài hữu cơ, chúng ta cũng thấy một hạt giống khô duy trì sức sống ngủ yên qua 3000 năm và, cuối cùng khi những hoàn cảnh thuận tiện xảy đến, nó sẽ lớn lên thành cây nhỏ", những con cóc sống được tìm thấy trong đá vôi đưa đến kết luận rằng cả đến sự sống động vật cũng có thể ngưng lại qua hàng ngàn năm. Ý chí ấy là một ý chí muốn sống; và kẻ thù bất diệt của nó là sự chết.

Nhưng có lẽ nó có thể đánh bại ngay cả thần chết ?

2. Ý chí muốn sinh sản

Vâng, nó có thể, qua chiến lược và cực hình "tử đạo" của sự sinh sản. Mọi cơ thể bình thường lúc trưởng thành đều vội vã tự hy sinh cho nhiệm vụ sinh sản: từ con nhện đực bị xơi trọn do chính con cái nó vừa mới làm cho sinh sản, hay con tò vò tận tuỵ kiếm thức ăn nuôi đàn con mà nó sẽ không bao giờ hội ngộ, đến con người phải ra thân tàn ma dại trong nỗ lực nuôi ăn, lo mặc và giáo huấn bầy con sinh sản là mục đích tối hậu của mọi cơ thể, bản năng mãnh liệt nhất của nó; vì chỉ có cách ấy ý chí mới có thể chinh phục cái chết . Và để bảo đảm sự đắc thắng này, ý chí sinh sản hầu như hoàn toàn đặt ngoài sự kiểm soát của hiểu biết hay suy tưởng: ngay cả một triết gia đôi khi cũng có con cái đàng hoàng.

Ý dục ở đây tỏ ra biệt lập với tri thức, và hoạt động một cách mù quáng, như trong thiên nhiên vô thức ... Do đó, những cơ quan sinh sản chính là trung tâm của ý dục, và làm thành một cực đối lập với não bộ, vốn là biểu tượng của tri thức... Cơ quan sinh sản  là nguyên lý duy trì sự sống, chúng bảo đảm một đời sống bất tận; "vì lẽ đó chúng được người Hy-lạp thờ phụng trong phallus (nam căn) và người Ấn độ giáo thờ trong lingam (nữ căn)... Hésiode và Parménides đã nói đầy ý nghĩa rằng Eros là người đầu tiên, đấng sáng tạo, là nguyên lý từ đó mọi sự vật tiến tới. Sự tương quan giữa hai giống ... chính thật là trung tâm điểm vô hình của mọi hoạt động và hành vi, nó ló ra khắp nơi mặc dù có đủ loại màn che phủ lên nó. Đấy là nguyên nhân của chiến tranh và cứu cánh của hoà bình; là căn bản của những gì nghiêm trọng và mục tiêu của trò hề; nó là nguồn bất tận của sự chơi chữ, chìa khoá của mọi ẩn dụ và ý nghiã của mọi ám chỉ huyền bí *) [*) Một nguồn gốc của thuyết Freud về "chơi chữ và vô thức"]... Chúng ta thấy nó an vị ở đấy trong mọi lúc, như chúa tể đích thực tập truyền của thế giới, bởi chính sức mạnh tròn đầy của riêng nó, an vị trên chiếc ngai của tiên tổ; và từ đấy nhìn xuống bằng cái nhìn khinh bỉ, nhạo báng trước những trò chuẩn bị để trói buộc nó, cầm tù nó, hay ít nhất cũng hạn chế và che dấu nó càng nhiều càng tốt, và ngay cả chế phục nó để nó chỉ có thể có vẻ là mối bận tâm phụ thuộc, thứ yếu của đời sống. "Siêu hình học về tình yêu" xoay quanh sự phụ thuộc của người cha đối với người mẹ, của cha mẹ đối với con cái, của cá nhân đối với nòi giống. Đầu tiên định luật của sự lôi cuốn nhục thể là sự lựa chọn đôi bạn phần lớn được định đoạt - dù một cách vô thức đến đâu - bởi sự thích ứng với nhau để sinh con đẻ cái.

"Mỗi người tìm một người bạn đường khả dĩ dung hoà được những nhược điểm của mình, sợ chúng di truyền cho con cái;... một người đàn ông có cơ thể yếu sẽ tìm một người đàn bà mạnh khoẻ ... Mỗi người sẽ xem một người khác là đẹp trước hết vì những điểm hoàn hảo của người này y không có, nói đúng hơn, ngay những điểm bất toàn của người này cũng đối lập với những bất toàn của chính y *) [*) một nguồn gốc của thuyết Weininger]... Vì mục đích phục hồi mẫu mực của nòi giống, những đức tính về thể xác của hai cá nhân cốt yếu là làm sao cho người này đặc biệt và hoàn toàn là sự bổ sung hoàn tất cho người kia, và người kia vì vậy cũng chỉ ham muốn người này... Ý thức sâu xa mà ta dùng để xét gẫm mọi phần tử trong cơ thể, ... sự tỉ mỉ phê phán ta có trong khi nhìn một người đàn bà bắt đầu làm ta hài lòng... cá nhân ở đây hành động do mệnh lệnh của một cái gì cao hơn chính mình mà y không biết... Mọi cá nhân càng mất sự quyến rũ đối với phái đối lập khi y càng xa giai đoạn thích nghi nhất cho việc sinh sản hay thụ thai... tuổi trẻ không nhan sắc vẫn luôn luôn còn sự quyến rữ; nhan sắc không tuổi trẻ thì không có sự quyến rũ nào. Trong mọi trường hợp yêu đương ... điều duy nhất được nhắm đến là sự sản sinh rằng một cá nhân có một bản tính nhất định; sự kiện ấy được xác quyết bởi thực tại: điều cốt yếu không phải là sự song phương trong tình yêu mà là sự chiếm hữu.

Tuy vậy, không có sự phối hợp nào bất hạnh bằng những hôn phối do tình yêu - và chính vì lý do rằng mục đích của hôn phối là lưu truyền nòi giống, chứ không phải khoái lạc cá nhân. "Kẻ nào kết hôn vì yêu phải sống trong buồn thảm", một cách ngôn Tây-ban-nha đã nói. Phân nửa văn học về vấn đề hôn nhân trở thành lố bịch vì nó nghĩ về hôn nhân như là một sự kết đôi bạn, thay vì nghĩ về nó như là một cuộc xếp đặt để bảo tồn nòi giống. Thiên nhiên dường như bất chấp những cặp cha mẹ có "hạnh phúc trăm năm" hay chỉ một ngày, bao lâu mục đích sinh sản được làm tròn. Những cuộc hôn nhân do sự thu xếp của phụ huynh đôi bên, thường thường hạnh phúc hơn hôn phối vì tình yêu. Tuy thế, người đàn bà kết hôn vì tình, chống lại lời khuyên của cha mẹ, trong một ý nghĩa, đáng được khâm phục, vì "cô ta đã thích điều quan trọng nhất, và đã hành động theo tinh thần của thiên nhiên (đúng hơn của giống nòi), trong khi cha mẹ cô khuyên bảo theo tinh thần củ

 

Chương 8

Herbert Spencer (1820-1903)

 

I. COMTE    DARWIN

Triết học Kant, nền triết học đã tự xem là "dẫn nhập mọi nền siêu hình học trong tương lai", kỹ thuật đã là một mũi kiếm chết người đâm vào những hình thái suy tư cựu truyền; và trái với ý định, đấy lại là một cú đấm tai hại cho bất cứ nền siêu hình nào. Bởi vì siêu hình, trải qua suốt lịch trình tư tưởng, vốn có nghĩa là một cố gắng khám phá ra bản chất tối hậu của thực tại; bây giờ người ta lại đã nghe người có thẩm quyền khả kính nhất bảo rằng thực tại không bao giờ có thể kinh nghiệm; rằng đấy là một "bản thể" chỉ có thể quan niệm mà không thể tri giác; và ngay cả trí tuệ tinh vi nhất của con người cũng không bao giờ vượt khỏi hiện tượng giới để chọc thủng bức màn của ảo giác. Những tuồng siêu hình lố bịch của Fichte, Hegel và Schelling, với những cách giải khai khác nhau đối với ẩn ngữ cổ điền với "Cái Tôi" và "Ý Tưởng" và "Ý Chí" của họ, đã triệt tiêu lẫn nhau thành số không; mãi đến hơn 30 năm sau thế kỷ 19, mọi người vẫn cho rằng vũ trụ đang còn giữ kín những bí ẩn của nó. Sau một thời đại bị nhiễm độc bằng Tuyệt đối, tâm thức Âu châu phản ứng lại bằng cách thế không chấp nhận bất cứ một loại siêu hình học nào nữa.

             Người Pháp vốn dĩ đã chuyên môn về hoài nghi, nên tự nhiên họ cũng sản xuất ra nhà sáng lập (nếu có những người như thế trong triết học, địa hạt trong đó mọi ý tưởng trở thành thiêng liêng theo năm tháng) của phong trào "thực nghiệm" Auguste Comte, hay, theo tên gọi móc nối do cha mẹ đặt là Isidore Auguste Marie François Xanvier Comte, ra đời tại Montpellier vào năm 1798. Thần tượng của ông hồi thiếu thời là Benjamin Franklin, người mà ông cho là Socrate tái thế. "Các ngài cũng biết rằng vảo tuổi 25, ông ta đã nuôi dự định trở thành hoàn toàn minh triết, và ông đã hoàn thành dự định ông. Tôi cũng đã dám mạo hiểm dự trù như thế, mặc dầu tôi chưa đến 20 tuổi. "Auguste Comte đã bước một bước đầu khả quan bằng cách làm thư ký cho nhà chủ trương xã hội lý tưởng, Saint-Simon, người đã trao truyền cho ông niềm hăng say cải tạo của Turgot và Condorcet, và truyền thụ ý tưởng theo đó những hiện tượng xã hội, giống như hiện tượng vật lý, cũng có thể quy về định luật và khoa học, và mọi nền triết học phải nên đặt trọng tâm vào sự cải thiện nhân loại trên phương diện tinh thần và chính trị. Nhưng cũng như phần đông chúng ta, những người bắt tay vào việc cải cách thế giới, Comte thấy rằng "tề gia" cho xong đã là một việc khá gay go; năm 1827 sau hai năm bất hạnh trong đời sống hôn nhân, ông bị loạn óc và nhảy xuống sông Seine tự trầm. Bởi thế, bây giờ chúng ta mang ơn một phần đối với kẻ đã cứu ông, khi ta đọc các tác phẩm Triết học thực nghiệm xuất hiện giữa 1830 và 1842, và bốn cuốn Chính thể thực nghiệm xuất hiện giữa 1851 và 1854.

Đấy là một công trình mà trong tầm phạm vi cũng như về phương diện bền chí, chỉ đứng sau "Triết học tổng hợp" của Spencer ngày nay. Ở đây những khoa học được xếp hạng tuỳ theo tính cách đơn giản hoá và tổng quát hoá dần dần của chủ đề chúng: toán học, thiên văn, lý học, hoá học, sinh vật học và xã hội học; mỗi khoa học dựa trên những kết quả của tất cả các khoa học trước nó, bởi thế xã hội học là tột đỉnh của các khoa học, và những khoa khác chỉ có lý do tồn tại khi chúng có thể soi sáng cho khoa học về xã hội. Khoa học trong ý nghĩa và sự hiểu biết đích xác, đã bành trướng từ chủ đề này đến chủ đề khác theo trật tự trên; và điều tự nhiên là những hiện tượng phức tạp của đời sống xã hội phải là những hiện tượng cuối cùng nhường chỗ cho phương pháp khoa học. Trong mỗi lãnh vực tư duy, nhà tư tưởng sử có thể tuân theo một "Định luật ba giai đoạn": đầu tiên, vấn đề được quan niệm theo kiểu thần học, và mọi vấn đề đều được giải thích nhờ ý chí của một thần linh nào đó - như thời kỳ xem những ngôi sao là những vị thần hay những cỗ xe của thần linh; về sau, cũng vấn đề ấy đi đến giai đoạn siêu hình học, và được giải thích bằng những tinh tú xoay vòng tròn vì vòng tròn là hình toàn hảo nhất; cuối cùng vấn đề rút giảm về khoa học thực nghiệm bằng quan sát, giả thuyết, thí nghiệm và những hiện tượng được giải thích qua những lề luật của nhân quả tự nhiên. "Ý chí Thượng đế" nhường chỗ cho những tính thể hão huyền như những "Ý tưởng" của Platon hay "Ý tưởng tuyệt đối" của Hegel, và những tính thể này đến lượt chúng lại nhường chỗ cho những định luật khoa học. Siêu hình là một giai đoạn của sự phát triển bị dừng lại: đã đến lúc, theo Comte, nên dẹp bỏ những trò ngây ngô ấy đi. Triết học không phải là một cái gì khác với khoa học; đấy là một sự hợp tác của mọi khoa học nhằm mục đích cải thiện đời sống con người.

Trong thực-nghiệm-luận (positivism, Positivismus) này có một thứ tri thức giáo điều có lẽ phản ảnh tâm hồn triết gia bị vỡ mộng, bị cô lập. Năm 1845, khi bà Clotilde de Vaux (có người chồng suốt đời bị ở tù) đảm đương trái tim của Comte, tình yêu của ông đối với bà đã làm ấm lại và tô màu cho tư tưởng ông, đưa đến một phản ứng theo đó ông đặt cảm tính lên trên trí tuệ trong sức cải tạo, và kết luận rằng thế giới chỉ có thể cứu chuộc bằng một tôn giáo mới, vai trò của tôn giáo này sẽ là nuôi dưỡng và tăng cường lòng vị tha yếu ớt của nhân tính bằng cách tán dương Nhân Loại như là đối tượng của một nghi lễ thờ phụng. Comte đã bỏ suốt tuổi già để tìm cho thứ Tôn giáo Nhân loại này một hệ thống phức tạp có cả giáo sĩ, phép tuyên thệ kinh tụng và quy luật; và đề nghị làm một quyển lịch mới trong đó tên của những thần linh tà giáo và những vị thánh trung cổ sẽ được thay thế bằng những vị anh hùng có công tiến bộ của nhân loại. Như lời tục nói, Comte đã cho thế giới mọi sự của Công giáo chỉ trừ đạo Công giáo.

Phong trào thực-nghiệm tán đồng làn sóng tư tưởng Anh quốc, khởi nguồn từ một đời sống kỹ nghệ và mậu dịch, và nhìn những vấn đề của thực tế với một thái độ hơi kính trọng. Truyền thống Bacon đã xoay chiều tư tưởng hướng về sự vật, tâm hướng về vật; duy-vật-luận (Materialismus) của Hobbes, duy-cảm-luận (Sensualismus) của Locke, hoài-nghi-thuyết (Skeptizismus) của Hume, ích-dụng-thuyết (Utilitarismus) của Bentham, là những biến thiên của đề tài về một cuộc sống thực tiễn bận rộn. Berkeley là một nốt nhạc Ái-nhĩ-lan lỗi điệu trong khúc hoà âm này. Hegel chế riễu thói quen của người Anh - thường kính trọng dụng cụ lý học và hoá học -  với danh từ "những dụng cụ của triết học"; nhưng một danh từ như thế rất tự nhiên đến với những người đồng ý Comte và Spencer khi định nghĩa triết học là một tổng thể những kết quả của mọi khoa học. Bởi thế mà phong trào thực nghiệm gặp nhiều người tán đồng ở Anh hơn ở mảnh đất nó phát sinh; những người tán đồng có lẽ không nồng nhiệt bằng Littré song có một tinh thần kiên cố đặc biệt Anh-cát-lợi đã khiến cho John Stuart Mill (1806 - 1873) và Fréderick Harrison (1831 -1923) trung thành suốt đời với triết học Comte, trong khi tính cẩn thận cũng đặc biệt Anh-cát-lợi của họ đã khiến họ "kính nhi viễn chi" đối với nền tôn giáo nghi lễ trong triết học ấy.

Trong khi đó thì phong trào cách mạng kỹ nghệ, phát xuất từ một chút đỉnh khoa học, trở lại khởi hứng cho khoa học. Newton và Herschel đã mang những vì sao đến Anh quốc, Boyle và Davy đã mở ra những kho tàng của hoá học, Faraday đang nghiên cứu tìm tòi để điện năng hoá cả thế giới, Rumford và Joule đang chứng minh tính chất khả biến và sự tương đương giữa năng lực và sự bảo tồn năng lượng. Các khoa học đang tiến đến một giai đoạn phức tạp có thể khiến cho một thế giới phân vân sẽ vui mừng đón nhận một thể tổng hợp. Nhưng trên tất cả những ảnh hưởng tri thức này - những ảnh hưởng đã khuấy động Anh quốc trong thời niên thiếu của Herbert Spencer - chính là sự phát triển của sinh vật học và thuyết tiến hoá. Khoa học đã trở thành quốc tế một cách gương mẫu trong sự bành trướng chủ thuyết này. Kant đã nói chuyện khỉ có thể trở thành người; Erasmus Darwin và Lamarck đã tuyên dương lý thuyết theo đó các loài đã tiến hoá từ những hình thức đơn giản bằng cách hưởng thụ những hậu quả của sự hữu dụng và vô dụng; vào năm 1830 Saint Hilaire đã khiến cho Âu châu phải choáng váng và ông già Goethe vui mừng, khi ông hầu như thắng Cuvier trong cuộc tranh luận nổi tiếng về tiến hoá như một Ernani  thứ hai (tên một vở Opera của Giuseppe Verdi năm 1844 dựa trên một tác phẩm của V. Hugo - chú thích của người đánh máy-), một cuộc phản kháng mới chống lại những tư tưởng cổ điển về định luật và trật tự bất di dịch trong một thế giới bất dịch.

Vào những năm 1850, thuyết tiến hoá đã manh nha, Spencer diễn tả ý tưởng về tiến hoá, rất lâu trước Darwin, trong một tiểu luận về "Giả thuyết về sự phát triển" (Development Hypothesis, 1852) và trong cuốn Nguyên tắc tâm lý học của ông (1855). Năm 1855 Darwin và Wallace đọc những tiểu luận thời danh của họ trước Hội Linnacan Society năm 1859, thế giới cũ, như những vị giám mục tử tế nghĩ, đã bị đập tan từng mảnh khi tác phẩm Nguồn gốc các loài xuất bản. Ở đây không còn chỉ là quan niệm mơ hồ về tiến hoá, về những loài vật cao đẳng tiến triển từ những loài thấp hơn theo một cách thế nào đó, mà đây là một lý thuyết có đầy đủ tài liệu và chi tiết dồi dào về cách thế và quá trình thực thụ của sự tiến hoá "bằng luật đào thải tự nhiên, hay sự bảo tồn những giống loại được ưu đãi trong cuộc tranh đấu sống còn". Trong suốt mười năm cả thế giới đều nói về tiến hoá. Yếu tố đã nâng Spencer lên đến tột đỉnh của làn sóng tư tưởng này chính là tinh thần sáng sủa khúc triết trong việc đề nghị áp dụng ý tưởng tiến hoá vào mọi ngành nghiên cứu, và tầm trí thức rộng lớn đã khiến cho hầu hết mọi ngành hiểu biết phải tôn trọng lý thuyết ông. Cũng như toán học đã ngự trị vào thế kỷ thứ mười bảy, cống hiến cho nhân loại Descartes, Nobbes, Spinoza, Leibnitz và Pascal, cũng như tâm lý học đã viết triết lý với Berkeley, Hume, Condillac và Kant; vào thế kỷ mười chín cũng thế, với Schelling, Schopenhauer, Spencer, Nietzsche và Bergson, sinh lý học chính là bối cảnh của tư tưởng triết học. Trong mỗi trường hợp, những ý tưởng thuộc từng thời kỳ là sản phẩm phân đoạn của những người riêng rẽ, có phần mơ hồ; nhưng những ý tưởng được gắn liền với những người đã phối hợp và làm sáng tỏ chúng; như Tân thế giới đã lấy tên của Amerigo Vespucci vì ông ta đã vẽ một bản đồ. Herbert Spencer chính là  Vespucci của thời đại Darwin, và một phần nào cũng là Christophe Colomb của thời đại ấy.

 

II. SỰ PHÁT TRIỂN  CỦA SPENCER

Ông sinh ở Derby năm 1820. Về cả hai bên nội ngoại tổ tiên ông là những người ly khai với tôn giáo chính thống. Ông ngoại Spencer là một đồ đệ trung thành của John Wesley; bác ông, Thomas, mặc dù là một linh mục thuộc giáo đường Anh-cát-lợi, đã lãnh đạo một phong trào  theo Wesley ngay trong khuôn khổ giáo đường, không bao giờ dự một buổi hoà nhạc hay kịch nghệ, và đóng vai trò tích cực trong những phong trào yêu sách cải tổ nền chính trị. Khuynh hướng phản động này càng mạnh hơn đến đời thân phụ ông, và đạt đến tột đỉnh nơi Spencer  với một cá nhân chủ nghĩa hầu như ương ngạnh. Thân phụ ông không bao giờ dùng tiếng siêu nhiên để giải thích sự việc gì; một người quen đã mô tả ông ta là một người "không có một đức tin, một tôn giáo nào cả, như chỗ người ta có thể thấy" (Spencer, Tự truyện, N.Y., 1904; vol. 1, tr. 51) (mặc dù điều này Herbert cho là quá đáng). Ông thiên về khoa học và viết một cuốn Hình học phát minh. Về chính trị ông là một người theo chủ nghĩa cá nhân như con trai ông, và "không bao giờ cất nón mũ chào người nào bất luận địa vị cao đến đâu" (tr. 53). "Nếu ông không hiểu một câu hỏi nào của mẹ tôi, ông sẽ im lặng, không hỏi bà hỏi gì, và cứ để mặc không trả lời. Ông cứ tiếp tục kiểu ấy suốt đời, mặc dù nó không đưa đến đâu" (tr. 61). Ngoài tính im lặng ấy người ta còn nhớ đến sự phản kháng của Herbert Spencer, vào những năm ông về già, trước sự bành trướng những vai trò của quốc gia.

Thân phụ ông, cũng như một người chú và tổ phụ của ông, đều là những giáo chức trường tư thục; tuy nhiên người con trai mà sau này sẽ là triết gia Anh nổi tiếng nhất của thế kỷ, lại vẫn bị thất học cho đến năm 40 tuổi. Herbert vốn lười biếng, thân phụ ông thì lại nhu nhược dễ tánh. Cuối cùng, năm ông 13 tuổi, Herbert được gởi đến Hinton để theo học với người chú nổi tiếng là nghiêm khắc. Nhưng Herbert trốn thoát người chú ngay sau đó, và bôn tẩu một mình trở về nhà cha ở Derby - đi 48 dặm Anh ngày đầu, 47 dặm ngày hôm sau, 20 dặm ngày thứ ba, chỉ ăn một ít bánh mì và uống bia. Dù sao sau đó vài tuần, ông cũng trở lại Hinton và ở đấy 3 năm. Đó là khoảng thời gian độc nhất ông được hấp thụ một lối học tập có hệ thống đàng hoàng. Về sau nội một điều ông đã học những gì ở đấy ông cũng không thể nhớ; không có sử ký, vạn vật, văn chương tổng quát. Ông nói với niềm kiêu hãnh điển hình: "Điều cần nhớ là tôi đã không hấp thụ một bài học nào về Anh ngữ, trong thuở ấu thời cũng như thiếu thời, và tôi hoàn toàn không có một kiến thức chỉnh đốn nào về ngữ pháp cho đến bây giờ. Người ta cần biết như vậy, vì những sự kiện này thật tương phản với những giả thuyết mọi người đều chấp nhận". Năm 40 tuổi, ông cố đọc Illias, nhưng "sau khi đọc chừng sáu cuốn, tôi có cảm tưởng thật là một công việc khổ nhọc nếu phải tiếp tục - tôi cảm thấy chẳng thà phải trả một số tiền lớn còn hơn là phải đọc cho đến hết" (tr. 300). Collier, một trong những viên thư ký của Spencer, cho chúng ta biết rằng Spencer không bao giờ đọc hết một cuốn sách nào về khoa học (Phần phụ trương trong cuốn Herbert Spencer của Royce). Ngay cả trong những địa hạt mà ông ưa thích, ông cũng không được hấp thụ một sự học hỏi có hệ thống nào cả. Ông bị phỏng tay và nhân đó tìm ra một vài chất nổ trong hoá học; ông nhai gặm lá non như những côn trùng ở quanh nhà và trường, và biết được một vài điều về hoá thạch và kim khoáng trong công việc của ông về sau khi làm kỹ sư kiều lộ; ông lượm lặt kiến thức của mình dọc đường một cách tình cờ. Cho đến năm 30 tuổi, ông vẫn không có một ý tưởng nào về triết học (Tự truyện, tr.438). Rồi ông đọc Lewes, và cố gắng đọc qua Kant; nhưng khi thấy Kant xem không gian và thời gian là những hình thái của nhận thức giác quan hơn là những sự vật khách quan có thật; ông quyết ngay rằng Kant là một lão ngốc, và ném cuốn sách ra cửa sổ (tr. 289 - 291). Viên thư ký kể lại rằng Spencer đã viết tác phẩm đầu tiên của ông, Social Statics mà không đọc một khảo luận về đạo đức học nào ngoài ra một cuốn sách cũ giờ đã bị bỏ quên là cuốn của Jonathan Dymond". Ông viết cuốn Tâm lý học sau khi chỉ đọc Hume, Mansel và Reid; cuốn Sinh vật học sau khi đọc Sinh lý học tỉ giảo của Carpenter (chứ không phải tác phẩm Nguồn gốc các loài giống); viết cuốn Xã hội học mà không đọc Comte hay Taylor; Đạo đức học mà không đọc Kant hay Mill hay bất cứ nhà đạo đức học nào trừ Sedgwick (Collier, trong Royce, 210). Thật là tương phản với nền học vấn dồi dào say sưa của John Stuart Mill !

 Thế thì Spencer tìm ở đâu ra những sự kiện hằng hà sa số kia để bênh vực cho hàng nghìn luận cứ của ông ? Phần lớn ông "lượm lặt" chúng nhờ quan sát trực tiếp hơn là qua sách vở. "Tính tò mò của ông luôn thức tỉnh, ông luôn luôn làm cho người bạn của ông phải chú ý đến một hiện tượng đặc biết nào đó ... mà cho đến bây giờ chỉ có mắt ông trông thấy". Ở hội Athenaeum ông bơm cạn túi tri thức quảng bá của Huxley và các bạn khác, ông đọc lướt qua những tạp chí ở Hội cũng như đã đọc lướt qua những tạp chí qua tay thân phụ ông để đến hội Triết học ở Derby, "có đôi mắt của con chồn đèn đối với mọi sự kiện mà ông có thể sử dụng" (Ibid.). Sau khi đã quyết định những gì ông muốn làm, và tìm ra quan niệm tiến hoá, ý tưởng nòng cốt cho toàn bộ tác phẩm ông, thì mọi tài liệu liên hệ, và tính ngăn nắp không tiền khoáng hậu của tư tưởng ông xếp loại ngay tài liệu hầu như một cách máy móc khi nó đến. Thảo nào người vô sản và thương gia nghe ông một cách hoan hỉ; đây chính thật là một khối óc như khối óc của họ - một kẻ xa lạ đối với cái học sách vở, không biết gì về "văn hoá" nhưng lại có sẵn một tri thức tự nhiên, thực tế của con người biết học trong khi làm lụng và sống.

 Bởi vì Spencer phải làm việc để sống: và nghề nghiệp ông làm tăng cường khuynh hướng thực tiễn của tư tưởng ông. Ông làm giám thị, cai quản và vẽ kiểu cho những đường hoả xa và cầu cống, nói chung ông là một kỹ sư kiều lộ. Ông phát minh luôn luôn, những cuộc phát minh của ông đều thất bại, nhưng ngoái nhìn lại chúng trong cuốn Tự thuật, ông có niềm thích thú của một người cha đối với đứa con ương ngạnh. Những trang hồi ký của ông nhan nhản những sáng chế hầm chứa muối, chum, độ tắt nến, xe cho người què, và những thứ tương tự. cũng như phần đông chúng ta hồi niên thiếu, ông đã đặt ra những cách ăn kiêng; ông ăn chay một thời gian; nhưng liền bỏ ăn khi thấy một người bạn ăn chay bị thiếu máu, và chính ông cũng mất sức: "Tôi thấy mình phải viết lại những gì đã viết trong thời gian ăn chay, vì chúng thiếu hẳn dũng lực" (Tự thuật). Vào thời kỳ ấy ông sẵn sàng làm thử bất cứ điều gì, ông lại còn nghĩ đến việc di cư sang Tân-tây-lan, quên bẵng rằng một xứ còn trẻ không cần đến triết gia. Một việc làm điển hình của Spencer là ông đã lập thành một bản kê đối chiếu những lý do nên và không nên đi, cho điểm đánh giá một lý do. Tổng kết có 110 điểm nên ở lại Anh quốc và 301 điểm nên đi. Ông đã ở lại !

 Cá tính của ông có những khuyết điềm trong những đức tính. Ông phải trả giá tính thực tế cả quyết và óc thực tiễn bằng sự thiếu tâm hồn nghệ sĩ. Ông có một tính cả quyết rất tốt nhưng mặt trái của nó lại là sự ngoan cố độc đoán; ông có thể càn quét cả vũ trụ để kiếm những bằng chứng cho giả thuyết của mình, nhưng không thể nhìn thấy một cách sâu sắc quan điểm của người khác; ông có tính duy ngã gây phấn khởi cho những kể không theo quy củ, nhưng ông không thể mang sự vĩ đại của mình mà không xen lẫn một ít tự phụ. Ông có những giới hạn của một nhà tiền phong: một sự hẹp hòi giáo điều với một tính hồn nhiên can đảm và tính cách độc đoán mãnh liệt; cương quyết phản đối mọi sự nịnh hót, từ chối những vinh dự mà chính quyền đề nghị tặng cho ông, theo đuổi một công trình khó nhọc trải qua bốn mươi năm trong bệnh hoạn kinh niên và ẩn dật, tuy thế ông vẫn bị một nhà nghiên cứu não tướng học (phrenologe) cho là "quá nhiều tự cao" (tr, 228). Vốn là con và cháu của những nhà giáo, ông cũng múa một con roi gõ đầu trẻ trong sách ông viết, và nện một giọng điệu rât mô phạm thầy đời. "Tôi không bao giờ bối rối", ông bảo chúng ta (tr. 464). Cuộc sống cô quạnh độc thân làm ông thiếu những đức tính nồng nàn của tình người, mặc dù ông có thể nhân đạo trong phẫn nộ. Ông đã từng dây dưa với con người Anh quốc vĩ đại là George Elliot, nhưng bà ấy trí thức quá, không làm ông hài lòng. Ông thiếu óc khôi hài, và không có sự tế nhị trong lời văn. Khi ông đánh thua một ván bi-da, trò chơi ông rất khoái, ông chỉ trích đối thủ của mình đã bỏ quá nhiều thì giờ vào một trò chơi cho đến nỗi trở thành một người chơi giỏi. Trong cuốn Tự thuật ông viết những bài điểm sách về những tác phẩm đầu tiên của chính ông, để chỉ cho ta thấy phải nên viết như thế nào.

 Sự vĩ đại của công việc ông quả đã khiến ông nhìn đời với sự nghiêm trọng quá mức. ỞParis ông viết: "Tôi đi dự lễ St. Cloud hôm chủ nhật, và rất đỗi thích thú trước tính cách trẻ trung của những người lớn. Người nước Pháp không bao giờ chấm dứt hẳn giai đoạn con trai; tôi thấy những người tóc đã hoa râm cưỡi trên những con ngựa gỗ giống như chúng ta có ở những hội chợ ở nhà" (I,533). Ông quá bận phân tích và mô tả cuộc đời đến nỗi không có thì giờ để sống. Sau khi nhìn thác Niagara ông đã nguệch ngoạc vào nhật ký: "Cũng gần như những gì tôi đã chờ đợi". Ông mô tả những sự việc thông thường nhất với vẻ mô phạm thầy đời -như khi ông cho chúng ta biết về  cái lần độc đáo nhất trong đời khiến ông chửi thề (Tyndall đã có lần nói về Spencer rằng ông ta đã khá hơn nếu thỉnh thoảng chịu văng tục một lần - Eliot, H. Spencer, tr. 61). Ông không bị những cuộc khủng hoảng, không thích phiêu lưu lãng mạn (nếu hồi ký của ông nhớ đúng), ông có vướng vào một vài vụ yêu đương, nhưng ông viết về chúng hầu như một cách máy móc; ông phác họa những khúc quanh của những tình bạn nhạt nhẽo trong đời mà không thêm một chút đam mê nào để nâng cao chúng. Một người bạn bảo ông rằng y không thể sáng tác được gì đặc sắc khi đọc cho một người đàn bà trẻ tốc ký; Spencer nói rằng điều đó không trở ngại cho ông chút nào cả. Thư ký của Spencer nói về ông như sau: "Đôi môi mỏng vô dục nói lên sự hoàn toàn thiếu vắng dục tình, và đôi mắt sáng biểu lộ sự thiếu chiều sâu cảm xúc" (Royce, 188). Do đó mà văn ông có tính chất bằng phẳng đều đặn: ông không bao giờ bay bổng khơi vơi, không cần đến những dấu chấm than; giữa một thế kỷ lãng mạn ông đứng riêng rẽ như một bức tượng thể hiện gương mẫu của tư cách và tính dè dặt.

Ông có một bộ óc luận lý phi thường; ông sắp đặt những tiên nghiệm và hậu nghiệm của ông một cách khúc triết, minh bạch như người chơi cờ. Ông là người bình giải sáng sủa nhất về những đề tài phức tạp mà lịch sử có thể nêu lên. Ông viết về những vấn đề khó khăn bằng những từ ngữ sáng sủa đến nỗi suốt một thời, cả thế giới đều thích triết học. Ông nói: "Người ta đã nhận xét rằng tôi có một khả năng trình bày hiếm có - đưa ra những dữ kiện và lý luận cùng kết luận một cách rõ ràng mạch lạc ít thấy" (Tự thuật, tr. 511). Ông thích tổng quát hoá một cách dài dòng, làm cho tác phẩm của ông thú vị nhờ những giả thuyết ông đặt ra hơn là những bằng cớ dẫn giải. Huxley nói rằng Spencer quan niệm bi kịch là khi một lý thuyết bị một sự kiện giết chết; và có quá nhiều lý thuyết trong đầu óc Spencer đến nỗi ông ta buộc lòng phải gặp mỗi ngày một bi kịch. Huxley, ngạc nhiên trước dáng đi yếu đuối không vững của Buckle, đã bảo Spencer "A, tôi thấy  anh chàng thuộc loại người nào rồi, anh ta bị đầu nặng đuôi nhẹ". Spencer thêm "Buckle đã thu vào một số lượng vật chất quá nhiều hơn ông có thể tổ chức". Với Spencer thì trái lại: ông ta tổ chức quá nhiều hơn ông đã thu vào. Cái gì ông ta cũng phối trí và tổng hợp; ông chê bai Carlyle vì thiếu lối làm việc như thế. Nơi ông, tính yêu thích trật tự đã trở thành một đam mê trói buộc, tính quy nạp xuất sắc đã chế ngự ông. Nhưng thế giới đang cần một bộ óc như ông, một khối óc có thể biến đổi những sự kiện trong tình trạng hoang dã trở thành ý nghĩa được khai hoá một cách sáng sủa. Những gì Spencer đã hoàn tất được cho thế hệ ông cũng khiến ông có quyền có những khuyết điểm làm cho ông rất "Người". Nếu ở đây chúng ta đã mô tả hình ảnh ông một cách khá chân thực, ấy chính bởi vì thường chúng ta yêu một vĩ nhân nhiều hơn nếu chúng ta biết rõ những chỗ yếu của họ, và ta không ưa gì một vĩ nhân -còn hơi ngờ vực họ nữa là khác- khi họ quá sáng chói trong sự toàn thiện toàn mỹ không có chỗ chê.

 Năm 40 tuổi, Spencer viết: "Cho đến ngày nay cuộc đời tôi có thể được gọi rất đúng là một cuộc đời tạp lục" (II,67). Hiếm khi ta thấy một triết gia có nhiều do dự rời rạc như thế trong sự nghiệp. "Vào khoảng thời gian này (năm 23 tuổi) tôi xoay sang chú ý đến việc ráp đồng hồ". Nhưng dần dà, ông tìm ra địa hạt ông và cẩn thận chăm bón nó. Vào năm 1842 ông đã viết cho tờ Non-Conformist (hãy để ý môi trường trung gian ông chọn lựa), vài bức thư về "Địa hạt đúng chổ cho chánh quyền" trong ấy chứa đựng mầm móng triết lý tự do mậu dịch của ông sau này. Sáu năm sau ông bỏ ngành kiều lộ để làm chủ bút tờ The Economist. Vào năm 30 tuổi, khi ông mạt sát tập Tiểu luận về những nguyên tắc đạo đức của J. Dymond, và thân phụ ông thách ông viết cho được như thế về đề tài ấy, ông đã nhân sự thách đố và viết cuốn Social Statics. Sách chỉ bán được một ít, nhưng cũng khiến ông được các tạp chí để ý. Năm 1852 tiểu luận của ông về "Lý thuyết về dân cư" (một trong nhiều tỉ dụ về ảnh hưởng của Malthus trên tư tưởng thế kỷ 19) cho rằng sự tranh đấu sống còn đưa đến sự sống sót của con vật thích nghi nhất, và đặt ra những giai đoạn lịch sử ấy. Cũng trong năm đó tiểu luận ông về "Giả thuyết tiến triển" chống lại bác luận thông thường - cho rằng người ta chưa hề thấy những loài mới nào được sinh ra do sự biến đổi dần dần của những loài cũ- bằng cách nêu rõ rằng chính lập luận ấy càng dễ bác bỏ một cách hùng hồn lý thuyết cho rằng Thượng đế sinh ra loài mới do sự "sáng tạo đặc biệt"; bài tiểu luận tiếp tục chứng minh rằng sự phát triển những loài mới không kỳ diệu hay khó tin gì hơn chuyện một con người phát triển từ noãn và tinh trùng, hay cây phát triển từ một hạt giống. Năm 1855, tác phẩm thứ hai của ông "Nguyên tắc tâm lý học", làm cái việc theo dõi tiến hoá của trí óc. Năm 1857, một tiểu luận ra đời nhan đề "Sự tiến bộ: Định luật và nguyên nhân" lấy ý của Von Baer về sự phát triển của mọi hình thể sinh sống từ những khởi thuỷ đồng tính đến những phát triển dị tính, và nâng cao ý ấy lên thành một nguyên tắc chung về lịch sử và tiến bộ. Tóm lại Spencer đã phát triển theo tinh thần của thời đại mình, và bây giờ ông cũng sẵn sàng trở thành triết gia của luật tiến hoá vũ trụ.

 Năm 1858 khi xem lại những bài khảo luận của mình để in thành tập, Spencer lấy làm ngạc nhiên trước sự nhất tính và liên tục của những ý tưởng ông đã diễn đạt, và một ý niệm phát sinh trong trí ông, như một ánh nắng ùa vào cửa mở, ý niệm cho rằng thuyết tiến hoá có thể được áp dụng trong mọi khoa học cũng như trong sinh vật học; rằng không những thuyết ấy có thể giải thích loài, giống mà còn giải thích những hành tinh, địa tầng, lịch sử xã hội và chính trị, những quan niệm đạo đức và thẩm mỹ. Ông vô cùng hăng hái khi nghĩ đến một loạt tác phẩm trong đó ông sẽ chứng minh sự tiến hoá của vật chất và trí óc từ tinh vân cho đến con người, và từ người sơ khai cho đến Shakespeare. Nhưng ông gần như tuyệt vọng khi nghĩ đến cái tuổi xấp xỉ tứ tuần của mình. Làm sao một con người già cả như thế, lại bệnh hoạn có thể băng qua mọi lãnh vực của kiến thức nhân loại trước khi chết ? Chỉ ba năm trước đấy, ông đã bị một chuyến suy sụm hoàn toàn; trong mười tám tháng dài ông đã trở thành bất lực, tâm trí lụn bại, mất hết can đảm, đi lang thang không mục đích và vô vọng từ chỗ này qua chỗ khác. Ý thức về những năng lực tiềm tàng của mình lại làm cho sự yếu bệnh của ông trở thành một điều chua chát. Ông biết ông sẽ không bao giờ trở lại hoàn toàn mạnh khoẻ, và biết ông không thể làm việc tinh thần quá một tiếng đồng hồ. Chưa ai từng bị bất lợi như thế cho công việc mình đã chọn, cũng chưa ai từng chọn một công việc quá lớn lao như thế vào một lúc quá muộn trong đời.

 Ông nghèo túng. Ông không để ý đến việc kiếm sống. "Tôi không muốn làm ăn, -ông nói- tôi không nghĩ chuyện làm ăn là đáng bận tâm" (J.A. Thomson, H. Spencer, p. 71). Ông từ chức chủ bút tờ Economist khi nhận được khoảng nửa triệu đồng di sản của một ông chú để lại; nhưng sự ngồi không của ông đã tiêu hết món tiền di tặng ấy. Bây giờ ông chợt nghĩ ra rằng ông có thể kiếm ra được tiền trả trước cho những cuốn sách ông định viết, rồi cứ thế mà sống qua ngày. Ông soạn một bản đại cương rồi đưa cho Huxley, Lewes và những người bạn khác xem; những người này kiếm được cho ông một danh sách "rân rác" (?) những người đặt mua đầu tiên mà tên họ có thể tô điểm tờ quảng cáo sách ông : Kingsney, Lyell, Hooker, Tyndall, Buckle, Froude, Bain, Herschel ... In năm 1860, tờ quảng cáo này mang lại 440 phiếu đặt mua từ Âu châu, 200 từ Mỹ; tổng cộng hứa hẹn được khoảng 300 ngàn đồng mỗi năm. Spencer hài lòng, và khởi sự làm việc với ý chí hăng hái.

 Nhưng sau khi ấn hành quyển Nguyên lý đầu tiên năm 1862, nhiều người đặt mua rút tên ra vì cái "Phần thứ nhất" thời danh đã làm mếch lòng các giám mục và học giả vì nó cố hoà giải khoa học và tôn giáo. Con đường của người hoà giải vốn khó khăn. Cuốn  Nguyên lý đầu tiên và Nguồn gốc giống loài trở thành trung tâm của một chiến trận lớn của sách vở, trong trận tuyến này Huxley làm vị tổng tư lệnh cho những lực lượng của thuyết Darwin và bất khả tri luận. Trong một thời gian, những tông đồ của thuyết tiến hoá bị những người đáng kính tẩy chay một cách nghiêm khắc; họ bị tố là những con quỷ vô luân, và người ta nghĩ nên nhục mạ họ một cách công khai. Mỗi kỳ trả tiền, khách hàng của Spencer thưa thớt dần như lá mùa thu, và nhiều người lại không trả tiền cho những kỳ sách họ nhận được. Spencer cố gắng tiếp tục, bỏ tiền túi bù vào chỗ tiền thiếu mỗi kỳ. Nhưng cuối cùng túi tiền và túi nghị lực của ông kiệt quệ, ông cho ra một bố cáo gửi cho những khách còn đặt cọc nói rằng ông không thể tiếp tục công việc được nữa.

 Khi ấy xảy đến một trong những biến có đầy khích lệ của lịch sử. Kẻ đối thủ lớn nhất của Spencer -người đã nắm giữ địa hạt triết học Anh quốc trước khi cuốn Nguyên lý đầu tiên xuất bản, giờ bỗng thấy mình bị ra rìa, bị thay thế bởi vị triết gia của tiến hoá -, đã viết cho Spencer như sau, vào ngày 4 tháng 2 năm 1866.

 Thưa tôn ông,

Khi đến đây tuần trước, tôi có gặp số tháng 12 của cuốn Sinh vật học của tôn ông, và thật khỏi phải nói tôi hối tiếc đến mức nào khi đọc lời bố cáo trong mảnh giấy đính kèm ... Tôi xin đề nghị tôn ông nên tiếp tục viết thêm khảo luận ấy, và tôi sẽ bảo đảm với người xuất bản trường hợp họ lỗ vốn. Tôi xin tôn ông đừng xem lời đề nghị này là vì lòng yêu chuộng riêng tư, mặc dù nếu thật có trường hợp ấy, tôi cũng hy vọng được tôn ông cho phép cống hiến lời đề nghị trên. Nhưng đây tuyệt nhiên không phải thế - đây chỉ đơn thuần là một lời đề nghị xin hợp tác trong một mục đích chung tối quan trọng, trong một công trình mà tôn ông đang cống hiến cho nó tất cả lao nhọc và đã bỏ vào đấy sức khoẻ của tôn ông.

Rất chân thành,

J.St. Mill (Tự thuật, ii, 156)

Spencer đã lịch sự chối từ, nhưng Mill đã đi đến các bạn thuyết phục người đặt mua 250 ấn bản mỗi kỳ. Spencer vẫn từ chối, không thể bị lay chuyển. Nhưng bỗng ông nhận được bức thư của giáo sư Youmans nói rằng những người Mỹ hâm mộ ông đã mua để tên ông 7.000 Mỹ kim chứng khoán, lợi tức hoặc phần chia của nó sẽ thuộc về ông. Lần này thì ông nhượng bộ. Tinh thần của tặng vật ấy gây lại một cảm hứng cho ông; ông trở lại công việc, và trong bốn mươi năm ông làm việc hết sức bình sinh, cho đến khi tất cả nền Triết học Tổng hợp được ấn loát hoàn bị. Sự chiến thắng của tâm thức và ý chí này đối với bệnh hoạn và muôn nghìn chướng ngại vật quả là một điểm sáng rỡ trong lịch sử loài người.

 

III. NGUYÊN    ĐẦU

 1. Cái bất khả tri

 Spencer nói ngay từ đầu: "Quá thường khi chúng ta quên rằng không những có một linh hồn của cái thiện trong những sự việc xấu xa, mà nói chung còn có một linh hồn của chân lý trong những điều lầm lạc". Bởi thế, ông đề nghị xét những ý tưởng tôn giáo, với mục đích tìm ra trọng tâm của chân lý, trọng tâm mà, dưới hình thức biến thiên của nhiều tín ngưỡng, đã đem lại cho tôn giáo cái quyền năng bền bỉ đối với linh hồn con người.

 Điều ông tìm thấy ngay là: mọi lý thuyết về nguồn gốc vũ trụ đều đưa chúng ta đến những cái không thể quan niệm được. Nhà vô thần cố nghĩ đến một thế giới tự hữu, không nguyên nhân, không có bắt đầu, nhưng ta không thể quan niệm được một cái gì không có khởi thuỷ hoặc không có nguyên nhân. Nhà thần học chỉ đẩy lui sự khó khăn có một bước; và khi nhà thần học nói "Thượng đế tạo ra vũ trụ" thì câu hỏi không thể trả lời đã đứa trẻ sẽ đến kế đó: "Ai tạo ra Thượng đế ? ". Mọi ý tưởng tối hậu của tôn giáo đều không thể quan niệm được trên phương diện luận lý.

 Mọi ý tưởng tối hậu của khoa học cũng vượt ngoài quan niệm thuần lý. Vật chất là gì ? Chúng ta quy nó về nguyên tử, nhưng rồi ta tự thấy bắt buộc phải chia nguyên tử ra như chúng ta đã chia tế bào; chúng ta bị vướng vào thế lưỡng nan là: vật chất có thể phân tán đến vô hạn cho sự phân chẻ vật chất, nhưng điều này lại cũng không thể quan niệm. Tính cách khả phân của không gian và thời gian cũng thế; cả hai xét cho cùng, đều là những ý niệm phi lý. Chuyển động bị bao phủ bởi ba màn tối, vì nó gồm vật thể thay đổi theo thời gian vị trí của nó trong không gian. Khi chúng ta phân tích vật chất một cách rốt ráo, cuối cùng chúng ta không tìm thấy gì ngoài ra năng lực - một thứ năng lực in dấu vết lên các giác quan ta, hay một thứ năng lực đối kháng lại những quan năng hoạt động của chúng ta ; và ai sẽ giải thích cho ta năng lực là gì ? Từ vật lý chuyển sang tâm lý, ta sẽ gặp tâm não và ý thức: ở đây những bí ẩn lại còn to lớn hơn trước. Vậy thì, "những ý niệm khoa học tối hậu đều là những hình ảnh của thực tại không thể lĩnh hội được ... Trong mọi chiều hướng, những sưu tầm của nhà khoa học đưa ông đến đối diện với một bí ẩn không thể giải. Ông ta nhận ngay ra sự vĩ đại và sự nhỏ bé của tri thức con người - khả năng của nó đối với mọi sự vật trong tầm kinh nghiệm, sự bất lực của nó đối với những gì siêu việt kinh nghiệm. Hơn ai hết, nhà khoa học thật sự biết rằng ta không thể biết được cái gì hết trong bản chất tối hậu của nó (Nguyên lý đầu tiên , NY, 1910, tr. 56). Nền triết học thành thực độc nhất, để dùng từ ngữ của Huxley chính là thuyết bất-khả-tri.

 Nguyên nhân chung cho mọi màn tối này là tính cách tương đối của mọi hiểu biết. "Vì suy tưởng là đặt tương quan, nên không ý tưởng nào có thể diễn tả được gì ngoài ra những mối tương quan... Tri thức đã bị đóng khung bởi và cho cuộc đối thoại với hiện tượng nên nó chỉ làm ta rơi vào những cái vô nghĩa nếu ta cố sử dụng nó để tìm hiểu bất cứ gì ngoài hiện tượng giới" (tr. 107 - 108. Điểm này vô tình tương đồng với Kant và báo trước học thuyết Bergson). Tuy nhiên cái tương đối và hiện tượng, ngay ở cái tên gọi và bản chất của chúng, đã bao hàm một cái gì vượt ngoài chúng, một cái gì tối hậu và tuyệt đối. "Khi quan sát tư tưởng chúng ta, ta thấy thật không có thể nào xua đuổi cái ý thức về một Thực hữu nằm sau Giả tướng và từ chỗ bất khả ấy kết quả là ta có một niềm tin kiên cố vào cái Thực hữu kia" (tr. 83). Song cái thực hữu ấy là gì chúng ta không thể biết.

 Từ quan điểm này, sự hoà giải khoa học và tôn giáo không còn quá khó. "Chân lý thường nằm trong sự phối trí những quan niệm đối nghịch" (Tự thuật, tr. 16). Khoa học hãy nhận rằng những "định luật" của nó chỉ áp dụng cho hiện tượng giới và cái tương đối; tôn giáo hãy nhận rằng thần học của nó là một huyền thoại hợp lý hoá dành cho một đức tin bất khả tư nghị. Nhưng xin tôn giáo thôi đừng phác hoạ Tuyệt đối như một con người phóng đại; tệ hơn nữa, như một con quỷ, tàn ác, khát máu bội phản, buồn khổ vì "tính yêu chuộng sự nịnh hót, một tính xấu vốn bị khinh bỉ nếu nó hiện diện nơi một con người" (Nguyên lý đầu tiên, 103). Xin khoa học thôi phủ nhận thần tính, hay xem duy vật luận là chân lý chắc chắn đương nhiên. Tâm và vật đều là những hiện tượng tương đối y như nhau, đều là hai hậu quả của một nguyên nhân tối hậu mà bản chất của nó ta đành phải không biết được. Sự công nhận Quyền năng Khôn dò này là trọng tâm chân lý trong mọi tôn giáo và là khởi thuỷ của mọi nền triết học.

 

2. Tiến hoá

 Sau khi chỉ rõ cái bất khả tri, triết học đầu hàng cái bất khả tri ấy và xoay về những gì có thể biết được. Siêu hình học là một ảo ảnh: nói như Michelet, đấy là "nghệ thuật đánh thuốc mê một cách có phương pháp". Lãnh vực và nhiệm vụ đúng mức thích hợp cho triết học nằn trong việc tóm lược và hợp nhất những kết quả của khoa học, "kiến thức loại thấp nhất là kiến thức không được thống nhất, khoa học là kiến thức được thống nhất một phần; triết học là kiến thức hoàn toàn được thống nhất". Một việc thống nhất toàn bộ như thế, đòi hỏi nguyên tắc phổ quát và rộng rãi có thể bao gồm hết mọi kinh nghiệm, và mô tả những nét tính yếu của mọi kiến thức. Có chăng một nguyên tắc thuộc loại ấy ?

 Có lẽ chúng ta có thể tiến đến gần một nguyên tắc như thế bằng cách nỗ lực hợp  nhất những quy nạp cao nhất của lý học. Đó là: tính cách bất khả hoại của vật chất, sự bảo tồn năng lượng, sự liên tục chuyển động, sự bền bỉ của những tương quan giữa những năng lực (nghĩa là tính bất khả xâm phạm của định luật tự nhiên), tính khả biến và tương đương giữa những năng lực (ngay cả giữa những năng lực tâm lý và vật lý), và nhịp của chuyển động. Sự quy nạp cuối cùng này -không phải thường được công nhận- chỉ cần được nêu rõ. Toàn thể thiên nhiên đều có tiết nhịp, từ nhịp chập chờn của hơi nóng đến nhịp rung của dây vĩ cầm, từ những gợn sóng của ánh sáng, hơi nóng và âm thanh đến thuỷ triều của biển, từ những cơn dao động của nhục dục đến những dao động định kỳ của những hành tinh, sao chổi và tinh tú; từ sự tuần hoàn của ngày đêm đến sự nối tiếp của bốn mùa, và có lẽ đến những nhịp điệu của sự thay đổi khí hậu; từ những rung động của tế bào đến cuộc thăng trầm của các quốc gia và sinh diệt của những vì sao.

 Tất cà những "định luật về cái khả tri" này đều có thể quy về (qua một phân tích không cần theo dõi ở đây) định luật tối hậu là sự kiên cố bền bỉ của năng lực. Nhưng trong nguyên tắc này có một cái gì tĩnh và trơ lỳ; nó không ám chỉ được bí mật của sự sống. Cái gì là nguyên lý động về thực tại ? Đâu là công thức về sự tăng trưởng và hoại diệt của mọi sự vật ? Đấy phải là một công thức của sự tiến hoá và tan rã, bởi vì "một lịch sử toàn vẹn của bất cứ sự vật gì đều phải bao gồm sự xuất hiện của nó từ chỗ vô hình cũng như sự tan biến của nó vào chỗ vô hình" (tr.253).

 Thế là Spencer cho chúng ta công thức tiến hoá thời danh của ông, một công thức đã khiến cho giới trí thức Âu châu phải kinh ngạc đến ngộp thở, và đã phải cần đến bốn mươi năm và mười pho sách để giải thích. "Tiến hoá là một phối hợp của vật chất và một sự phân tán đồng lúc của chuyển động; trong quá trình ấy vật chất di chuyển từ một khối đồng tính bất định, rời rạc đến một khối dị tính nhất định, chặt chẽ, và trong quá trình ấy chuyển động trải qua một cuộc biến đổi song hành (tr.367). Điều này có nghĩa gì ?

 Sự phát xuất của những hành tinh từ tinh vân; sự thành hình của đại dương và núi trên mặt đất, sự phát triển của trái tim trong bào thai, và sự dính liền của xương cốt sau khi sinh; sự phối hợp cảm giác và ký ức thành tri thức và tư tưởng, sự phối hợp của tri thức thành khoa học và triết học; sự phát triển từ gia đình thành bộ tộc, đô thị quốc gia, liên minh và "liên bang thế giới"; đây là sự phối hợp của vật chất, "sự nhóm tụ những phần tử rời rạc thành ra khối nhóm và toàn bộ. Một sự phối hợp như thế dĩ nhiên bao gồm sự giảm thiểu" chuyển động trong những phần tử, như quyền lực gia tăng của quốc gia sẽ làm giảm bớt tự do của cá nhân,  nhưng đồng thời nó cũng đem lại cho những phần tử một sự hỗ tương phụ thuộc, một màn lưới bảo vệ của tương giao, điều này làm nên sự "chặt chẽ" và nâng đỡ sự sống còn của đoàn thể. Quá trình này còn đem lại một tính cách nhất định về hình thể và nhiệm vụ : khối tinh vân thì không có hình thù, u ám; song từ đó sinh ra hình thể đều đặn bầu dục của những hành tinh, những đường nét rõ rệt của những rặng núi, hình thể và tính chất đặc thù của những cơ thể và cơ quan, sự phân công và chuyên môn hoá của nhiệm vụ trong các cơ cấu sinh lý học và chính trị v.v.  Và những phần tử của toàn bộ tổng hợp này trở thành không những chỉ có tính cách xác định hơn mà lại còn đổi khác về bản chất và vận hành. Khối tinh vân sơ khai thì đồng tính, nghĩa là nó gồm những phần tử giống hệt nhau; nhưng nó liền được phân biệt thành chất hơi, chất lỏng và chất đặc; mặt đất trở thành nơi thì xanh um cỏ dại, chỗ lại trắng phau đỉnh núi hay lục biếc đại dương; sự sống tiến hoá từ một nguyên sinh chất tương đối đồng tính đến những cơ quan khác nhau của sự dinh dưỡng, sinh sản, vận động, tri giác; từ một ngôn ngữ đơn thuần, sinh ra những thổ ngữ thiên hình vạn trạng lan đầy các vùng đất; từ một khoa học duy nhất sinh sản trăm khoa, nền văn chương bình dân của một quốc gia triển khai thành muôn ngàn hình thái văn nghệ; trăm hoa đua sắc, cá tính nổi bật độc đáo, và mỗi nòi giống, mỗi dân tộc phát triển thiên tài kỳ đặc của mình. Sự phối hợp và dị tính, sự nhóm tụ những phần tử vào những toàn bộ mãi mãi rộng lớn hơn, sự phân biệt những phần tử thành những hình thái mãi mãi đổi khác thêm: đấy là những trọng tâm của quỹ đạo tiến hoá. Bất cứ cái gì đi từ sự khuếch tán đến sự phối hợp, từ một đơn thể đồng tính đến một phức thể sai biệt (Mỹ châu, 1600 - 1900), đều ở trong dòng triều lên của tiến hoá; bất cứ gì đang từ phối hợp trở về phân tán, từ phức thể trở về đơn thể (Âu châu từ năm 200 - 600), đều rơi vào trong dòng nước ròng của tán hoại.

 Chưa thoả mãn với công thức tổng hợp này, Spencer nỗ lực chứng minh làm thế nào nó là kết quả tất yếu của sự vận hành tự nhiên những năng lực cơ giới. Trước hết, có một tính chất có thể gọi là "Tính bất ổn định của thể đồng tính": nghĩa là, những phần tử giống nhau không thể giống nhau lâu dài bởi vì chúng phải chịu không đồng đều những sức mạnh ngoại giới; chẳng hạn những phần ở bên ngoài bị tấn công trước hết, như những thành phố miền duyên hải vào thời chiến; những công việc khác nhau uốn nắn những con người giống nhau thành vô số hiện thân của hàng trăm nghề nghiệp và tài khéo - lại nữa, có một sự "Tăng bội những hậu quả": một nguyên nhân có thể phát sinh ra rất nhiều hậu quả khác nhau, và trợ lực làm cho thế giới thành ngàn sai muôn khác, một lời nói nhầm, như lời của Marie Antoinette, hay một bức điện tín bị sửa đổi ở Ems, hay một cơn gió ở Salamis, có thể đóng một vai trò bất tận trong lịch sử. Rồi còn có định luật về "Sự tách riêng" (segregation): những phần tử của một toàn khối tương đối đồng tính, bị tách rời nhau để đi vào những lãnh vực khác nhau, sẽ do hoàn cảnh sai khác mà biến thành những sản phẩm bất đồng, -như người Anh trở thành người Mỹ, hay Gia nã đại hoặc Úc, tuỳ theo đặc tính của nơi chốn-. Trong vô số cách thức ấy, những năng lực của thiên nhiên tạo nên muôn hồng nghìn tía của thế giới trong đà tiến hoá này.

 Nhưng cuối cùng và không thể tránh được, phải đến sự "làm thăng bằng". Mọi chuyển động vì là chuyển động dưới kháng lực, nên sớm muộn cũng phải đến chỗ dừng; mọi dao động theo tiết nhịp (nếu không được thêm sức từ bên ngoài) đều phải chịu ít nhiều mất mát về tốc độ và biên độ chấn động. Những hành tinh đang hoặc sẽ quay qua một quỹ đạo nhỏ hơn trước, mặt trời sẽ ít nóng hơn và ít sáng hơn theo nhịp thế kỷ đi qua; sự cọ sát của thuỷ triều sẽ làm chậm vòng quay của quả đất. Trái địa cầu này, đang rung động và thì thào với hàng triệu chuyển động nẩy nở xum xuê thành hàng triệu hình thái sinh hoá xô bồ, một ngày kia sẽ xê dịch chậm hơn trong quỹ đạo và trong những phần tử của nó; máu sẽ chảy lạnh hơn, chậm hơn trong những tĩnh mạch già cỗi của chúng ta, chúng ta sẽ không còn vội vàng nữa; như những dân tộc đang chết, chúng ta sẽ nghĩ đến thiên đường bằng hình ảnh của sự an nghỉ chứ không phải hình ảnh của sự sống; chúng ta sẽ mơ về Niết bàn. Dần dần, rồi rất nhanh, sự thăng bằng sẽ trở thành sự tán hoại, kết thúc bất hạnh của tiến hoá. Những xã hội sẽ phân hoá, dân chúng sẽ di cư, đô thị sẽ phai tàn thành nội địa đen tối của đời sống nhà quê; sẽ không còn chính thể nào mạnh đủ để kết hợp những phần tử lỏng lẻo vào với nhau; ngay cả việc nhớ đến trật tự xã hội người ta cũng sẽ không còn nhớ. Và trong cá nhân cũng vậy, sự hợp nhất sẽ nhường chỗ cho sự tan rã; và sự phối hợp -tức là sự sống- sẽ bước qua giai đoạn vô trật tự phân tán tức là cái chết. Trái đất sẽ là một sân khấu hỗn độn của sự tan rã, một tấn tuồng thê lương của nghị lực trên đường thoái hoá không thể xoay chiều; và chính nó, trái đất, cũng sẽ tan thành cát bụi và tinh vân từ đấy nó đã đến.Chu kỳ sẽ bắt đầu trở lại, và trở lại liên miên bất tận; nhưng luôn luôn đây sẽ là kết thúc. Thông điệp nhắc nhở cái chết được viết trên mặt đời sống; và mỗi sự sơ sanh là một tiền đề cho tán hoại và chết chóc.

Nguyên lý đầu tiên là một vở kịch vĩ đại được kể với vẻ bình thản cổ điển, câu chuyện về sự thăng và trầm, tiến hoá và hoại diệt của những hành tinh của cuộc đời, của con người, Nhưng đấy là một vở kịch bi thiết, hậu ngôn thích hợp nhất cho nó là lời của Hamlet: "Còn lại chỉ là im lặng". Có gì đáng ngạc nhiên không khi những người đàn ông đàn bà sống bằng tin tưởng và hy vọng, đã phản đối kịch liệt lối tóm lược này về cuộc đời ? Chúng ta biết rằng ta phải chết; nhưng vì đấy là một vấn đề sẽ tự giải quyết lấy nó, nên chúng ta thích nghĩ về sự sống hơn. Ở Spencer có một cảm thức gần giống của Schopenhauer về tính cách bất tất của nỗ lực con người. Vào đoạn cuối sự nghiệp lẫy lừng của ông, ông đã diễn đạt cảm tưởng của mình rằng cuộc đời không đáng sống. Ông có căn bệnh của triết gia là thấy quá xa ở đàng trước đến nỗi mọi hình dáng sắc màu mỹ miều của cuộc sống lướt qua duới mắt ông mà ông không trông thấy.

 Ông biết rằng người ta sẽ không thích thưởng thức một thứ triết lý mà thr />Chương 9: FRIEDRich nietzche

 

Chương 9

FRIEDRICH NIETZSCHE (1844 - 1900)

 

I. DÒNG  DÕI

Nietzsche là con đẻ của Darwin và (là) anh em của Bismarck.

Nietzsche nhạo báng những người Anh chủ trương thuyết Tiến hoá và những người Đức theo chủ nghĩa quốc gia, song điều này không quan trọng; ông có thói quen tố cáo những người đã ảnh hưởng tới mình nhiều nhất; đó là cách ông che đậy -một cách vô thức- những món nợ của mình.

Triết học đạo đức của Spencer không phải là hệ luận tự nhiên nhất của thuyết tiến hoá. Nếu đời sống là một cuộc tranh đấu để sống sót, thì sức mạnh khi ấy sẽ là tối hậu, và sự yếu kém là lỗi lầm duy nhất. Tốt là cái gì sống sót, ưu thắng; xấu là cái gì đầu hàng, thất bại. Chỉ có những người Anh theo thuyết Darwin vào thời đại Victoria, những người Pháp trưởng giả theo thuyết duy nghiệm và những người Đức theo xã hội chủ nghĩa mới có thể che dấu tính cách tất yếu của kết luận này. Những người ấy khá can đảm để chối bỏ thần học Ki-tô giáo, nhưng họ không dám tỏ ra hợp luận lý, không dám phủ nhận những ý tưởng đạo đức, sự tôn sùng tính hoà nhã lịch sự và vị tha, những yếu tố đã thoát thai từ nền thần học ấy. Họ không còn là những người theo giáo đường Anh cát lợi, hay theo Công giáo La Mã, hay theo thánh Luther; nhưng họ không dám thôi làm những người Ki-tô giáo - Friedrich Nietzsche đã lý luận như thế.

"Yếu tố kích thích những nhà tư tưởng tự do Pháp từ Voltaire cho đến Auguste Comte là không theo đuôi lý tưởng Ki-tô giáo, ... mà phải vượt hơn nó nếu có thể. Comte, với lý tưởng "Sống cho kẻ khác", đã có tính cách Ki-tô hơn cả chính Ki-tô giáo. Ở Đức quốc, Schopenhauer và ở Anh, John Stuart Mill, đã đem lại tiếng tăm lừng lẫy nhất cho lý thuyết về thiện cảm, về lòng trắc ẩn, và về sự lợi tha kể như nguyên tắc hành động ... Tất cả những hệ thống thuộc xã hội chủ nghĩa đã vô tình tự an vị trên một nền tảng chung đã kể" *) [(*) trích dẫn trong Faguet: On Reading Nietzsche, NY, 1918, tr. 71].

Vô tình Darwin đã hoàn tất công việc của những nhà làm Bách khoa tự điển: họ đã dẹp bỏ nên tảng thần học của đạo đức tân tiến, nhưng vẫn để nguyên vẹn nền đạo đức ấy không động tới.

Những người sáng suốt sẽ nhận thấy ngay những gì mà những bộ óc sâu sắc nhất của mọi thời đại đã biết: ấy là, trong trận đấu ta gọi là cuộc sống này, cái gì ta cần không phải là sự tốt lành mà sức mạnh, không phải tính khiêm cung mà niềm kiêu hãnh, không phải lòng vị tha mà trí thông minh cả quyết; bình đẳng và dân chủ là phản lại luật đào thải và sống còn; không phải là quần chúng mà chính thiên tài  mới là cùng đích của tiến hoá; không phải "công bằng" mà chính quyền lực mới là trọng tài của mọi cuộc phân tranh và mọi số phận - Friedrich Nietzsche nghĩ thế.

Nếu tất cả điều trên là đúng, thì không gì hùng vĩ, đầy ý nghĩa hơn Bismarck. Đây là một con người đã hiểu biết những thực tại cuộc đời, người đã nói toạc rằng "không có lòng cao thượng vị tha giữa các quốc gia", rằng những vấn đề hiện nay phải được định đoạt không phải bằng đầu phiếu và tài hùng biện, mà bằng máu và sắt. Bismarck quả là một cơn lốc tẩy uế cho một Âu châu đã thối rữa vì những ảo tưởng dân chủ và những "lý tưởng" ! Chỉ trong vài tháng ngắn ngủi, ông đã khiến toàn thể nước Áo suy tàn phải nhận quyền lãnh đạo của ông; chỉ trong vài tháng ngắn ngủi ông đã triệt hạ một nước Pháp say sưa với huyền thoại Napoléon; và trong những tháng năm ngắn ngủi ấy ông đã đồng lúc bắt buộc tất cả những "tiểu quốc" của nước Đức , tất cả những vị vua chuyên chế, những lãnh chúa, những quyền lực nho nhỏ kia phải tan hoà vào trong một đế quốc hùng mạnh, biểu tượng chính cống của nền đạo đức mới về sức mạnh. Hùng lực kỹ nghệ và quân sự đang lên của nước Đức mới này cần một tiếng nói; chiến tranh cần một nền triết học làm trọng tài để biện minh cho nó. Ki-tô giáo sẽ không làm việc ấy, nhưng thuyết tiến hoá có thể làm. Chỉ cần một ít can đảm để hoàn tất công việc.

Nietzsche đã có cái can đảm ấy và trở thành tiếng nói của thời đại.

 

II TUỔI  TRẺ

Tuy nhiên, cha Nietzsche là một mục sư: một dọc dài những giáo sĩ nối tiếp sau mỗi người họ hàng bà con của ông; và chính ông thuỷ chung vẫn là một nhà thuyết giáo. Ông đả kích Ki-tô giáo bởi vì trong ông, có quá nhiều dấu vết của tinh thần đạo đức Kitô: triết học của ông là một nỗ lực để tạo thế quân bình và sửa đổi -bằng lối nghịch ngôn mạnh mẽ- một khuynh hướng ngả về sự dịu dàng, từ tâm và hoà bình. Éo le thay cho ông, những người lương thiện ở Genoa lại gọi Nietzsche là Il Santo - vị thánh. Thân mẫu ông là một vị phu nhân ngoan đạo rất sùng Thanh giáo, cùng thuộc loại người như những người đã nuôi dưỡng Immanuel Kant và Nietzsche cho đến cùng, vẫn là một người "ngoan đạo". Thanh giáo, tinh khiết như pho tượng: bởi đó mà ông đả kích Thanh giáo và sự sùng đạo. Vị thánh khó hư hỏng ấy, khốn nỗi lại khao khát vô cùng được biến thành kẻ phạm tội !

Nietzsche sinh ở Rocken, nước Phổ, vào ngày 15 tháng 10 năm 1844 - tình cờ cũng là ngày sinh của vị vua Phổ đang cai trị, Friedrich Wilhelm IV. Thân phụ Nietzsche, người đã làm gia sư cho nhiều người trong hoàng tộc, rất vui mừng trước sự trùng hợp ấy, và đặt tên cậu bé theo tên vua. "Dù sao cũng có một lợi điểm trong việc tôi đã chọn ngày ấy để ra đời; suốt thời thơ ấu, sinh nhật tôi đã là một  ngày vui công cộng".

Cái chết sớm của thân phụ đã để Nietzsche lại làm nạn nhân cho những người đàn bà thánh đức của gia đình; những người này nâng niu yêu dấu cậu đến nỗi khiến cậu bé Nietzsche có một tính nhạy cảm và tế nhị gần như đàn bà. Cậu không thích những đứa bé hư hỏng ở láng giềng, những đứa đi phá tổ chim, phá hoại các vườn hoa, chơi trò lính tráng và nói dối. Những bạn học gọi cậu là "mục sư tí hon" và một đứa trong bọn tả cậu là "một đức Chúa Giê-su trong nhà thờ". Cậu ưa thích cô quạnh một mình để học thánh kinh, hay đọc cho kẻ khác nghe với một giọng thật cảm động để làm cho họ phải rưng mắt lệ. Nhưng trong cậu, có ẩn một niềm kiêu hãnh và tính khắc kỷ mạnh mẽ: khi những bạn học hoài nghi chuyện về Mutius Scaevola, cậu đã đốt cháy một hộp diêm trong lòng bàn tay và để nó nằm đấy cho đến khi những que diêm cháy hết. Đấy là một mẫu chuyện điển hình: suốt đời Nietzsche sẽ luôn luôn tìm kiếm những phương thế vật lý và tâm thức để tự tôi luyện cho mình một hùng tính được lý tưởng hoá. "Cái gì không phải bản tính của tôi, cái đó đối với tôi chính là Thượng đế và đức hạnh" *) [(*) The Birth of Tragedy, dẫn nhập, tr. xvii].

Vào năm 18 tuổi, Nietzsche mất niềm tin tưởng vào Thượng đế mà ông cha chàng đã tôn thờ, và suốt quãng đời còn lại của chàng được dành cho việc đi tìm một thần-tính mới. Chàng nghĩ chàng đã tìm ra trong Siêu-nhân. Về sau Nietzsche bảo rằng chàng đã thay đổi một cách dễ dàng; nhưng Nietzsche vốn có thói quen tự đánh lừa, và vốn là một người viết tự truyện không đáng tin cậy lắm. Chàng trở thành cay cú, như một kẻ đã đặt cược hết cả tài sản vào một cú đen đỏ và đã thua. Tôn giáo đã là cốt tuỷ chính yếu của đời chàng; bây giờ đời chàng dường như rỗng không, vô nghĩa. Chàng đột ngột đi vào một giai đoạn phóng đãng xác thịt cùng với những bạn cùng trường ở Bonn và Leipzig, và lại thắng lướt được tính "làm bộ" đã khiến chàng khó đạt những nghệ thuật của nam giới như thuốc lá và rượu. Nhưng chẳng bao lâu, rượu, đàn bà và thuốc lá làm chàng ngấy chán; chàng phản kháng lại trong một cơn khinh bỉ tràn trề đối với toàn thể sự ái mộ rượu bia (Biergemuetlichkeit) của xứ sở và thời đại mình, những người uống bia và phì phào ống điều không thể nào có được tri giác minh mẫn hoặc ý tưởng sâu sắc.

Chính vào khoảng này, vào năm 1865, Nietzsche khám phá tác phẩm Thế giới: ý dục và biểu tượng của Schopenhauer, và bắt gặp trong đó "Một tấm gương trong ấy tôi dòm thấy thế gian, cuộc đời và chính bản tính của tôi được trình bày với một vẻ hùng tráng kinh hồn", chàng đem cuốn sách về nhà và hăm hở đọc từng chữ một. "Dường như thể Schopenhauer đang nói riêng cùng tôi. Tôi cảm thấy nguồn phấn khởi của ông và tưởng như thấy ông trước mắt. Mỗi hàng chữ đều kêu gào thúc dục sự khước từ, chối bỏ, cam chịu". Màu đen tối của triết học Schopenhauer in ấn tượng vĩnh viễn trên tư tưởng Nietzsche: không những chỉ khi chàng là một môn đồ trung thành của "Schopenhauer nhà giáo dục" (nhan đề một trong những bài tiểu luận của Nietzsche), mà ngay cả khi chàng bắt đầu tố cáo Bi-quan chủ nghĩa, xem như một hình thức của đồi truỵ, chàng tự căn để vẫn là một người bất hạnh, một người mà thần kinh hệ dường như đã được cẩn thận sắp đặt để dành cho khổ đau, người mà sự tán dương bi kịch -xem như nguồn hoan lạc của cuộc sống- cũng chỉ là một hình thức tự dối khác. Chỉ có Spinoza hoặc Goethe mới cứu được chàng khỏi Schopenhauer ; nhưng dù chàng thuyết giáo về đức bình an (aequanimitas) và thuận mệnh (amor fati), chàng không bao giờ thực hành chúng, đức an tịnh trong sáng của hiền nhân và niềm bình lặng của tâm thức quân bình không bao giờ có ở trong chàng.

Vào năm 23 tuổi, Nietzsche bị gọi nhập ngũ. Đáng lẽ chàng được miễn dịch vì cận thị và vì là con của một goá phụ, nhưng quân đội đã gọi chàng. Tuy nhiên, một tai nạn té ngựa đã làm vẹo xương sườn chàng đến nỗi viên đội đi mộ binh buộc lòng phải thả miếng mồi của y. Nietzsche không bao giờ hoàn toàn bình phục sau đó. Kinh nghiệm nhà binh của chàng quá ngắn ngủi đến nỗi chàng rời khỏi quân ngũ mang theo với hầu hết bao nhiêu ảo tưởng về lính như khi chàng mới vào; cuộc sống cam go "kiểu Sparte" với sự ra lệnh và tuân lệnh, với sự dãi dầu chịu đựng và kỷ luật khắt khe đã cám dỗ trí tưởng tượng chàng, bấy giờ khi chàng đã thoát khỏi bổn phận phải tự mình thực hiện ý tưởng ấy; chàng đâm ra tôn thờ quân nhân chỉ vì sức khoẻ chàng không cho phép chàng trở nên một người lính.

Từ nếp sống quân ngũ chàng nhảy qua lãnh vực tuyệt đối tương phản với nó: nếp sống hàn lâm của một nhà ngữ học: thay vì trở thành một chiến sĩ, chàng đã trở thành một tiến sĩ. Năm 25 tuổi, chàng được chỉ định chức giáo sư ngữ học cổ điển ở đại học Basel (Basle), từ khoảng cách an toàn này chàng có thể ngưỡng mộ Bismarck. Chàng hối tiếc lạ lùng vì đã chọn lựa cái công việc ngồi lỳ một chỗ và không anh hùng tí nào này: một mặt chàng ao ước giá mình đã chọn một nghề thực tiễn và linh hoạt, như y học chẳng hạn; đồng thời chàng lại tự thấy mình có thiên tư về âm nhạc. Chàng đã trở thành gần như một nhà chơi dương cầm, và đã viết những khúc cầm- nhạc (sonata); "đời sẽ là một lỗi lầm nếu không có âm nhạc", chàng bảo.

Gần Basel là thành phố Tribschen, nơi nhà danh nhạc khổng lồ, Richard Wagner đang sống với vợ một người khác. Năm 1869 Nietzsche được mời đến ở chơi Giáng sinh tại đấy. Chàng là người nồng nhiệt tán dương âm nhạc cho ngày mai, và Wagner không chê những "lính mới" có thể đem lại cho mình một ít hơi hướng của uy danh thuộc giới học giả và đại học. Dưới bùa lực của nhà soạn nhạc vĩ đại này, Nietzsche bắt đầu viết tác phẩm đầu tiên của chàng, tác phẩm sẽ mở đầu với kịch nghệ Hy Lạp và kết thúc bằng Der Ring des Nibelungen*) [(*)Chiếc nhẫn (của vương quốc) Nibelungen -  Tác phẩm opera vĩ đại của Richard Wagner dựa trên Anh hùng ca thần thoại Đức về kho tàng châu báu của vương quốc Nibelungen ở khu vực sông Rhein (Rhin), gồm bốn vở: 1. Das Rheingold, 2. die Wallküre, 3. Siegfried và 4. Goetterdaemmerung- chú thích của người đánh máy-], thuyết giáo về Wagner  cho cả thế giới, xem như một Achille tân thời. Chàng lên tận vùng núi Alpen để được an ổn viết, xa hẳn đám đông ồn ào; ở đấy, vào năm 1870, chàng được tin Đức và Pháp lâm chiến.

Chàng ngần ngại, tinh thần của Hy Lạp và hết thảy những thi thần của thơ, kịch, triết và nhạc đã đưa những bàn tay dâng hiến ra mời mọc chàng. Nhưng chàng không thể chống lại tiếng gọi của xứ sở; đây cũng là thơ chứ ! "Ở đây, chàng viết, ta có quốc gia với nguồn gốc đáng hỗ thẹn; đối với phần đông người, đó là một cái giếng sâu đầy đau khổ không bao giờ khô cạn, một ngọn lửa thiêu huỷ họ trong những cơn khủng hoảng triền miên. Tuy thế mà khi nó cất tiếng gọi, linh hồn ta đâm ra quên bẵng mình; trước tiếng gọi đẫm máu của nó, quần chúng được thúc giục phải dũng cảm và được nâng lên hàng anh hùng"*) [(*) Trong Halevy, Life of F.Nietzsche ,London, 1911, tr. 106]. Ở Frankfurt, trên đường ra trận tuyến, chàng thấy một đội kị binh diễn hành với vẻ huyên náo và hùng tráng đi qua thành phố; ngay tức thì và tại chỗ, chàng bảo chàng có một tri giác, một linh kiến mà từ đó toàn thể nền triết học của chàng sẽ trưởng thành. "Lần đầu tiên tôi cảm thấy rằng ý chí muốn sống mãnh liệt nhất và cao độ nhất không phải biểu thị trong một cuộc vật lộn thảm hại để sống còn, mà trong một ý chí muốn Chiến tranh, một ý chí muốn Quyền lực, một ý chí muốn khắc phục [Trong Forster, The Young Nietzsche , London, 1912, tr. 235]. Vì thị giác kém chàng không được làm lính một cách tích cực, mà đành phải y tá điều dưỡng; và mặc dù mục kích khá nhiều cảnh tượng khủng khiếp, chàng không bao giờ biết được sự tàn bạo đích thực của chiến trường mà tâm hồn nhút nhát của chàng về sau  sẽ lý tưởng hoá bằng tất cả cường độ tưởng tượng của kẻ thiếu kinh nghiệm. Ngay cả trong việc nuôi bệnh, chàng cũng quá nhạy cảm; cảnh máu me làm cho chàng nhuốm bệnh; chàng ngất xỉu và được đưa về nhà hoàn toàn kiệt quệ. Mãi từ đấy về sau chàng có những sợi thần kinh của một Shelley và bao tử của một Carlyle; tâm hồn của một thiếu nữ dưới lớp áo của một quân nhân.

 

III.  NIETZSCHE    WAGNER

 Vào đầu năm 1872 Nietzsche ấn hành tác phẩm đầu tiên, tác phẩm duy nhất được hoàn thành của chàng - Sự thoát thai của Bi kịch từ tinh thần Âm nhạc (= Bi kịch)- Chưa có một nhà ngữ học nào từng ăn nói trữ tình như thế. Chàng nói về hai vị thần mà nghệ thuật Hy Lạp tôn thờ: trước tiên là Dionysus (hay Bacchus), vị thần của rượu và cuộc vui chơi, của cuộc đời đi lên, của niềm vui trong hành động, của cảm xúc và hứng cảm xuất thần, của bản năng và phiêu lưu và sức khổ đau dũng cảm, vị thần của ca nhạc, vũ và kịch; rồi về sau là Apollon, vị thần của thanh bình, nhàn hạ, nghỉ ngơi, của cảm xúc nghệ thuật, của mặc niệm tri thức, của trật tự hợp lý và niềm bình an triết học, vị thần của hội hoạ điêu khắc và anh hùng ca. Nghệ thuật Hy Lạp cao quý là một hoà điệu của hai lý tưởng, - sức mạnh nam tính lăng xăng của Dionysus và vẻ đẹp nữ tính yên lặng của Apollon.  Trong kịch nghệ, Dionysus khởi hứng cho ca khúc và Apollon cho lời đối thoại; ca khúc phát xuất trực tiếp từ đám diễn hành của những môn đồ Dionysus: lời đối thoại là ý nghĩa đến sau, một phần hỗ trợ phản ánh của một kinh nghiệm cảm xúc.

 Đặc điểm thâm thuý nhất trong kịch nghệ Hy Lạp là sự chinh phục bằng nghệ thuật của Dionysus đối với bi quan chủ nghĩa. Những người Hy Lạp vốn không phải là những người vui vẻ lạc quan chúng ta bắt gặp trong những bài vè sử nói về họ ngày nay; họ tri giác rất thâm thiết những mũi châm chích của cuộc đời, và tính cách ngắn ngủi bi thảm của nó. Khi Midas hỏi Silenus số phận nào là tốt nhất cho con người, Silenus trả lời: "Hỡi nòi giống đáng thương chỉ sống có một ngày kia ơi, hỡi những đứa con của tai nạn và buồn sầu, sao ngươi lại buộc ta phải nói những gì mà tốt hơn đừng nên nghe tới ? Số phận tốt nhất không thể có được: ấy là đừng sinh ra đời, không là cái gì cả. Thứ đến là chết thật sớm". Rõ ràng những người này không cần phải thụ giáo với Schopenhauer, hay với những người Ấn giáo. Nhưng những người Hy Lạp đã thắng lướt được màu u ám của sự vỡ mộng bằng ánh rực rỡ của nghệ thuật: từ nơi khổ đau của chính họ, họ đã làm nên bối cảnh cho kịch nghệ và khám phá rằng "cuộc tồn sinh và thế giới có vẻ hữu lý chỉ vì đấy là một hiện tượng nghệ thuật" (Bi kịch, 50, 183), một đối tượng cho sự thưởng ngoạn hay cho việc tái tạo thẩm mỹ. "Những gì tuyệt vời chính là nghệ thuật đã chế phục được cái khủng khiếp" (Bi Kịch, 60). Bi quan là dấu hiệu của suy tàn, lạc quan là biểu trưng của tâm hồn nông cạn, nhưng "lạc quan bi tráng" chính là tư thái của con người hùng mạnh đi tìm nồng độ và chiều rộng sâu của kinh nghiệm cho dù phải chịu muôn sầu nghìn thảm, tư thái của con người hân hoan nhận chân rằng xung đột chính là định luật của cuộc sống. "Bi kịch chính nó là bằng chứng cho sự kiện rằng những người Hy Lạp không phải bi quan. "Những ngày mà tư thái này đã đẻ ra kịch nghệ Achille và triết học tiền-Socrate là những ngày vĩ đại phi thường của Hy Lạp" (Thư Wagner - Nietzsche, NY, 1921, tr. 167). Socrate -"mẫu người lý thuyết" (Bi kịch, 114) là một biểu hiệu cho khí chất lỏng lẻo của cá tính Hy Lạp; "khả năng cường tráng kiểu Marathon xưa cũ của thân xác và tâm hồn dần dà bị hy sinh cho một tuệ giác khả nghi, hàm ẩn sự suy đồi dần dần của những năng lực thể chất và tâm linh" (tr. 102). Triết học phê phán đã thay chỗ cho thi ca triết lý của thời tiền-Socrate; khoa học thay chỗ cho nghệ thuật; trí năng thay thế trực giác; biện chứng thay thế những trò chơi. Dưới ảnh hưởng Socrate, Platon nhà lực sĩ trở thành một nhà thẩm mỹ, Platon nhà làm kịch trở thành một nhà luận lý, một kẻ thù của lòng say mê, một người trục xuất các thi sĩ, một người Ki-tô giáo tiền-Ki-tô, một nhà chủ trương nhận thức luận. Trên đền thờ Apollon ở Delphes, những châm ngôn của trí khôn vô dục được khắc lên - "Gnothi seauton" và "medem agan" ("tự biết mình" và "trung đạo")- những châm ngôn đã trở thành, nơi Socrate và Platon, cái ảo tưởng cho rằng trí tuệ là đức hạnh duy nhất, và nơi Aristote cái chủ thuyết trung đạo nhu nhược. Trong thời còn trẻ trung, một dân tộc sản sinh huyền thoại và thi ca; vào thời suy tàn, nó sản sinh triết học và luận lý. Vào giai đoạn trẻ trung của nó, Hy Lạp sản xuất Homère và Achille, khi tàn tạ nó cho chúng ta Euripides -nhà luận lý bị biến thành kịch gia, nhà duy lý phá hoại huyền thoại và biểu tượng, nhà duy cảm phá hoại niềm lạc quan bi tráng của thời đại hùng tính, người bạn của Socrate, người đã thay thế ca khúc Dionysus bằng đám người của Apollon, những nhà biện chứng và diễn giả.

 Thảo nào lời tiên tri của Apollon ở đền Delphe đã gọi Socrate là người thánh-trí thứ nhất của dân Hy Lạp, Euripides thánh trí thứ nhì sau Socrate; và thảo nào "bản năng không lầm lẫn của Aristophanes .. đã thù ghét cả Socrate lẫn Euripides... và thấy nơi họ những triệu chứng của một nền văn hoá suy tàn" (Bi kịch, 182). Dĩ nhiên họ đã phản tỉnh; dĩ nhiên vở kịch cuối cùng của Euripides -The Bacchoe-  chính là sự quy hàng của ông trước Dionysus, là bài giáo đầu báo hiệu việc tự sát của ông; và dĩ nhiên Socrate ở trong tù đã khởi sự tập tành âm nhạc của Dionysus để trấn tỉnh lương tâm. "Có lẽ -ông ta phải tự hỏi- có lẽ cái gì tôi không hiểu được phải chăng không vì thế mà phi lý ? Biết đâu lại không có một lãnh vực của tri giác, ở đó nhà luận lý bị gạt ra ? Biết đâu nghệ thuật lại không chính là một cái gì nhất thiết quan hệ đến tri thức và bổ sung cho tri thức ?". Nhưng đã quá muộn màng; công trình của nhà luận lý và nhà duy lý không thể phá huỷ; kịch Hy Lạp và cá tính Hy Lạp đã suy tàn. "Một điều lạ đã xảy đến là : khi nhà thơ và nhà triết phản tỉnh, thì nội cái khuynh hướng phản tỉnh của họ đã chiến thắng" (tr. 95). Cùng với họ chấm dứt thời đại những anh hùng, và nghệ thuật của Dionysus. Nhưng phải chăng thời đại Dionysus có thể trở về ? Há Kant đã không phá huỷ một lần dứt khoát tất cả lý trí lý thuyết và con người lý thuyết ? - Schopenhauer há đã không dạy trở lại cho chúng ta cái sâu sắc của bản năng và bi kịch của tư tưởng ? - và há Richard Wagner một Archilles thứ hai lại không hiện đang khôi phục những linh thoại và biểu tượng, và trở lại phối hợp nhạc và kịch trong một niềm say sưa kiểu Dionysus ? "Từ nơi gốc rễ Dionysus của tinh thần dân Đức, một năng lực đã sinh khởi, một năng lực không có gì chung cùng với những điều kiện sơ khai của văn hoá Socrate, ... - nghĩa là nền âm nhạc Đức quốc ... trong quỹ đạo rộng lớn từ Bach đến Beethoven, từ Beethoven tới Wagner" (Bi kịch, 150). Tinh thần Đức quốc từ quá lâu đã phản ảnh một cách thụ động nghệ thuật kiểu Apollon, của Ý và Pháp; dân tộc Đức hãy nhận chân rằng những bản năng của riêng họ vốn khoẻ mạnh hơn những nền văn hoá suy đồi kia; họ hãy làm một cuộc canh tân về âm nhạc cũng như về tôn giáo, trút cái hùng khí man dại của Luther vào lại trong nghệ thuật và trong cuộc đời. Biết đâu từ nơi những thống khổ chiến tranh mà Đức quốc phải chịu đựng, lại không lộ xuất một thế hệ anh hùng mới và từ nơi tinh thần âm nhạc, bi kịch biết đâu không tái sinh ra đời ?

 Năm 1872 Nietzsche trở về Basel, thể xác còn yếu đau nhưng tinh thần bùng cháy tham vọng, và không muốn bị tiêu mòn trong công việc giảng dạy mệt nhọc. "Tôi có trước mắt công việc đủ để làm trong năm mươi năm, và phải canh chừng thời gian một cách nghiêm nhặt" (Trong Halévy, 169). Bây giờ Nietzsche đã hơi thất vọng về chiến tranh. Chàng viết:" Đế quốc Đức quả đang tuyệt diệt tinh thần Đức". Chiến thắng 1871 đã đem lại một ít tự phụ thô lỗ trong linh hồn Đức quốc và không có gì thù nghịch với sự trưởng thành tâm linh hơn thế. Một tính chất quỉ ma trong Nietzsche khiến chàng hung hăng trước mọi thần tượng, và chàng quyết định đả kích vẻ tự mãn đáng chán này bằng cách công kích người đại diện được tôn kính  nhất của nó - David Strauss. "Tôi bước vào xã hội với trận đấu kiếm tay đôi: Stendahl đã cho tôi lời khuyên ấy" (Ibid).

 Trong ý tưởng thứ hai của những Ý tưởng lỗi mùa - cái tên khéo đặt - "Schopenhauer nhà giáo dục", Nietzsche quay mũi súng về những đại học đường có tinh thần ái quốc quá trớn. "Kinh nghiệm dạy chúng ta rằng không gì chướng ngại cho sự phát triển những triết gia lớn cho bằng thói tục nâng đỡ những triết gia tồi trong các đại học quốc gia, không quốc gia nào sẽ dám bảo trợ những người như Platon và Schopenhauer ... Quốc gia luôn luôn sợ những người như thế" (Schopenhauer nhà giáo dục, đoạn 8). Chàng trở lại sự công kích trong "Tương lai những cơ sở giáo dục của chúng ta" và trong "Sử dụng và lạm dụng sử học", chàng nhạo báng sự ngụp lặn của giới trí thức Đức quốc vào trong nền học vấn khảo cổ chi li. Trong những bài tiểu luận này, ta đã thấy biểu lộ hai trong những ý tưởng đặc sắc của Nietzsche: ấy là đạo đức, cũng như thần học, phải được tái lập theo tiêu chuẩn và thuyết tiến hoá ; và nhiệm vụ của đời sống là đem lại "không phải sự cải thiện số đông quần chúng mà xét riêng từng người, là những kẻ vô giá trị nhất", mà chính là "sự tạo dựng thiên tài", sự phát triển và nuôi nấng những nhân cách cao cả (Ibid, đoạn 6).

 Bài tiểu luận hăng hái nhất trong số này là bài "Richard Wagner ở Bayreuth", hoan hô Wagner như một Siegfried, "người chưa từng biết ý nghĩa của sợ hãi" (Ý tưởng lỗi mùa, i, 117) , và như nhà sáng lập nền nghệ thuật chân chính duy nhất, bởi vì ông là người đầu tiên đã hoà hợp tất cả các nghệ thuật vào trong một tổng thể vĩ đại. Bài tiểu luận còn kêu gọi Đức quốc phải nhận chân ý nghĩa hùng vĩ của cuộc lễ lạc Wagner sắp đến - "Bayreuth với chúng ta có ý nghĩa là phép bí tích ban mai vào ngày lâm chiến" (Ibid., 104). Đấy là tiếng nói của lòng tôn sùng nơi tuổi trẻ, tiếng nói của một linh hồn tế nhị gần như đàn bà đã thấy nơi Wagner một vẻ cương nghị dũng cảm đầy hùng tính, những gì về sau sẽ thai nghén nên Siêu nhân. Nhưng người tôn sùng đồng thời cũng là một triết gia nên chàng thoáng thấy nơi Wagner một tính vị kỷ độc tài gây thương tổn cho một tâm hồn quý tộc. Chàng không thể chịu được sự việc Wagner công kích người Pháp vào năm 1871, và lấy làm kinh ngạc trước sự ganh tị của Wagner đối với Brahms (Thư Wagner - Nietzsche, tr. 223). Đề tài trọng tâm của bài tiểu luận tán dương này đã không báo điềm tốt gì cho Wagner : "Thế giới đã bị đông phương hoá từ lâu rồi; bây giờ mọi người đang khao khát được Hy Lạp hoá". Nhưng Nietzsche cũng đã thừa biết Wagner có nửa dòng máu Do thái.

 Và năm 1876, chính lễ Bayreuth đã đến, với nhạc kịch Wagner đêm dài nối đêm, với những bà mê say Wagner, những hoàng đế, hoàng tử, vương hầu, những người  cự phú nhàn hạ lùa gạt ra ngoài bọn ái mộ túi rỗng. Bỗng nhiên Nietzsche chợt thấy Wagner thật giống Geyer *) [(*) một kịch sĩ Do thái, mà Nietzsche nghi là cha ruột của Wagner. Ludwig Geyer cưới mẹ Wagner sau khi cha chàng mất (lúc ấy chàng mới ra đời được 6 tháng)], tác phẩm  The Ring of the Nibelungs thật đã nhờ biết bao đến những tác dụng sân khấu đầy dẫy trong đó, và đến độ nào những khúcMelos không có trong âm nhạc đã vào trong kịch nghệ. "Tôi đã thấy những hình ảnh một kịch bản tràn đầy hoà tấu, một hình thức thoát thai từ khúc hát. Nhưng tiếng gọi xa lạ của nhạc kịch đã khăng khăng lôi cuốn Wagner về hướng khác" (Thư Wagner-Nietzsche, tr. 279). Nietzsche không thể đi theo hướng đó, chàng ghét kịch và nhạc kịch. "Hoạ là điên, tôi mới ở lại đây", chàng viết. "Tôi khủng khiếp chờ đợi từng đêm trình diễn nhạc dai dẳng ấy ... Tôi không thể chịu đựng được nữa" (Trong Halévy, tr. 191).

 Bởi thế chàng chuồn thẳng, không một lời với Wagner và giữa lúc Wagner đang ở tột đỉnh quang vinh, trong khi mọi người đang tôn thờ;  chuồn thẳng, "chán ngấy trước tất cả những gì có tính cách đàn bà và vẻ vô kỷ luật trong cái lãng mạn ấy, trong sự lừa dối ấy, trong sự làm yếu mềm lương tâm người, những gì đã chinh phục được một trong những linh hồn dũng cảm nhất ở đây". Sau đó, ở miền Sorento xa xôi, chàng lại chạm mặt với chính Wagner, đến nghỉ ngơi sau trận chiến thắng của mình, trí hoài thai một bản nhạc kịch mới - Parsifal.  Đấy sẽ là một bản ca tụng Ki-tô giáo, lòng trắc ẩn và tình yêu không xác thịt, ca tụng một thế giới được cứu chuộc nhờ một "người điên thuần tuý", "người điên trong Chúa Kitô". Nietzsche ngảnh mặt làm ngơ không một lời cáo biệt, và từ đấy về sau không bao giờ nói với Wagner nữa. "Tôi không thể nào công nhận một sự vĩ đại không phối hợp cùng đức trong sạch và chân thành đối với chính mình. Lúc tôi đã khám phá ra một điều như thế, thì tất cả những thành quả của một người đối với tôi tuyệt đối không còn ý nghĩa gì nữa" (Ibid., 295). Nietzsche thích anh chàng Siegfried người nổi loạn hơn là Parsifal bậc thánh nhân, và không thể tha thứ Wagner về việc ông đã thấy trong Ki-tô giáo một giá trị đạo đức và một vẻ đẹp có ảnh hưởng hơn những khuyết điểm thần học của nó bội phần. Trong cuốn Trường hợp Wagner chàng đã nhục mạ Wagner với cơn giận dữ điên loạn: "Wagner nịnh hót mọi thiên tính ngã về Phật giáo hư vô, và nguỵ trang nó bằng âm nhạc; hắn nịnh hót mọi thứ Ki-tô giáo và mọi hình thức tôn giáo biểu thị của suy đồi... Richard Wagner, một kẻ lãng mạn vô vọng đã tàn bại, bỗng ngã quỵ thình lình trước Thánh giá. Chớ không có người Đức nào có con mắt mà nhìn, có tấm lòng trắc ẩn mà khóc cái cảnh tượng kinh khủng này hay sao ? Vậy hoá ra tôi là kẻ độc nhất hắn đã làm cho khổ đau hay sao ? ... Ờ, mà tuy nhiên tôi là một trong những thằng hâm mộ Wagner đồi truỵ nhất ... Được rồi, tôi là đứa con của thời đại này, y hệt như Wagner, - nghĩa là, một thằng suy vi; nhưng tôi ý thức được chuyện đó, tôi bảo vệ cho tôi chống lại chuyện đó".

 Nietzsche thật ra có tính chất "Apollon" nhiều hơn chàng tưởng: một con người yêu những gì thanh tú, tế nhị chứ không phải yêu sức mạnh man dại đượm tính chất Dionysian, cũng không phải yêu cái mỹ miều của rượu, ca khúc và tình ái. "Anh của bà, với cái bộ kiêu kỳ của nó, là thằng cha khó chịu nhất", Wagner đã nói với bà Forster-Nietzsche; "...đôi khi nó hoàn toàn bối rối trước những lời nói đùa của tôi, và tôi càng được thể đùa dai hơn baogiờ cả" (Ellis trích dẫn trong Affirmations, tr. 27). Nơi Nietzsche có quá nhiều hơi hướng Platon; chàng lo sợ rằng nghệ thuật sẽ dạy cho con người hết cứng rắn; vốn có tâm hồn mẫn cảm, chàng tưởng cả thế giới cũng như mình, -nguy thay suýt thực hành Ki-tô giáo. Không có nhiều chiến tranh đủ để thích hợp với vị giáo sư hiền lành ấy. Tuy nhiên, trong những giờ bình lặng, chàng biết rằng Wagner cũng đúng như Nietzsche, tính chất tao nhã nơi Parsifal cũng cần thiết như sự hùng mạnh nơi Siegfried, và nhìn dưới một nhãn quan vũ trụ, những mâu thuẫn khốc liệt kia sẽ tan hoà trong những nhất-thể đầy sáng tạo tốt lành. Nietzsche thích nghĩ về tình bạn như "tình sao" này (như những vì sao trên trời - chú thích của người đánh máy -) , mối tình vẫn âm thầm gắn bó chàng với con người đã là kinh nghiệm phong phú và giá trị nhất đời chàng. Và về sau, vào một giây lát minh mẫn trong cơn điên cuối đời, khi nhìn thấy một bức tranh Wagner, đã chết từ lâu, Nietzsche đã thốt ra rất khẽ: "Chính người ấy, ta đã yêu nhiều".

 

IV. TIẾNG  HÁT   ZARATHUSTRA

 Và từ nghệ thuật, như đã bỏ rơi chàng, chàng tìm trú ẩn trong học thuật - nơi đó bầu không khí Apollonian giá lạnh đã tẩy sạch linh hồn chàng sau cơn nhiệt nồng và hỗn loạn kiểu Dionysus ở Tribschen và Bayreuth - và trong triết học, "cho ta một chỗ tị nạn ở đấy không nền chuyên chế nào có thể xâm nhập". Cũng như Spinoza, chàng cố làm lắng dịu những cảm xúc bằng cách xem xét chúng; theo Nietzsche, chúng ta cần đến một "khoa hoá học về những cảm xúc". Bởi thế, trong tác phẩm sau đó Con người quá đỗi người (1878-1880), chàng trở nên một nhà tâm lý học, phân tích với sự tàn bạo của một nhà giải phẫu, những cảm thức dịu dàng nhất và những niềm tin được ấp ủ nhiều nhất, - mạnh dạn đề tặng tác phẩm gây phản ứng mãnh liệt đó cho Voltaire con người ưa nói xấu.

 Rồi ngay giữa lúc tuổi còn xanh, vào năm 1879, Nietzsche ngã quỵ, cả thể các lẫn tinh thần, lụn xuống gần kề chỗ chết. Chàng ương ngạnh chuẩn bị cho giờ lâm tử: "Em hãy hứa với anh -chàng nói với em gái- rằng khi anh chết, chỉ có những người bạn được đứng cạnh quan tài, cấm lũ người tò mò thóc mách. Hãy để ý đừng cho một linh mục hay bất cứ ai khác, thốt những lời bá láp bên mồ anh, khi anh không còn thể tự bảo vệ, hãy để anh đi xuống mồ nguyên vẹn là một đứa vô thần chân chính" (Nietzsche, con người cô đơn, tr. 65). Nhưng rồi chàng đã bình phục và tang lễ bi hùng đành phải hoãn lại. Từ trận ốm ấy, chàng đâm ra yêu sức khoẻ và mặt trời, yêu đời và tiếng cười và vũ điệu, yêu "âm nhạc miền Nam" của Carmen; cũng từ trận ốm ấy nẩy sinh rằng một ý chí mãnh liệt hơn, do cuộc chiến đấu với tử thần, một "tiếng ừ" cảm nhận vị ngọt ngào của sự sống ngay cả trong niềm cay đắng nhọc nhằn. Và có lẽ cũng từ trận ốm kia nẩy sinh ra một nỗ lực đáng thương của chàng để vươn đến chỗ giới hạn tự nhiên, chấp nhận số phận con người. "Công thức của tôi về sự vĩ đại là Amor fati (thuận mệnh): không những chỉ chịu đựng mọi điều không thể tránh, mà còn yêu thương nó". Khốn nỗi, việc ấy nói dễ hơn làm.

 Những nhan đề các tác phẩm sau đó của Nietzsche -Bình minh (The Dawn of Day, 1881) và Trí tuệ hân hoan (The Joyful Wisdom, 1882) phản ảnh của một giai đoạn bình phục đầy tri ân, ở đây ta đọc thấy một giọng điệu từ tốn hơn, một  lời lẽ hoà nhã hơn trong những tác phẩm về sau. Bấy giờ chàng có một năm trời với những ngày êm lặng, sống đạm bạc với số tiền phụ cấp của Đại học viện. Nhà triết học kiêu hãnh của chúng ta cũng có thể lụy trong một cơn yếu đuối ngộ nghĩnh: đùng một cái, chàng đâm ra si tình. Nhưng Lou Salomé không đáp lại tình yêu của chàng; chàng có đôi mắt quá sắc và sâu, không làm người ta thoải mái. Paul Rée ít nguy hiểm hơn, và đã đóng vai trò bác sĩ Pagello cho De Musset là Nietzsche. Nietzsche thất vọng bỏ ra đi, vừa đi vừa sáng tác những châm ngôn phản đối phụ nữ. Trong thực tế, chàng vốn thật thà; nồng nhiệt, lãng mạn, hiền lành đến độ đơn sơ chất phác; sự tuyên chiến của chàng đối với tính mềm yếu chính là một cố gắng để xua đuổi một đức hạnh đã đưa chàng đến chỗ thất vọng chua chát và gây một vết thương không bao giờ lành.

 Bấy giờ đối với chàng, cô đơn mấy cũng không vừa: "Thật khó sống với người; vì im lặng thật khó khăn" (Zarathustra, tr. 212). Chàng đi từ Ý đến những miền cao của dãy Alpen ở Sils Maria trong vùng Upper Engadine, -không yêu đàn ông cũng như đàn bà, và cầu nguyện cho con người có thể siêu việt. Ở đấy trên những miền cao cô quạnh, cảm hứng cho tác phẩm vĩ đại nhất đã đến với chàng.

 Tôi ngồi đây chờ đợi - chờ đợi hư vô

Đã vượt ngoài thiện ác, bây giờ tôi thưởng thức

ánh sáng rồi bóng râm; chỉ có

ngày, hồ, ban trưa, thời gian vô tận.

Nhưng bỗng nhiên bạn hỡi, một đã thành hai,

Và Zarathustra lướt qua cạnh tôi.

(Trong Halévy, 234)

 Bây giờ "linh hồn chàng bừng dậy và tràn ngập mé bờ" (Zarathustra, 315). Chàng đã tìm ra một thầy mới - Zoroaster; một Thượng đế mới - Siêu nhân; và một tôn giáo mới - Sự vĩnh viễn phục hồi. Bây giờ chàng phải hát ca triết học vươn lên thành thi ca dưới một bài ca, và sẽ hát, dù tôi đang cô quạnh trong một ngôi nhà trống rỗng, và phải hát bài ca ấy cho chính lỗ tai tôi nghe" (Zarathustra, 279). "Hỡi vì sao vĩ đại ! - Hạnh phúc của ngươi sẽ là cái gì nếu không có những người ngươi chiếu cho ánh sáng ? ... Này ! Ta đang mỏi mệt chán chường về sự minh triết của ta, cũng như con ong đã hút quá nhiều mật ngọt; ta cần những bàn tay với đến xin đòi" (Zarathustra, 1). Bởi thế chàng viết Lời Zarathustra và hoàn tất nó vào "giờ linh thiêng khi Richard Wagner trút linh hồn ở Venice". Đấy là lời đáp mỹ lệ của chàng trả lời Parsifal; nhưng tác giả Parsifal đã chết.

 Đấy là tuyệt tác của Nietzsche, và chàng cũng biết thế. Sau này chàng đã viết về nó:"Tác phẩm này đứng một mình một cõi. Đừng để chúng ta nhắc đến những thi sĩ trong cùng một hơi; có lẽ chưa từng có cái gì đã được sáng tạo từ một mãnh lực tràn trề đến thế ... Dù cho tất cả sự hăng hái và sự tài hoa của mọi tâm hồn lớn đều tụ lại, cũng không thể sáng tạo nên chỉ một bài duy nhất trong những bài giảng của Zarathustra". Hơi quá đáng đấy, nhưng chắc chắn đấy là một trong những tác phẩm vĩ đại nhất của thế kỷ 19. Tuy nhiên Nietzsche đã qua một giai đoạn cay chua để ấn loát nó; phần đầu bị đình trệ vì nhà in của nhà xuất bản bận in một món hàng đặt cọc gồm 500 000 quyển thánh ca, rồi tiếp đó lại bận in một loạt những tập nhỏ chống Do Thái; và người xuất bản không chịu in phần cuối cùng nên tác giả đành phải bỏ tiền ra ấn hành phần ấy. Quyển sách bán được bốn mươi bản; bảy cuốn được đem phân phát; người ta ghi nhận nó, không ai tán dương nó. Chưa ai từng cô đơn đến thế.

 Zarathustra, 30 tuổi, hạ sơn từ đỉnh núi tư duy để thuyết giáo trước quần chúng, như người tiên phong của ông ở Ba-tư là Zoroaster; nhưng đám đông đã quay đi chỗ khác để nhìn một trò biểu diễn người đi trên dây. Người biểu diễn này té chết, Zarathustra vác y lên vai mang đi; "bởi vì anh đã lấy nguy hiểm làm nghề nghiệp, nên tôi sẽ chôn anh với chính tay mình". "Hãy sống nguy hiểm", chàng thuyết giáo. "Hãy dựng những đô thị của các người bên cạnh núi lửa Vesuvius. Hãy đưa những chiếc tầu của các người đến những vùng biển chưa thám hiểm. Hãy sống trong tình trạng chiến tranh".

 Và hãy nhớ vứt bỏ đức tin. Zarathustra hạ sơn gặp một ẩn sĩ già nói với chàng về Thượng đế. "Nhưng khi Zarathustra ở một mình, chàng tự nhủ rằng :"Có thể nào như thế được chăng ? Ông thánh già này ở trong khu rừng chưa nghe gì về chuyện Thượng đế đã chết à !" *) [(*) ám chỉ tác phẩm Goetterdaemerung - Hoàng hôn của Thượng đế - của Wagner ]. Song dĩ nhiên là Thượng đế đã chết, tất cả các Thượng đế đều đã chết cả rồi.

 

Vì những Thượng đế cổ lổ đã chấm dứt từ lâu. Và chính thế, đấy là một chấm dứt tốt đẹp và hân hoan của những vì Thượng đế !

Không phải họ chết mà vẫn lai vãng trong hoàng hôn đâu, mặc dù người ta đã nói dối như vậy ! Trái lại, vào một ngày xưa, họ đã cười ngất đến chết !

Việc ấy xảy ra khi mà, chính một vị Thượng đế đã thốt ra lời nói ít-có-vẻ-Thượng-Đế nhất. Lời ấy như vầy: "Chỉ có một Thượng đế ! Trước ta, ngươi sẽ không được có một vì Thượng đế nào khác".

Khi ấy tất cả các Thượng đế đều cười lớn rũ rượi trong ghế bành của họ mà la lên "Phải chăng Thượng-đế-tính đúng nghĩa là chỉ có những Thượng đế chứ không có một Thượng đế ?"

Ai có tai, hãy lắng mà nghe.

Zarathustra đã nói thế (Zarathustra , 263).

Thật là một vô thần luận khoái hoạt làm sao! "Có phải Thượng-đế-tính như vầy là đúng nhất không: ấy là, không có Thượng đế ?". "Cái gì có thể được sáng tạo nếu có những Thượng đế ?... Nếu có những Thượng đế, thì làm sao ta chịu được cái chuyện rằng ta không phải là Thượng đế ? Do đó không có Thượng đế nào cả" (Zarathustra, 116-118). "Có ai có nhiều tính chất phi-thượng-đế hơn ta, để ta có thưởng thức những lời dạy ? (Z., 245). "Ta van xin các người, hỡi những huynh đệ của ta, xin các người hãy trung thành với trái đất, và đừng tin tưởng những kẻ nói cho các người nghe về những hy vọng siêu trần ! Họ chính là những kẻ bỏ thuốc độc, dù họ ý thức hay không" (Z., 5). Nhiều kẻ ươn gàn ngày xưa cuối cùng đã trở về với chất thuốc độc ngọt ngào này, cần thiết cho cuộc đời như một thứ thuốc mê. Những "người cao cả" tụ họp trong hang đá của Zarathustra để chuẩn bị đi rao truyền lý thuyết của chàng; chàng từ giã họ một thời gian, và trở về để thấy họ đang thờ phượng một con lừa đã "sáng tạo thế giới theo hình ảnh của mình - nghĩa là, ngu đần hết mức" (Z., 457). Bấy nhiêu đây không khuyến dạy gì; nhưng hãy nghe bản văn sau đó:

"Kẻ nào phải làm một đấng sáng tạo về thiện và ác - đúng thế, kẻ ấy phải trước hết là một thần phá hoại, đập tan những giá trị cho rời rã.

Như vậy, cái cực ác là một phần của cái cực thiện. Nhưng cái thiện này là cái thiện đầy sáng tạo.

Hãy nói về điều ấy, hỡi những người minh triết, dù nó có xấu xa bao nhiêu nữa. Im lặng là điều tệ hơn; mọi chân lý không-được-nói-ra đều trở thành độc hại.

Và dù cái gì sẽ đập tan những chân lý chúng ta, cứ để cho nó đập tan ! Còn nhiều ngôi nhà cần xây dựng.

Zarathustra đã nói thế !" (Z., 162)

Có phải lời này bất kính không ? Nhưng Zarathustra phàn nàn rằng "không còn ai biết cách sùng kính như thế nào cả" (Z.,354) và chàng tự gọi mình là "người kính tin nhất trong những người không tin Thượng đế". Chàng khao khát niềm tin và xót thương "tất cả những kẻ, như ta đã khổ vì nỗi ghét thù lớn rộng, những kẻ đã thấy rằng Thượng đế cũ đã chết mà chưa có một Thượng đế mới nào quấn tã nằm trong nôi" (Z., 434). Và đoạn chàng gọi đích danh vị Thượng đế mới:

Tất cả Thượng đế đều chết rồi, bây giờ chúng ta muốn rằng siêu nhân phải sống ...

Ta dạy các người siêu nhân. Con người là một cái gì phải được siêu vượt. Các ngươi đã làm gì để vượt trên con người ?

Cái lớn lao trong người là ở chỗ nó là một cây cầu chứ không là một mục đích: cái ta có thể yêu thương nơi con người là ở chỗ nó là một chuyển tiếp và một sự phá huỷ.

Ta yêu những con người không biết sống ra sao trừ phi bằng cách chết, vì họ là những người vượt qua bên kia.

Ta yêu những con người khinh bỉ tất cả bởi vì họ là những người tôn sùng vĩ đại, họ là những mũi tên của sự khao khát bờ bên kia.

Ta yêu những con người không tìm kiếm bên kia những vì-sao một lý do để chết và được hy sinh, mà tự hiến mình cho trái đất để một ngày kia trái đất này có thể trở thành trái đất của siêu nhân ...

Đã đến lúc cho người đánh dấu mục tiêu mình. Đã đến lúc cho người dựng mầm cây hy vọng lớn nhất của nó.

Trí Hải và Bửu Đích


Một nét Bình Dương Một nét Bình Dương Một nét Bình Dương Một nét Bình Dương Một nét Bình Dương Một nét Bình Dương Một nét Bình Dương
Thống kê
Lượt truy cập: 24390838