Kiến thức lịch sử chung

Truyện kể danh nhân lịch sử Trung Quốc

Ban Siêu đầu bút tòng nhung

 

Ban Siêu, tự Trọng Thăng, người Phù Phong- An Lăng, là một danh tướng và là nhà ngoại giao triều Đông Hán. Khi Hán Quang Võ Đế mời nhà đại học sĩ Ban Bưu đến chỉnh lý lịch sử triều Tây Hán, hai người con trai của ông là Ban Cố và Ban Siêu, cùng con gái tên là Ban Chiêu cũng theo cha đến học tập văn học và lịch sử. Sau khi Ban Bưu qua đời, Ban Cố làm Lan Đài lệnh sử tiếp tục công việc biên soạn "Hán Thư" của cha, còn Ban Siêu làm công việc sao chép. Hai anh em tính tình rất khác nhau, Ban Cố say mê nghiên cứu và chăm chú viết Hán Thư. Còn Ban Siêu khi nghe tin Hung Nô quấy nhiễu vùng biên giới, liền bỏ bút xuống nói rằng: "Đại trượng phu phải như Phó Giới Tử , Trương Khiên lập công tại dị vực, cớ sao lại bỏ phí quá nhiều thời gian vào việc nghiên bút thế này", rồi sau đó gác bút tòng quân.

Hán Minh Đế cử đại tướng Đậu Cố xuất binh đánh Hung Nô, Ban Siêu được đảm nhiệm chức đại lý tư mã. Do chiến đấu dũng cảm, lập nhiều chiến công, nên ông được Đậu Cố khen thưởng rồi cử đi sứ Tây vực, liên lạc với các nước cùng chống lại Hung Nô.

Ban Siêu vất vả dặm trường trước tiên đến nước Thiền Thiện, vua nước này ban đầu tỏ ra rất cung kính và tiếp đón họ như khách quý. Mấy hôm sau, vua Hung Nô cũng cử sứ giả đến liên lạc với nước Thiền Thiện, chúng tìm mọi cách nói xấu nhà Hán, nên vua nước Thiền Thiện dần dần tỏ ra lạnh nhạt với Ban Siêu, thậm trí còn nảy sinh ý thù địch. Ban Siêu thấy vậy bèn lập tức triệu tập những người cùng đi bàn đối sách, họ quyết định trước tiên giết chết sứ giả Hung Nô để gây sức ép với vua nước Thiền Thiện. Tuy tình thế rất nguy hiểm, nhưng Ban Siêu vẫn không hề nao núng. Nửa đêm hôm đó, ông đã dẫn 36 người xông vào dinh sứ giả Hung Nô phóng hỏa, chém giết. Hung Nô không hề phòng bị, liền bị chém chết hơn 30 người, còn hơn trăm người khác đều bị thiêu chết. Ngày hôm sau, Ban Siêu mời vua nước Thiền Thiện đến, rồi sách thủ cấp sứ giả Hung Nô ra cho nhà vua xem, sau đó dùng lời lẽ khuyên răn. Nhà vua bấy giờ mới chịu thần phục, đồng ý cùng nhà Hán thiết lập quan hệ hữu hảo.

Ban Siêu hoàn thành sứ mệnh trở về Lạc Dương, được Hán Minh Đế khen ngợi, thăng làm Quân Tư Mã. Sau đó, Ban Siêu lại nhận được lệnh xuất sứ Vu Điền. Khi Ban Siêu đến bày tỏ nguyện vọng của nhà Hán muốn đặt quan hệ hữu hảo với Vu Điền. Vua nước này vì sợ quân Hung Nô, nên thái độ tỏ ra hết sức lạnh nhạt.

Bấy giờ, có một thầy phù thủy mách vua Vu Điền rằng: "Sứ giả nhà Hán có một con ngựa tốt, nên dắt về mổ tế thần, để thần minh phù hộ cho đại vương". Vua Vu Điền nghe vậy liền cử người sang chỗ Ban Siêu để lấy ngựa. Ban Siêu nói: "Ngựa có thể cho, nhưng hãy bảo thầy phù thủy tự sang đây mà dắt về". Người này trở về báo lại với nhà vua, thầy phù thủy tỏ ra rất hý hửng bèn cùng viên tể tướng nghênh ngang đến lấy ngựa. Ban Siêu chẳng nói chẳng rằng liền chặt phăng đầu thầy phù thủy, rồi nọc viên tể tướng ra đánh cho mấy trăm roi. Sau đó, tay sách thủ cấp thầy phù thủy đến gặp vua Vu Điền trách rằng: "Những ai không muốn hữu hảo với triều đình nhà Hán, thì cũng sẽ như thầy phù thủy này". Vua Vu Điền vốn đã nghe nói về những việc làm của Ban Siêu ở nước Thiền Thiện, sợ đến kinh hồn bạt vía, bèn lập tức bày tỏ nguyện cùng thiết lập quan hệ hữu hảo với triều nhà Hán.

Về sau, Ban Siêu vẫn tiếp tục xuất sứ các nước Tây vực, giúp đỡ những nước này vùng thoát khỏi sự ràng buộc và nô dịch của Hung Nô, khiến hơn 50 nước ở Tây vực đều quy thuộc triều Đông Hán. Vào một lần khác, khi Ban Siêu được lệnh chuẩn bị trở về Lạc Dương, các vương hầu, khanh tướng nước Su Lơ, nước Vu Điền v v, đều ứa nước mắt ôm lấy chân ngựa không nỡ cho ông về. Ban Siêu rất cảm động, liền viết thư lên triều đình yêu cầu cho mình ở lại Tây vực. Ban Siêu xuất sứ Tây vực từ năm 40 tuổi, đến năm 71 tuổi mới trở về Lạc Dương, sinh sống ở Tây vực 31 năm, đã bảo vệ cho nhà buôn đi lại trên con đường tơ lụa, khiến mối quan hệ giữa nội địa và Tây vực càng thêm gắn bó.

Năm 97 công nguyên, khi Ban Siêu nhậm chức Đô Hộ Tây Vực, đã cử sứ giả Cam Anh xuất sứ Đại Tần. Cam Anh đến vịnh Péc Xích thì bị biển chắn lối. Tuy lần xuất sứ này không đến được Đại Tần, nhưng đã phong phú thêm sự hiểu biết đối với các nước Trung Á, tạo điều kiện có lợi cho việc phát triển giao thông giữa TQ và phương tây sau này.

________________________________________

Lão đang ích tráng

 

Hán Quang Võ Đế - Lưu Tú đã dựa vào vũ lực đoạt được thiên hạ, có 28 thủ hạ của ông từng lập nên công trạng to lớn. Sau khi Lưu Tú băng hà, Hán Minh Đế-Lưu Trang đã đặt tượng 28 người này trên vân đài của Nam cung, gọi là "Vân đài nhị thập bát tướng". Nhưng ngoài 28 vị này ra, còn có một viên đại tướng, đó là lão tướng Mã Viện.

Mã Viện tự Văn Uyên, người Phù Phong, Mậu Lăng (Tức miền đông bắc huyện Hưng Bình, tỉnh Thiểm Tây ngày nay), là một nhà quân sự nổi tiếng thời Đông Hán, được phong làm Tân Tức Hầu. Tổ tiên Mã Viện là danh tướng thời Chiến Quốc-Triệu Tư. Triệu Tư từng đánh bại quân Tần, lập chiến công hiển hách, được Triệu Huệ Văn Vương phong hiệu "Mã Phục Quân", nên các con cháu của ông đều đổi ra họ Mã.

Khi Mã Viện còn làm đốc bưu ở Quận Trung. Một hôm, khi trên đường áp giải tù nhân sang phủ Tư Mệnh, vì quá thương tù nhân, nên ông đã thả họ về rồi bỏ trốn sang quận Bắc Địa sống bằng nghề chăn nuôi, nhiều người được tin đều kéo đến theo ông. Ông thường nói với đám môn khách rằng: "Đại trượng phu muốn lập chí, nghèo thì phải vững vàng, già mà vẫn coi mình như thời còn trẻ khỏe. Phàm là của cải tài sản, nó đáng quý là ở chỗ đem bố thí và biếu tặng cho mọi người, bằng không thì mình sẽ trở thành kẻ bo bo giữ của trong nhà mà thôi". Do đó, ông đã chia một phần tài sản của mình cho bạn bè, còn bản thân mình thì sống cuộc đời hết sức đạm bạc.

Năm Kiến Võ thứ 8, Quang Võ Đế tự thống lĩnh quân mã đi thảo phạt Khôi Hiu. Mã Viện đem gạo ra đắp thành sa bàn, rồi hiến kế cho nhà vua cách dụng binh, phân tích tình hình hết sức thấu đáo. Hán Quang Đế thấy vậy phấn khởi nói: "Kẻ địch khác nào nằm gọn trong tầm tay ta". Sau đó, đại quân của Khôi Hiu nhanh chóng bị tiêu diệt. Mã Viện dùng gạo đắp sa bàn là một nguyên nhân quan trọng khiến trận đánh này giành được toàn thắng, đồng thời cũng là một sự sáng tạo trong lịch sử chiến tranh.

Năm Kiến Võ thứ 11, bộ tộc người Khương vẫn thường xuyên quấy nhiễu miền biên thùy, Hán Quang Đế cử Mã Viện ra làm Quận thú Quận Lũng Tây, ông dẫn đầu quân sĩ xông pha trận mạc, bắp đùi ông bị quân giặc bắn thủng. Hán Quang Đế được tin liền tặng cho ông mấy nghìn con bò cừu, nhưng Mã Viện vẫn như trước đem phân chia cho các tướng sĩ. Đến năm Kiến Võ thứ 13, thủ lĩnh người Khương liên hợp với các bộ lạc ở biên giới phát động nổi loạn. Khi Mã Viện dẫn quân đến nơi thì phát hiện người Khương chiếm cứ trên đỉnh núi. Ông bèn đóng quân vây chặt, cắt đứt nguồn nước, khiến người Khương lâm vào cảnh khốn quẫn, thủ lĩnh người Khương dẫn hơn mấy trăm nghìn hộ trốn ra miền biên giới, còn lại hơn chục nghìn người đều bị bắt làm tù binh. Từ đó, Lũng Hữu được yên ổn. Mã Viện làm thái thú Lũng Tây được 6 năm. Hán Quang Võ Đế phong ông làm Phục Ba tướng quân. Sau đó, ông dẫn quân đánh bại Giao Chỉ, được triều đình phong làm Tân Tức Hầu.

Năm Kiến Võ thứ 24, miền nam xảy ra bạo loạn, Mã Viện lúc đó tuy đã 62 tuổi, mà vẫn xin phép đi nam chinh. Ông dẫn quân đến đóng tại Hồ Đầu, chiếm cứ nơi hiểm yếu, giữ chặt cửa ải, nhưng vì khí trời nóng bức, có rất nhiều binh sĩ bị chết vì say nắng, bản thân ông cũng bị bệnh nặng, tình hình vô cùng nguy khốn, ông bèn ra lệnh cho các tướng sĩ đào hầm ở bên bờ sông để tránh nắng. Giữa lúc này, tên Cảnh Thư đã mật báo cho Hán Quang Võ Đế biết rõ tình hình, nhà vua bèn cử trung lang tướng Lương Tùng ra thôi thúc và giám sát quân đội của Mã Viện.

Nhưng khi Lương Tùng đến nơi thì Mã Viện đã qua đời. Mã Viện sinh thời vẫn thường ăn một loại thực vật gọi là Ý dĩ, loại thực vật này có thể điều trị bệnh phong thấp gân cốt, loại trừ tà phong, ông chất đầy một xe đem về nhà làm giống, mọi người thấy vậy đều lầm tưởng là đặc sản quý hiếm của miền nam, họ không được chia đều ấm ức, rồi đặt điều nói xấu Mã Viện. Sau khi Mã Viện qua đời, Mã Võ, Hầu Lập và một số người khác đều nói Mã Viện đích thực có đưa về một xe đồ vật quý hiếm, Hán Quang Võ Đế nghe vậy vô cùng tức giận. Người nhà Mã Viện không hiểu tại sao nhà vua lại tức giận, cũng chẳng hiểu Mã Viện đã phạm tội gì, nên đều lo lắng không yên. Thi hài của Mã Viện được đưa về rồi vội mai táng, bạn bè thân thích của ông đều không ai dám đến viếng tang. Khi vợ con Mã Viện đến triều đình nhận tội, nhà vua đưa bản tấu chương của Lương Tùng ra cho họ xem, bấy giờ mọi người mới vỡ lẽ đây là một sự hiểu nhầm. Vợ Mã Viện đã 6 lần dâng thư minh oan, Hán Quang Võ Đế mới ra lệnh hậu táng cho Mã Viện. Năm Kiến Sơ thứ 3, Tiêu Tông cử năm cung trung lang tướng làm lễ truy phong Mã Viện là Trung Thành Hầu.

________________________________________

Vương Mãng cải chế

 

 

Vương Mãng

Vương Mãng sinh năm 45 trước công nguyên, mất vào năm 23 công nguyên, làm vua triều mới trong 15 năm, là một trong những nhân vật được lịch sử TQ tranh luận nhiều nhất trong gần 2000 năm nay, có người gọi ông là nhà cải cách, có người chê trách ông là một người ngông cuồng phục cổ, có người ví ông là "Chu Công tái thế", là tấm gương của trung thần hiếu tử, cũng có người gọi ông là tên trùm sỏ gian hùng tặc tử, vân vân và vân vân.

Hán Thành Đế là một ông vua hoang dâm, sau khi lên làm vua , mọi quyền hành nhà nước đều rơi vào tay họ hàng bên ngoại, các anh em của Hoàng thái hậu Vương Chính Quân đều được phong hầu, trong đó Vương Phượng được phong làm đại tư mã, đại tướng quân. Sau khi lên nắm quyền, mấy anh em và con cháu của Vương Phượng đều hoành hành ngang ngược, ăn chơi xa xỉ, chỉ có thằng cháu Vương Mãng vì cha mất sớm là không dính vào tật xấu này, cậu rất bình thường như bao người học hành khác, sống rất cần kiệm, mọi người đều nói Vương Mãng là một người tốt nhất trong số các con cái của nhà họ Vương. Sau khi Vương Phượng qua đời, hai người anh của Vương Phượng lần lượt thay nhau làm tư mã, về sau mới đến lượt Vương Mãng. Vương Mãng chủ trương chiêu hiền nạp sĩ, nên được khá đông người xin theo.

Sau khi Hán Thành Đế mất chưa đầy 10 năm, mà đã đổi thay hai ông vua, đó là Ai Đế và Bình Đế. Khi Hán Bình Đế lên ngôi mới được 9 tuổi, quyền hành nhà nước đều nằm trong tay Đại tư mã Vương Mãng. Những kẻ tâng bốc đều nói Vương Mãng là công thần giữ cho triều nhà Hán được yên ổn, họ xin với Hoàng Thái Hậu phong Vương Mãng làm An Hán Công.

Vương Mãng không muốn chịu phong, thì càng có nhiều người yêu cầu Hoàng Thái Hậu gia phong. Số đại thần, quan lại địa phương và dân chúng dâng thư yêu cầu đã lên tới hơn 480 nghìn người. Có người còn thu tập văn tự ca tụng Vương Mãng, cộng hơn 30 nghìn chữ. Vương Mãng uy tín càng cao, càng có lắm kẻ tâng bốc thì Hán Bình Đế càng cảm thấy Vương Mãng thật đáng sợ, thật đáng ghét. Vì Vương Mãng không cho phép mẹ vua ở bên cạnh vua, và giết sạch họ hàng bên cậu của vua. Hán Bình Đế dần dần khôn lớn, thì không sao tránh khỏi bộc lộ nỗi oán giận. Khi các đại thần đến chúc thọ Hán Bình Đế, Vương Mãng đã dâng cho nhà vua một chén thuốc độc, nhà vua uống xong mấy ngày sau thì băng hà. Vương Mãng lại còn giả bộ khóc lóc rất thảm thiết. Hán Thành Đế mất vào năm 14 tuổi, chưa có con cái. Vương Mãng bèn đưa một đứa trẻ hai tuổi trong vương thất họ Lưu ra lập làm Hoàng thái tử. Còn mình tự xưng là "Giả hoàng đế".

Có một số quan chức muốn làm nguyên huân dựng nước, họ đã khuyên Vương Mãng lên ngôi vua, bản thân Vương Mãng cũng cảm thấy mình là vua tạm thời không bằng làm một ông vua thật. Nên đám người xu nịnh tâng bốc này liền nặn ra rất nhiều điều mê tín để lường gạt người. Nào là đã tìm thấy sách nói "Vương Mãng là chân mệnh thiên tử ", nào là đã phát hiện một cái tráp đồng trong miếu Hán Cao Tổ nói rằng "Hán Cao Tổ nhường ngôi cho Vương Mãng" v v, Vương Mãng nổi tiếng là người luôn từ chối thăng phong, thì lần này không còn từ chối nữa.

Năm thứ 8 công nguyên, Vương Mãng chính thức lên ngôi hoàng đế, đổi quốc hiệu là Tân, thủ đô vẫn đặt tại Tràng An. Vương triều Tây Hán bắt đầu từ thời Hán Cao Tổ xưng đế, đã thống trị được 210 năm. Vương Mãng lên ngôi vua liền bắt đầu phục cổ cải chế, ra lệnh biến pháp. Một là, đem đất đai trong cả nước sửa làm "Vương điền", không cho phép mua bán. Hai là, gọi nô tỳ là "Tư thuộc", không cho phép mua bán. Ba là, đặt ra giá cả, cải cách tiền tệ. Có những cải cách nghe ra rất hợp lý, nhưng đều thực thi không đâu vào đâu. Do bị quý tộc và cường hào phản đối, nên chế độ cải cách ruộng đất và việc tư thuộc nô tỳ đều không thể nào thi hành được. Quyền ổn định giá cả đều nằm trong tay quý tộc quan liêu, họ lợi dụng chức quyền buôn gian bán lậu, tham ô bắt chẹt, ngược lại càng làm tăng thêm nỗi thống khổ cho nhân dân.

Tiền tệ cải cách đã mấy lần, mà càng cải cách mệnh giá càng nhỏ, trị giá càng cao, dân chúng vô tình bị mất oan một khoản tiền. Nên việc phục cổ cải cách không những bị nông dân phản đối, mà nhiều địa chủ cỡ trung tiểu cũng không ủng hộ. Ba năm sau, Vương Mãng lại ra lệnh, vương điền, nô tỳ đều có thể mua bán. Vương Mãng còn muốn mượn cớ chiến tranh đối ngoại để làm dịu mâu thuẫn trong nước, việc này đã dẫn tới bị Hung Nô, các bộ tộc ở Tây vực và Tây nam phản đối. Quan bức thì dân phản, nên năm 25 công nguyên, Lưu Tú đã khởi binh lật đổ Tân vương triều của Vương Mãng, vương triều Đông Hán ra đời.

________________________________________

Chiêu Quân xuất tái

 

 

 "Chiêu Quân xuất tái",tức nàng Vương Chiêu Quân ra miền biên thùy phía bắc Trường Thành.

Thời Tây Hán, giữa triều nhà Hán và Hung Nô vẫn thường xuyên xảy ra chiến loạn. Năm 33 trước công nguyên, vua nam Hung Nô- Hu Han Sia đến Tràng An xưng thần, đồng thời đã chủ động nêu ra ý định muốn kết làm thân gia với triều nhà Hán, cùng bảo vệ an ninh miền biên cương. Đây là một sự kiện lớn trong đời sống chính trị giữa nhà Hán và Hung Nô, nếu việc kết thân thành công thì chiến tranh sẽ chấm dứt, hai nước sẽ cùng chung sống hòa bình.

Việc kết thân thường thường là công chúa hoặc con gái vương thất, nhưng lần này Hán Nguyên Đế quyết định chọn người trong đám cung nữ, nhà vua liền cử người đến hậu cung truyền rằng: "Ai tình nguyện đi Hung Nô thì trẫm sẽ đối xử với người đó như công chúa". Các cung nữ ở đây đều được chọn từ thôn quê lên, họ bị đưa vào hoàng cung có khác nào chim bị nhốt trong lồng, họ những mong có một ngày nào đó được thoát ra ngoài cung. Nhưng khi nghe nói phải xa lìa tổ quốc đi Hung Nô, thì người nào người nấy đều im lặng lắc đầu. Duy có một cung nữ tên là Vương Tường, tự Chiêu Quân, rất xinh đẹp lại có học thức, vì việc lớn trăm năm của mình đã mạnh dạn đăng ký nguyện gả sang Hung Nô. Viên quản sự thấy vậy liền về báo với Hán Nguyên Đế. Nhà vua dặn viên đại thần quản sự chọn ngày lành tháng tốt, rồi tổ chức lễ thành hôn cho hai người tại Tràng An.

Vua Hung Nô- Hu Han Sia được một người vợ trẻ đẹp, thì trong lòng mừng không sao tả xiết. Khi hai người đến tạ ân Hán Nguyên Đế, nhà vua thấy nàng Chiêu Quân đẹp lộng lẫy thì tỏ ra vô cùng hối tiếc, muốn giữ nàng lại thì bấy giờ đã quá muộn. Trong truyền thuyết có nói, khi Hán Nguyên Đế về cung, nhà vua càng nghĩ càng tức giận, bèn gọi người đem tranh vẽ hình nàng Chiêu Quân khi vào cung ra xem, hình vẽ tuy hơi giống, nhưng vẫn không sao đáng yêu bằng nàng Chiêu Quân thật.

Nguyên là năm Chiêu Quân 17 tuổi, chính vào năm Hán Nguyên Đế ra lệnh tuyển lựa mỹ nữ trong thiên hạ, Chiêu Quân bị đưa vào hậu cung. Nhà vua lúc bấy giờ hoang dâm vô độ, ngoài tam cung lục viện ra, còn có hàng nghìn cung nữ, thực là giai nhân mỹ nữ vô số, cơ bản không thể nào gặp mặt hết lượt các cung nữ, đành phải mời thợ vẽ đến vẽ hình họ để nhà vua xem, nhà vua ưng ý người nào thì điểm triệu người đó. Do đó, không thể nào tránh khỏi sự sai lệnh giữa hình vẽ và người thực, nên thợ vẽ đã trở thành nhân vật quan trọng liệu cung nữ có được nhà vua điểm triệu hay không. Một số cung nữ vì muốn được nhà vua chú ý đến, đã bỏ ra rất nhiều tiền mua chuộc thợ vẽ, để vẽ hình mình còn đẹp hơn cả Tây Thi. Trong số này chỉ có Chiêu Quân là không làm như vậy, nàng biết rõ mình rất đẹp, nên đã từ chối hối lộ cho thợ vẽ, việc này đã làm mếch lòng thợ vẽ Mao Diên Thọ, mặc dù hắn biết rất rõ nàng Chiêu Quân có sắc đẹp nghiêng nước nghiêng thành, nhưng hắn muốn nàng suốt đời không được nhà vua để ý tới, nên đã cố ý vẽ lên khuôn mặt nàng một nốt ruồi rất to để trả thù nàng. Hán Nguyên Đế biết được việc này bèn lôi Mao diên Thọ ra chém chết.

 

________________________________________

Trương Khiên thông Tây vực

 

Trương Khiên là một sứ giả hứu hảo ngoại giao có ảnh hưởng đầu tiên trong lịch sử TQ.

Bấy giờ sự giao lưu giữa nhà Hán và Hung Nô đang gay gắt, triều nhà Hán đang chuẩn bị một cuộc chiến tranh chống trả Hung Nô. Trong một trường hợp ngẫu nhiên, Hán Võ Đế qua tra hỏi tù binh Hung Nô được biết ở Tây Vực có một quốc gia gọi là Đại Nguyệt Thị, vua nước này bị vua Hung Nô giết chết, rồi lấy hộp sọ làm bầu đựng rượu. Nguyệt Thị Vương vốn muốn báo thù cho cha, nhưng ngặt vì không có người trợ giúp. Hán Võ Đế biết được tin này rất muốn liên hợp với Đại Nguyện Thị, nên đã quyết định cử lang quan Trương Khiên làm sứ giả đi làm việc này.

Năm Kiến Nguyên thứ 2, tức năm 139 trước công nguyên, Trương Khiên và một hướng đạo người Hung Nô tên là Đường Ấp Phụ, dẫn hơn trăm người xuất phát từ Lũng Tây?Tức vùng Cam Túc hiện nay??họ ngày đi đêm nghỉ, vất vả đường trường, nhưng dọc đường bị không may bị quân Hung Nô bắt làm tù binh. Nhằm lung lạc Trương Khiên, Hung Nô đã cưới vợ cho ông và sinh được một mụn con trai, rồi việc giam lỏng này kéo dài tới 10 năm trời, mặc dù vậy vẫn không sao lay chuyển được quyết tâm hoàn thành sứ mệnh thông Tây vực của Trương Khiên, các đồ sính lễ mà ông mang theo vẫn giữ nguyên bên mình.

Vào một buổi tối, Trương Khiên nhân thấy bọn lính lơ là việc canh phòng, liền dẫn đám người của mình trốn khỏi Hung Nô, họ vượt qua muôn vàn khó khăn, cuối cùng mới đến được nước Đại Nguyệt Thị. Nhưng tình hình nước Đại Nguyệt Thị lúc này đã có sự đổi thay to lớn. Sau khi nước này di rời đến lưu vực Vị Thủy, đã trinh phục được nước láng giềng Đại Hạ?Tức miền bắc Áp ga ni xtan?rồi quyết định an cư lạc nghiệp tại đây?không còn muốn chống chọi với Hung Nô nữa. Hơn nữa, họ cho rằng nhà Hán cách mình quá xa, cơ bản không thể liên hợp cùng chống Hung Nô. Trương Khiên đi khảo sát các nơi của Đại Hạ, rồi năm sau lên đường về nước. Nhưng dọc đường ông lại bị Hung Nô bắt giữ, bị giam đến hơn một năm trời. Đến năm Nguyên sóc thứ 3, tức năm 126 trước công nguyên, Hung Nô xảy ra nội loạn, Trương Khiên nhân đó dẫn vợ và trợ thủ Đường Ấp Phụ trốn về nhà Hán. Sau khi chăm chú lắng nghe Trương Khiên báo lại tình hình Tây vực, Hán Võ Đế vô cùng phấn khởi, liền phong ông làm Thái Trung Đại Phu. Trương Khiên xuất sứ trước sau mất 13 năm, đã khi khắp các nơi trung Á và tây Á, là một người Trung Nguyên đầu tiên đi các nước Tây vực.

 

________________________________________

Vệ Thanh và Hoắc Khứ Bệnh

 

 

Vệ Thanh               Hoắc Khứ Bệnh

 

Vệ Thanh người Bình Dương, nguyên họ Trịnh, ban đầu địa vị thấp hèn, cha là Trịnh Quý làm Trung tiểu lại trong huyện, cộng sự với với Bình Dương Hầu -Tào Thọ, từng thông dâm với Vệ Ổn vợ lẽ của Bình Vương Hầu, sinh được Vệ Thanh. Vệ Thanh làm người hầu trong nhà Bình Vương Hầu, thời còn nhỏ về quê cha đẻ phải đi chăn cừu, các con cái của vợ cả Trịnh Quý đều đối đãi với Vệ Thanh như một người nô bộc, chứ không coi là anh em máu mủ.

Sau khi khôn lớn, Vệ Thanh làm kỵ binh trong nhà Bình Dương Hầu, hàng ngày bảo vệ bên cạnh quận chúa Bình Dương. Mùa xuân năm 139 trước công nguyên, tức năm Kiến Nguyên thứ 2 Hán Võ Đế, người chị gái của Vệ Thanh là Vệ Tử Phu vào cung và được Hán Võ Đế sủng ái. Vì hoàng hậu không có con trai, nên khi được tin Vệ Tử Phu mang bầu, thì vô cùng ghen tức, bèn cử người ra bắt Vệ Thanh. Vệ Thanh bị bắt nhưng được một người bạn thân tên là Công Tôn Ngao cứu thoát. Hán Võ Đế biết được tin này rất bực cho hoàng hậu, liền phong Vệ Tử Phu làm phu nhân, còn Vệ Thanh cũng do đó trở thành Thái Trung Đại Phu, Vệ Thanh vì họa gặp phúc cuối cùng đã bước lên vũ đài chính trị. Theo đà chị gái ngày càng được nhà vua sủng ái, thì Vệ thanh càng chiếm địa vị quan trọng trong con mắt của nhà vua.

Hán Võ Đế vốn đã sắp đặt một kế hoạch lớn, đó là tấn công Hung Nô, nhưng ngặt vì các nhân tài như Đậu Anh và Quán Phu đều phạm tội đã bị giết chết, còn Hàn An Quốc thì tuổi đã cao, ngoài Lý Quảng còn có thể tác chiến ra, trong tay Hán Võ Đế chẳng còn quân cờ nào thích hợp cả. Nay thấy cậu Vệ Thanh là người có thể tin dùng, bèn quyết định để Vệ Thanh gánh vác trọng trách tác chiến với Hung Nô.

Năm Nguyên Sóc thứ 5, Vệ Thanh cùng 4 viên đại tướng dẫn 30 nghìn kỵ binh tiến đánh Hung Nô. Còn một đạo quân khác của quân Hán thì do Lý Tức và Trương Thứ chỉ huy. Hữu hiền vương Hung Nô những tưởng quân Hán không thể nào tiến sâu vào doanh trại của mình, nên đã lơ là cảnh giác, uống rượu say khướt. Ngờ đâu bị Vệ Thanh đánh tập kích vào ban đêm, ngoài Hữu Hiền Vương cùng hơn trăm người chạy thoát ra, còn toàn bộ quân Hung Nô đều bị bắt làm tù binh. Trận thắng này đã khiến quyền lực của Vệ Thanh đạt tới đỉnh cao trong suốt cuộc đời mình.

Vệ Thanh được Hán vương Lưu Thiết phong làm đại tướng quân, thống lĩnh toàn bộ quân Hán, cậu bé chăn cừu thuở nào thật không ngờ lại có cuộc đời vinh hoa phú quý như ngày nay. Nhà vua lại gia phong cho ba người con trai của Vệ Thanh làm Hầu, mặc dù ba người này vẫn còa là trẻ thơ. Vệ Thanh thoái thác rằng: "Thần đánh thắng mấy trận đều là nhờ vào công lao của các tướng sĩ, ba người con của thần đều còn nhỏ tuổi, chưa làm nên việc gì cả, nếu hoàng thượng phong chúng là Hầu, thì làm sao có thể khích lệ được các tướng sĩ lập công?". Hán Võ Đế nghe xong như sực tỉnh, liền phong 7 vị tướng của Vệ Thanh làm Hầu.

Vệ Thanh đánh Hung Nô lần cuối cùng là vào năm Nguyên Thủ thứ 4, ông cùng cháu ngoại là phiêu kỵ tướng quân Hoắc Khứ Bệnh chia quân làm hai đường tiến đánh Hung Nô. Đây là thời kỳ diều gặp gió của Hoắc Khứ Bệnh, viên tiểu tướng này cũng được vua Hán mến mộ như Vệ Thanh năm xưa, Vệ Thanh nay đã già nua, thời đại Vệ Thanh đã kết thúc, thời đại Hoắc Khứ Bệnh trẻ khỏe, anh dũng, thiện chiến bắt đầu.

Hoắc Khứ Bệnh lúc đó mới 17 tuổi dẫn 800 kỵ binh đánh tập hậu, chén chết hơn 2 nghìn quân Hung Nô, bắt sống tể tướng, giết chết ông tổ và bố nuôi của vua Hung Nô. Hoắc Khứ Bệnh oai dũng nhất toàn quân, được phong làm Quán Quân Hầu, sau lại gia phong làm Đại Tư Mã, uy danh còn vượt hơn cả Vệ Thanh, có rất nhiều bộ tướng của Vệ Thanh đã tới tấp chuyển sang theo Hoắc Khứ Bệnh.

Năm Nguyên Thủ thứ 6?Tức năm 117 trước công nguyên, Hoắc Khứ Bệnh lâm bệnh mất tại Tràng An, hưởng thọ 23 tuổi.

Hoắc Khứ Bệnh sinh thời từng 4 lần cầm quân tiến đánh Hung Nô, đều giành toàn thắng, tiêu diệt hơn 110 nghìn tên địch, gọi hàng hơn 40 nghìn dân Hung Nô, mở ra miền đất Hà Tây, Tửu Tuyền, phá tan được sự uy hiếp của Hung Nô đối với triều nhà Hán, là người tác chiến dũng mãnh, một thiên tài quân sự trong lịch sử TQ.

________________________________________

Phi tướng quân Lý Quảng

 

Lý Quảng tòng quân từ tuổi thiếu thời, suốt đời chống trả Hung Nô. Ông tác chiến dũng mãnh, diệt được nhiều giặc, nên được Hán Văn Đế rất khen ngợi. Mấy năm sau, Hán Cảnh Đế lên ngôi, ông được phong làm Kỵ Lang Tướng, trở thành tướng quân kỵ binh hộ vệ bên cạnh Hán Cảnh Đế. Khi Ngô Vương và Sở Vương nổi loạn, Lý Quảng lúc đó với quan chức là kỵ binh Đô úy đã cùng Thái úy Chu Á Phu đi dẹp loạn, ông cướp được quân kỳ của quân phiến loạn dưới chân thành Xương Ấp, lập nên chiến công hiển hách. Sau khi dẹp loạn xong, Lý Quảng được điều đến làm Thái thú ở miền biên thùy tây bắc, để chống trả sự xâm lấn của Hung Nô.

Có một lần, Hung Nô tấn công vào Thượng Quận, Hán Cảnh Đế cử một người thân cận đến giúp Lý Quảng, trong khi người này cùng mười tên vệ sĩ ra ngoài dạo chơi thì chạm trán với ba kỵ binh Hung Nô, đám vệ sĩ đều bị bắn chết, còn viên thân tùy cũng bị trúng tên đang tháo chạy. Lý Quảng được tin bèn dẫn trăm kỵ binh ra cứu ứng, ông bắn chết hai tên Hung Nô, còn một tên bị bắt sống, nhưng khi ông vừa buộc tên tù binh lên ngựa, thì bỗng thấy mấy nghìn kỵ binh Hung Nô kéo tới, chúng chiến lĩnh trên một gò đất cao, các binh sĩ của Lý Quảng thấy vậy toan thúc ngựa bỏ chạy, Lý Quảng thét bảo rằng: "Chúng ta hiện cách xa đại quân những mười dặm, chạy thì tất chết, nếu ta không chạy thì bọn chúng sẽ lầm tưởng ta bày kế dụ địch, mà không dám tấn công chúng ta". Sau đó ông dẫn quân sấn vào đám kỵ binh Hung Nô, khi hai bên cách nhau chừng hai dặm, ông ra lệnh cho quân lính xuống ngựa, tháo bỏ yên cương. Quân Hung Nô thấy vậy chẳng hiểu ra sao, vội cử một tên sĩ quan ra thám thính, Lý Quảng phi ngựa ra trước trận, giương cung bắn chế tên này rồi ung dung quay ngựa trở về. Đến nửa đêm hôm đó, bọn Hung Nô nghi ngờ quân Hán sẽ đến tập kích, nên vội rút quân về.

Năm 140 trước công nguyên, Hán Võ Đế lên nối ngôi, lại điều Lý Quảng làm Vệ úy ở Vị Ương. Bốn năm sau, Khi Lý Quảng dẫn quân ra Nhạn Môn Quan, thì bị quân Hung Nô đông hơn gấp bội bao vây, vua Hung Nô vốn hâm mộ oai danh của Lý Quảng, nên ra lệnh cho quân lính bắt sống ông. Lý Quảng bị bắt làm tù binh, nhưng trên đường áp giải, ông đã phi thân đoạt ngựa quân địch, bắt chết nhiều tên kỵ binh đuổi theo, rồi cuối cùng trở về dinh quân Hán. Từ đó, ông được Hung Nô đặt danh hiệu là "Phi tướng quân của quân Hán". Sau khi về triều, Lý Quảng bị vua Hán cách quân chức, giáng xuống làm thứ dân.

Mấy năm sau, Hung Nô giết chết thái thú Liêu Tây, đánh bại tướng quân Hàn An Quốc. Hán Võ Đế lại phải nhiệm dụng Lý Quảng đến làm Thái thú Hữu Bắc Bình, quân Hung Nô được tin "Phi tướng quân" trấn giữ ở Hữu Bắc Bình, trong mấy năm trời không dám bén mảng tới.

Năm 120 trước công nguyên, Lý Quảng dẫn 4 nghìn kỵ binh tấn công Bắc Bình, phối hợp với Trương Khuyên đánh vào Hung Nô. Khi đoàn quân vừa đi được mấy trăm dặm thì đột nhiên bị Tả hiền vương Hung Nô dẫn 40 nghìn kỵ binh bao vây, quân Hán bị thiệt hại quá nửa, mà tên cũng đã bắn gần hết. Lý Quảng lệnh cho quân sĩ chỉ giương cung chứ không bắn, còn mình thì liên tục bắn chết mấy tướng lĩnh của Hung Nô, khiến quân Hung nô vô cùng hoảng sợ, không dám manh động. Hôm sau, chủ lực quân Hán kéo đến giải thoát Lý Quảng ra khỏi trùng vây.

Năm 119 trước công nguyên, khi đại tướng Vệ Thanh dẫn quân tiến đánh Hung Nô, Lý Quảng lúc đó đã hơn 60 tuổi cũng tham gia chiến dịch này. Vệ Thanh hỏi tù binh nắm được nơi trú quân của vua Hung Nô, ông muốn tự mình lập công, bèn ra lệnh cho Lý Quảng làm tiên phong dẫn quân đánh về hướng đông, còn mình thì chỉ huy quân đuổi bắt vua Hung Nô. Lý Quảng thấỵ đánh chẳng có kết quả gì, bèn hợp quân với đại tướng Triệu Thực Kỳ rời hướng đông, nhưng vì đường rất khó đi lại không có hướng đạo, nên bị lạc đường. Bấy giờ, Vệ Thanh đánh vào nơi trú quân của Hung Nô, vua Hung Nô trốn thoát. Vệ Thanh không lập được công cán gì, trên đường rút quân về thì gặp cánh quân của Lý Quảng. Vệ Thanh cử người đem rượu thịt đến khao thưởng Lý Quảng, và hỏi rõ nguyên do bị lạc đường. Khi Vệ Thanh gặp Thiên tử liền đổ hết tội để vua Hung Nô trốn thoát lên đầu tướng quân Triệu Thực Kỳ, nhưng bị Lý Quảng cựa lực phản đối. Vệ Thanh tức tối liền sai người đến sức quan viên thuộc hạ của Lý Quảng đến trung quân hỏi tội. Lý Quảng nói: "Các ông có tội gì, việc bị lạc đường là tại tôi, vậy tôi tự đi chịu tội". Khi người của Vệ Thanh vừa đi khỏi, Lý Quảng nhìn các bộ tướng đã vào sinh ra tử với mình trong nhiều năm, bèn ngửa mặt than rằng: "Tôi tòng quân từ thuở niên thiếu, đánh với Hung Nô có hơn 70 trận lớn nhỏ, ngờ đâu lại bị đại tướng quân quá bức như vậy, nay tôi tuổi đã hoa râm, thật không thể nào chịu được nỗi nhục này ". Lý Quảng nói xong liền rút kiến tự sát.

________________________________________

Lã hậu chi loạn

 

Năm 201 trước công nguyên, Lưu Bang lập nên vương triều Tây Hán, tức Hán Cao Tổ, rồi đón vợ là Lã Trĩ đến Tràng An lập làm Hoàng hậu. Lã hậu là một người cương nghị và giàu mưu lược, từ khi còn ở Phong Bái đã giúp Hán Cao Tổ đánh dẹp thiên hạ, lập chiến công hiển hách trong việc thiết lập giang sơn của Lưu Thị, bà còn nhiều lần bày mưu kế cho Hán Cao Tổ chu diệt các đại thần có công, bình định các cuộc phiến loạn của vua chư hầu, trừ được mối hiểm họa cho thiện hạ của nhà họ Lưu.

Lưu Doanh con của Lã Hậu tuy là con trai thứ, nhưng đã được Lưu Bang lúc xưng đế lập làm Thái Tử. Lưu Doanh là người khoan hậu, lương thiện, nhưng tính nết lại rất nhu nhược. Bấy giờ Lưu Bang sủng ái Thích phu nhân, nhà vua đã mấy lần muốn phế bỏ Lưu Doanh, để lập Triệu vương Lưu Như Ý là con trai của Thích phu nhân làm Thái Tử, nhưng bị Lã Hậu và các đại thần nhiều lần khuyên can, nên đành phải gác lại.

Năm Lưu Doanh lên ngôi vua mới chỉ có 17 tuổi, vẫn còn là một thiếu niên lại nhu nhược bất tài, nên đại quyền thiên hạ của nhà Hán đều do Hoàng thái hậu Lã Trĩ nắm giữ, lịch sử TQ kể từ đó bắt đầu tiến vào thời đại Lã hậu.

Lã hậu nham hiểm và độc ác, sau khi Huệ đế lên ngôi, bà liền lập tức hà hiếp kẻ tình địch của mình, là hai mẹ con Thích phu nhân và Lưu Như Ý. Năm 194 trước công nguyên, bà triệu Lưu Như Ý vào kinh rồi toan ám hại. Huệ đế biết được việc này, bèn tự mình đón Lưu Như Ý vào cung, rồi hai anh em cùng ăn cùng ngủ để che chở cho Lưu Như Ý. Vào một buổi sáng, khi Huệ đế chuẩn bị ra ngoài tập bắn cung, thấy Lưu Như Ý vẫn còn đang ngủ say thì không tiện gọi cùng đi, nhưng khi trở về thì thấy Lưu Như Ý bị trúng độc nằm chết trên giường.

Ít lâu sau, Lã hậu lại cho chặt hết chân tay của Thích phu nhân, khoét mắt, hun điếc tai, bắt uống thuốc cấm họng, đem quăng vào chuồng lợn gọi là "Nhân Phệ", tức người lợn, rồi bảo Huệ đế đến xem. Huệ đế vừa nhìn thì nhận ra Thích phu nhân, lòng dạ vô cùng kinh hoàng, đau đớn than khóc, về sau bị bệnh nặng nằm liệt giường đến hơn một năm trời. Nhà vua sai người đến nói với Lã hậu rằng: "Đây không phải việc người làm, thần là con trai của Thái hậu, không thể nào trị được thiên hạ", rồi từ đó suốt ngày chỉ uống rượu vui chơi, không hỏi han đến chính sự, toàn bộ quyền lớn nhà nước đều giao cho mẫu hậu. Lưu Doanh làm vua bù nhìn được 7 năm, đến tháng 8 năm 188 trước công nguyên thì lâm bệnh mất tại cung Vị Ương Tràng An, bấy giờ mới chỉ 24 tuổi.

 

________________________________________

Tiêu Tào lưỡng tướng quốc

 

Tiêu Hà và Tào Tham trước đây đều làm quan lại ở huyện Bái, cùng theo Hán Cao Tổ khởi binh. Tào Tham là nguyên huân dựng nước Tây Hán, chiến công hiển hách, thương tích đầy mình, nên có khá đông người tỏ ra rất bất bình trước việc cấp bậc ông còn thấp hơn Tiêu Hà, từ đó dẫn đến mối quan hệ giữa hai người ngày một lạnh nhạt, nhưng Tiệu Hà biết rất rõ Tào Tham là một nhân tài trị nước, nên vẫn đề cử với Hán Huệ Đế cho Tào Tham sang nước Tề làm tướng quốc.

Sau khi đến nước Tề, Tào Tham bèn lập tức triệu tập các trưởng giả và một số phần tử tri thức có tài cán ở địa phương lại, khiêm tốn hỏi ý kiến họ nên làm thế nào quản lý tốt nhân dân và xây dựng nhà nước đã bị chiến tranh tàn phá. Do số người này đông tới mấy trăm người, mà mỗi người đều trình bày theo nhận thức riêng của mình, nên các biện pháp được nêu ra cũng rất khác nhau, khiến Tào Tham cảm thấy rất lúng túng, chưa biết nên bắt đầu từ đâu.

Giữa lúc đó, có một người mách với ông rằng, ở ngoại ô phía tây có một người tên là Cái Công rất giỏi về nghiên cứu học thuyết "Vô vi nhi trị", rất có tài trị nước. Tào Tham nghe xong bèn lập tức cử người đem theo nhiều lễ vật đi mời Cái Công đến. Khi Cái Công đến nơi,Tào Tham kính cẩn hành lễ, thỉnh giáo đạo trị thế yên dân. Cái Công thấy Tào Tham thật lòng như vậy, bèn kiến nghị áp dụng biện pháp "Thanh tĩnh vô vi" để quản lý nước Tề lúc bấy giờ.

Cái Công nói: "Chỉ cần quan trên thanh tĩnh, không sinh sự, không nhiễu dân, thì dân chúng tự nhiên sẽ sinh sống yên ổn. Chỉ có như vậy, kinh tế xã hội mới được khôi phục và phát triển, mới quản lý tốt được nhà nước". Tào Tham nghe xong vô cùng mừng rỡ, bèn lưu Cái Công ở lại nước Tề, để tiện khi hỏi mưu kế trị nước.

Hán Huệ Đế lên ngôi được hai năm thì Tiêu Hà lâm bệnh nặng, ông lại lần nữa tiến cử Tào Tham đến thay mình đảm nhiệm chức vụ thừa tướng. Tào Tham được điều đến triều đình vẫn duy trì tác phong như trước, vô vi nhi trị.

________________________________________

Bá vương biệt Cơ

 

 

Lưu Bang đã nhân cơ hội Hạng Vũ đang chinh phạt Điền Vinh nước Tề, bèn xuất binh từ Quan Trung đánh chiếm được Bành Thành- đô thành của Hạng Vũ, rồi chia quân cho Hàn Tín và Trương Nhĩ chinh chiến với Yến, Triệu. Còn Bành Việt dẫn quân đến Hoài Nam quấy nhiễu đường vận lương của quân Sở. Hạng Vũ được tin vô cùng giận dữ, vội vàng dẫn 30 nghìn tinh binh về vây đánh Bành Thành. Trải qua mấy trận kịch chiến, Lưu Bang bị thất bại thảm hại, mấy chục nghìn quân bị thiệt hại quá nửa, cha và vợ đều bị quân Sở bắt làm tù binh.

Lưu Bang lui giữ ở vùng Dinh Dương, Thành Cao, lại bị Hạng Vũ Tấn công, nên chẳng còn cách nào khác, đành phải cầu hòa với Hạng Vũ. Hạng Vũ đã toan đồng ý thì bị mưu sĩ Phạm Tăng phản đối. Lưu Bang thấy cầu hòa không xong, liền áp dụng kế phản gián của mưu sĩ Trần Bình, khiến Phạm Tăng bị giết chết, giảm được sức ép cho quân Hán. Sau đó hai bên cầm cự nhau trong hơn hai năm trời.

Năm 203 trước công nguyên, Hạng Vũ dẫn quân đánh Bành Việt để bảo đảm thông suốt đường vận lương, trước khi đi có dặn Tào Tư viên tướng ở lại giữ thành Thành Cao là không được giao chiến với quân Hán, nhưng nào ngờ Hạng Vũ vừa đi khỏi thì Lưu Bang dẫn quân kéo đến, ban đầu Tào Tư chỉ trấn giữ thành trì không ra nghênh chiến, về sau thật không thể nào chịu nổi quân Hán ngày nào cũng kéo đến chửi mắng, xỉ nhục, bèn quyết định vượt qua sông Phiếm Thủy, để quyết một trận tử chiến với quân Hán. Nhưng quân Sở vừa qua sông được một nửa thì bị quân Hán đánh cho một trận tơi bời, Tào Tư phải rút kiếm tự sát. Còn bên kia, Hạng Vũ đang đánh trận nào thắng trận ấy, khi được tin Thành Cao đã thất thủ, vội kéo quân trở về rồi hai bên đối trận nhau ở Quảng Võ, bấy giờ Hạng Vũ cho áp giải cha của Lưu Bang ra trước trận, khuyên gọi Lưu Bang đầu hàng, bằng không thì sẽ giết chết Lưu Thái Công. Lưu Bang lớn tiếng đáp rằng: "Hai chúng ta đã từng là anh em, cha của tôi cũng là cha anh, nếu anh muốn giết cha anh để nấu canh thì hãy cho tôi xin một bát nếm thử". Hạng Vũ thấy dọa không nổi, bèn bắn một mũi tên làm Lưu Bang bị thương, Lưu Bang dặn quân Hán giữ vững trận địa, rồi lui về Thành Cao dưỡng bệnh. Lúc này, Hàn Tín và Trương Nhĩ đã thu được toàn thắng ở đất Tề, còn Bành Việt cũng đã cắt đứt được đường vận lương của quân Sở, Hạng Vũ đang tiến thoái lưỡng nan, thì thấy Lưu Bang cử Lục Giả đến xin cầu hòa, yêu cầu thả cha và vợ của Lưu Bang về. Đồng thời kiến nghị lấy hào sâu làm biên giới, phía tây thuộc Lưu Bang, phía đông thuộc Hạng Vũ. Hạng Vũ nhận lời rồi thả người về. Nhưng nào ngờ đây là kế hoãn binh của Lưu Bang, quân mã của Hạng Vũ bị vây khốn ở Cai Hạ. Hạng Vũ đã mấy lần phá vây đều bị thất bại. Ngu Cơ vợ của Hạng Vũ tuy theo chồng nam chinh bắc chiến, nhưng chưa thấy trận ác chiến nào rùng rợn như trận Cai Hạ. Vào lúc chập tối, nàng thấy chồng mũ giáp nhuộm đầy máu trở về, liền vội vàng bày tiệc rượu, nhưng Hạng Vũ chẳng thiết ăn uống gì, rồi lên giường ngủ. Vào lúc nửa đêm, bỗng nghe tiếng hát nước Sở thảm thiết, thê lương, bay theo gió vang vọng khắp đại doanh quân Sở, tiếng hát ấy nỉ non như khuyên nhủ, như than khóc, lúc xa lúc gần, gợi cho Quân Sở nỗi nhớ quê nhớ nhà da diết, họ tới tấp rủ nhau bỏ trốn, các đại tướng Hạng Bá, Chung Ly Vị, Quý Bố v v, cũng đều bỏ đi cả. Trong tiếng hát ấy, Hạng Vũ thẫn thờ bước ra ngoài trướng, bấy giời chỉ còn lại 800 binh sĩ trung thành đang bảo vệ quanh trướng, con ngựa Ô Truy cứ hí lên như xé, ngoảnh đầu nhìn vào trong trướng thấy nàng Ngu Cơ, người vợ thủy chung của mình đang đứng bên ngọn đèn dầu le lói, Hạng Vũ lòng dạ rối bời, đau đớn. Nàng Ngu Cơ thấy chồng như vậy bèn rút kiếm ra vừa múa vừa hát, rồi tự sát.

________________________________________

Tiêu Hà đêm trăng đuổi Hàn Tín

 

 

 

Hàn Tín người Hoài Âm, xuất thân nghèo khổ, thời niên thiếu vì thiếu ăn thiếu mặc phải đi lừa ăn lừa uống, nên bị mọi người khinh thường. Một hôm, một người thợ mổ lăng nhục Hàn Tín trước mặt mọi người rằng: "Anh to xác như vậy mà cũng đi học đòi con chó đeo kiếm dài, nếu có giỏi thì hãy giết chết tôi, bằng không thì hãy chui qua háng tôi mà đi". Hàn Tín nghe xong chẳng nói chẳng rằng, do dự hồi lâu rồi chui qua háng người thợ mổ đi thẳng, mọi người nhìn thấy đều cười riễu cợt Hàn Tín.

Bấy giờ, làn sóng phản Tần ngày một dâng cao, Hàn Tín đi theo Hạng Vũ, nhưng vì không được trọng dụng bèn quyết định bỏ đi để tìm chủ khác.

Lưu Bang- một trong 18 đạo quân chư hầu là người khiến Hạng Vũ gờm kỵ nhất, nên Hạng Vũ đã chia phong cho Lưu Bang vùng đất Nam Trịnh, một miền đất xa xôi hẻo lánh ở khu vực Ba Thục và Hán Trung, xưng là Hán Vương, đồng thời còn phong khu vực Quan Trung cho Chương Đan để kiềm chế Lưu Bang. Vì thế lực yếu kém không thể so đọ với Hạng Vũ, nên Lưu Bang chỉ lặng lẽ dẫn quân bản bộ đi sang Nam Trịnh.

Hán vương Lưu Bang đến Nam Trịnh, liền phong Tiêu Hà làm thừa tướng, Tào Tham, Hạ Hầu Anh, Phàn Khoái, Chu Bột v v làm tướng quân, chiêu binh mãi mã, nghỉ ngơi dưỡng sức để chuẩn bị sau này tranh giành thiên hạ với Hạng Vũ. Bấy giờ Hàn Tín nhậm chức hiệu úy dưới trướng Lưu Bang. Nhằm đánh lừa Hạng Vũ, để chứng tỏ mình rất yên tâm ở lại Hán Trung, Lưu Bang đã làm theo mưu kế của Trương Lương đốt bỏ đường sàn gỗ thông sang Quan Trung, do đó các binh sĩ vì nhớ quê hương đều rủ nhau đào ngũ, khiến Hán vương lo lắng ăn không ngon, ngủ không yên.

Một hôm, bỗng nghe báo thừa tướng Tiêu Hà đã bỏ trốn, Lưu Bang sửng sốt không hiểu ra sao, thì ba ngày sau lại thấy Tiêu Hà trở về, Lưu Bang nổi giận trách hỏi rằng: "Vì sao ông lại chạy trốn?". Tiêu Hà đáp: "Tôi không chạy trốn, mà là đi đuổi bắt người chạy trốn đó thôi ". Lưu Bang hỏi đuổi bắt ai thì Tiêu Hà đáp là Hàn Tín. Lưu Bang đùng đùng nổi giận mắng rằng: "Nay đã chạy mất mười mấy tướng quân, mà chưa hề nghe thấy ông đi đuổi, vì sao ông lại đi đuổi mỗi thằng vô danh tiểu tốt như Hàn Tín". Tiêu Hà đáp rằng: "Nghìn quân dễ được, một tướng khó tìm, một tướng quân như Hàn Tín trên đời chỉ có một, nếu đại vương cam chịu ở lại đất Hán Trung này suốt đời thì chớ dùng Hàn Tín, nhược bằng muốn đông tiến giành giật thiên hạ thì không thể không dùng Hàn Tín".

Lưu Bang nghe vậy liền cho tìm Hàn Tín đến phong làm đại tướng. Theo mưu kế của Hàn Tín, Lưu Bang đã nhanh chóng chiếm lĩnh được Tam Tần, giết chết Chương Đan, rồi nhân khi Hạng Vũ còn đang bận đánh Điền Dung, Lưu Bang dẫn quân đoạt cửa ải, chiếm được đô thành Tây Sở- Bành Thành, sau đó lại ra lệnh cho Hàn Tín và Trương Nhĩ bắc tiến, chiếm được địa bàn của Hàn,Triệu. Mấy chục nghìn quân của Hàn Tín và Trương Nhĩ đã áp sát nước Triệu.

Hàn Tín đóng quân tại nơi cách Tỉnh Kinh Khẩu, doanh trại của đại quân nước Triệu chưa đầy 30 dặm. Nửa đêm hôm đó, Hàn Tín ra lệnh cho hai ngàn kỵ binh, mỗi người cầm một lá cờ đỏ nấp sẵn ở trong núi, dặn họ đợi khi nào quân Triệu thấy quân Hán rút lui rồi đuổi theo, thì sang cướp trại quân Triệu, nhổ hết cờ của quân Triệu, cắm cờ của quân Hán lên. Sau đó, Hàn Tín còn điều 10 nghìn quân mã bày trận bên bờ sông, quân Triệu thấy vậy đều chê cười Hàn Tín. Khi trời gần sáng, Hàn Tín ra lệnh rút quân, quân Triệu quả nhiên đuổi theo, quân Hán vừa đánh vừa lui ra bờ sông, cùng hợp với 10 nghìn quân đóng ở đó, nâng số quân lên tới 200 nghìn người. Do phía sau là sông, lại không có cầu thuyền, nên quân Hán chỉ có một lối thoát là xông pha chém giết mở một con đường máu, nên khí thế tăng lên gấp bội. Trong lúc giao chiến, quân Triệu nhìn thấy doanh trại của mình đều cắm toàn là cờ đỏ của quân Hán, cứ tưởng là vua Triệu đã bị bắt, đều vô cùng hoang mang, nên bị quân của Hàn Tín đánh cho tan tác. Hàn Tín chỉ một trận san bằng đất Yến, Triệu, ít lâu sau lại chiếm được Tam Tề, cho mãi tới khi giúp Lưu Bang đánh bại được Hạng Vũ.

Sau khi lên làm vua, Lưu Bang không muốn duy trì chức vị cao của các công thần dựng nước. Trước đó, Lưu Bang đã khuyên Hàn Tín giao lại binh quyền, đổi phong làm Sở Vương. Ít lâu sau, Chung Ly Vị một viên đại tướng của Hạng Vũ do bị triều đình nhà Hán truy nã, mới đến trốn trong nhà Hàn Tín, Lưu Bang biết được, Hàn Tín chẳng còn cách nào khác đành phải nói lại với Chung Ly Vị, Chung Ly Vị uất ức liền rút kiếm tự sát.

Hàn Tín xách thủ cấp của Chung Ly Vị đến gặp Lưu Bang, Lưu Bang thấy vậy tức tối nói: "Ông chạy biệt tăm đi đâu mà bây giờ mới đến tự thú, muộn rồi", nói xong bèn ra lệnh cho võ sĩ trói Hàn Tín lại để trị tội. Các đại thần khuyên mãi, Hàn Tín mới khỏi chết và bị giáng làm Hoài Âm Hầu. Mấy năm sau, nhân khi Lưu Bang xuất binh chinh chiến, vợ Lưu Bang là Lã Hậu đã cùng Tiêu Hà bày mưu lừa Hàn Tín đến Tràng An, bắt giam trong buồng kín rồi sát hại. Thế mới thật là: "Thành sự tại Tiêu Hà, bại sự cũng tại Tiêu Hà".

________________________________________

Hồng môn yến kinh hồn bạt vía

 

 

Trong phong trào khởi nghĩa chống Tần, đạo quân khởi nghĩa ở huyện Bái do Lưu Bang lãnh đạo là một lực lượng không thể coi nhẹ. Lưu Bang tự Quý người xã Phong, huyện Bái, ông đã tụ tập hơn trăm người chiếm cứ trên núi Mang Đãng.

Ít lâu sau, Lưu Bang được tin Trần Thắng và Ngô Quảng khởi nghĩa, bèn cử người sang liên hệ với hai người bạn của mình đang làm huyện lại là Tiêu Hà và Tào Tham, họ giết chết quan huyện, chiếm lấy huyện lỵ, nhanh chóng tụ tập được hai ba nghìn quân, Trương Lương ở Lưu Thành cũng dẫn hơn 100 người đến xin theo, Lưu Bang nghe theo lời kiến nghị của Trương Lương, đã dẫn quân đi theo Hạng Lương.

Sau khi Hạng Vũ đánh bại quân Tần ở Cự Lộc, biên chế hàng binh của Chương Đan, từ đó trở nên rất kiêu ngạo, khi được tin Lưu Bang đã chiếm được Hàm Dương, Hạng Vũ vô cùng bực tức, bèn dẫn quân đánh thẳng sang cửa ải Hàm Cốc, quân của Lưu Bang quá ít, nên quân của Hạng Vũ đã nhanh chóng chiốm được cửa ải, ̣đánh thẳng một mạch đến Hồng Môn mới đóng quân lại, nơi này chỉ còn cách nơi đóng quân của Lưu Bang hơn 40 dặm. Khi Hạng Vũ bàn cách đối phó với Lưu Bang thì mưu sĩ Phạm Tăng trả lời rằng: "Lưu Bang là một tên vô lại, nay hắn chiếm được Hàm Dương, mà không hề tham của và mỹ nữ, quá đó đủ biết dã tâm của hắn không nhỏ, nếu không trừ bỏ hắn đi thì tất để vạ về sau ."

Hạng Vũ nghe vậy bèn hạ quyết tâm tiêu diệt Lưu Bang. Hạng Bá chú của Hạng Vũ và Trương Lương thuộc hạ của Lưu Bang vốn là đôi bạn tri giao. Lưu Bang bèn nhờ Trương Lương mời Hạng Bá đến, nó rõ mình không dám phản đối Hạng Vũ, mong Hạng Bá về nói hộ và khuyên Hạng vũ chớ nên xuất binh. Đồng thời còn bảo Trương Lương làm mối, đem con gái mình gả cho con trai của Hạng Bá. Hạng Bá vui mừng rồi tỏ ý sẽ tiến dẫn Lưu Bang đến xin lỗi Hạng Vũ.

Hôm sau, Lưu Bang dẫn theo Trương Lương, Phàn Khoái, gồm hơn 100 người đến Hồng Môn xin lỗi Hạng Vũ. Lưu Bang thành khẩn nói với Hạng Vũ rằng: "Tôi và tướng quân cùng khởi binh diệt Tần, tướng quân đánh Hà Bắc, tôi đánh Hà Nam, tôi may mắn tiến vào cửa ải trước, nhưng tôi vẫn ngày đêm mong tướng quân đến, chứ đâu có ý kháng cự với tướng quân? Ngay đến việc vua Tần đầu hàng, tôi cũng còn đợi tướng quân đến giải quyết, mong tướng quân chớ có nghe lời đồn nhảm". Hạng Vũ nghe vậy lửa giận cũng bớt đi một phần, rồi cười phá lên rằng: "Tôi vốn không nghi ngờ Bái Công, cũng chỉ vì thủ hạ của Bái Công tung tin, nên tôi mới nghĩ vậy thôi. " Hạng Vũ nói xong liền nắm tay Lưu Bang giảng hòa, rồi ra lệnh bày tiệc tiếp đãi Lưu Bang. Phạm Tăng biết Lưu Bang là người túc chí đa mưu, vốn muốn nhân cơ hội này để trừ đi cho đỡ hậu hoạn, nhưng nào ngờ Hạng Vũ lại không làm như đã bàn, mà còn nói năng rất vui vẻ.

________________________________________

Tây Sở bá vương Hạng Vũ

 

 

 

Sau khi Trần Thắng và Ngô Quảng dựng cờ khởi nghĩa tại Đại Trạch Hương, các nơi trong nước đều tới tấp nổi dậy hưởng ứng, Trần Thắng cử binh mã tiếp ứng các đạo nghĩa quân. Nhưng do trận tuyến quá dài, hiệu lệnh lại không thống nhất, nên các quý tộc cũ của 6 nước đã nhân cơ hội này chiếm cứ địa bàn rồi tự xưng vương, cơ bản không ủng hộ nghĩa quân, thêm vào đó, vương triều nhà Tần vốn lung lay đến tận gốc đã cử đại tướng Chương Đan, huy động toàn bộ quân đội điên cuồng đánh trả, nghĩa quân bị thiệt hại nặng nề. Ít lâu sau, Trần Thắng và Ngô Quảng lãnh tụ của nghĩa quân lần lượt bị bọn phản bội và thuộc hạ sát hại.

Trần Thắng và Ngô Quảng tuy bị hại, nhưng ngọn lửa phản Tần do họ thắp lên vẫn chưa bị dập tắt, hơn nữa càng cháy càng to, mà thanh thế lớn nhất là cuộc nổi dậy ở quận Cối Kê, thủ lĩnh của họ là Hạng Lương con trai của đại tướng nước Sở Hạng Yến, cùng cháu là Hạng Vũ. Hạng Vũ từ nhỏ mồ côi cha mẹ, do chú là Hạng Lương nuôi dạy khôn lớn. Hạng Vũ vóc người vạm vỡ, sức vác ngàn cân, nhưng lại không thích học hành. Hạng Lương bắt phải học nhưng học được mấy ngày lại thôi, lại dạy kiếm thuật nhưng chỉ được mấy bữa lại bỏ, Hạng Lương nổi giận mắng nhiếc thì Hạng Vũ điềm nhiên trả lời rằng: "Học thì được cái tích sự gì, chẳng qua là biết viết họ tên mà thôi, còn luyện kiếm thuật thì cùng lắm cũng chỉ chém giết được mấy đứa, điều tôi muốn học ở đây là tài năng thực sự có thể chống đỡ hàng trăm nghìn quân mã". Hạng Lương nghe vậy cảm thấy thằng cháu này có chí lớn, bèn đem binh thư chiến sách tổ truyền ra cho Hạng Vũ học, Hạng Vũ rất thông minh, nhìn qua là biết, nhưng cũng chỉ học qua loa, chứ không chịu đi sâu nghiên cứu.

Hạng Lương vốn người Hạ Tướng, nhưng vì đánh chết người, nên hai chú cháu phải chạy trốn đến sống ẩn cư ở đất Ngô Trung quận Cối Kê, thanh niên địa phương thấy họ biết chữ nghĩa và võ nghệ đều đến làm quen, Hạng Lương lại dạy họ học binh pháp và võ nghệ. Một hôm, Tần Thủy Hoàng xuống miền nam thị sát đi qua Ngô Trung, dân chúng địa phương đều kéo nhau ra xem, Hai chú cháu Hạng Lương cũng đứng trong đám đông, khi đội danh dự của Tần Thủy Hoàng đang nầm rộ đi qua trước mặt, Hạng Vũ liền buột miệng nói: "Chúng ta cũng có thể thay thế người này". Hang Lương nghe vậy sợ đến tái mặt, vội lấy tay bịt miệng Hạng Vũ khẽ nói: "Đừng có mà nói bừa bãi, người ta tố giác thì sẽ bị giết cả họ đó". Cũng vào năm đó, Trần Thắng và Ngô Quảng phát động khởi nghĩa, Hạng Lương cho rằng thời cơ báo thù đã đến, hai chú cháu cùng giết chết quận thú Cối Kê, rồi triệu tập 8 nghìn đệ tử ở Ngô Trung nổi dậy chống lại triều đình nhà Tần.

Hai chú cháu dẫn 8 nghìn đệ tử vượt qua sông Trường Giang đánh chiếm được Quảng Lăng, rồi vượt sông Hoài tiến lên miền bắc. Trên đường đi đã thu nạp một số lực lượng chống Tần của Lưu Bang, Anh Bố, Lã Thần, Trần Anh v v, khiến số quân tăng đến bảy tám mươi nghìn người. Hạng Lương còn đón cháu của vua Sở đến xưng làm Sở Hoài Vương, rồi mở một trận kịch chiến với quân Tần ở Định Đào, Hạng Lương bị thua to rồi chết trận, Hạng Vũ và Lưu Bang đành phải rút quân về trấn giữ ở Bành Thành. Tướng Tần Chương Đan đánh bại xong quân Sở, lại ngược lên hướng bắc tiến đánh Triệu Yết, Triệu Yết chống đỡ không nổi vội cầu cứu với Sở Hoài Vương, nên Tống Nghĩa và Hạng Vũ được cử đi cứu.

Tống Nghĩa là một tên hèn nhát, khi thấy thanh thế quân Tần quá lớn mạnh, hắn chỉ lo chốt giữ ở An Dương chứ không chịu tiến lên, Hạng Vũ nói với Tống Nghĩa rằng: "Cứu binh như cứu hỏa, quân Tần bao vậy Cự Lộc, vua Triệu khác nào như cá trong giỏ, chúng ta phải nhanh chóng vượt qua sông, hai bên trong ứng ngoài hợp thì quân Tần tất bị đánh bại". Nhưng Tống Nghĩa không chịu nghe theo. Hạng Vũ nổi giận liền giết chết Tống Nghĩa, rồi cắt lấy thủ cấp giơ lên nói với các tướng sĩ rằng: "Tống Nghĩa phản bội vua Sở, nên tôi đã thừa lệnh giết chết hắn". Các tướng sĩ phần lớn đều là thuộc hạ của Hạng Lương, nên họ đều đồng ý nghe theo lệnh của Hạng Vũ, tức thì Hạng Vũ cử Anh Bố và Phổ tướng quân dẫn 20 nghìn quân làm tiên phong, vượt qua sông Chương chiếm lấy bờ bên, cắt đứt đường vận lương của quân Tần, sau đó Hạng Vũ mới dẫn quân chủ lực vượt qua sông.

Sau khi qua sông, Hạng Vũ lệnh cho quân sĩ chuẩn bị ba ngày lương khô, đập vỡ hết nồi niêu, chọc đắm hết thuyền bè, rồi nói với các tướng sĩ rằng: "Trận đánh này chỉ có tiến chứ không có lùi, nội trong ba ngày phải đánh bại quân Tần để giải vây cho Cự Lộc". Việc làm này của Hạng Vũ đã cổ vũ mạnh mẽ tinh thần chiến đấu của các tướng sĩ, trải qua 9 lần kịch chiến, quân của Hạng Vũ đánh cho quân Tần một trận tan tác chim muông. Bấy giờ, các đạo quân quý tộc cũ của các nước trước đó đến cứu Triệu, đứng trên thành nhìn xuống cũng phải khiếp đảm. họ không dám đánh ra, mà đợi tới khi quân Tần bị đánh tan rồi mới tới tấp đến theo Hạng Vũ. Sở Hoài Vương bèn phong Hạng Vũ làm thượng tướng, chỉ huy toàn bộ các đạo quân phản Tần.

Trong trận đánh Cự Lộc, Hạng Vũ đã tiêu diệt được chủ lực của quân Tần, đã xoay chuyển được cục diện chiến tranh phản kháng triều nhà Tần.

________________________________________

Trần Thắng và Ngô Quảng dựng cờ khởi nghĩa

 

 

 

 

Tần Thủy Hoàng đã hao công tốn của vào việc xây đắp trong nhiều năm, nhằm xây dựng Trường Thành, nhà vua đã huy động hàng triệu dân phu và binh sĩ, đồng thời còn điều động 700 nghìn tù nhân đi xây dựng cung A Phòng, một cung điện hào hoa tráng lệ nhất lúc bấy giờ. Năm 210 trước công nguyên, Tần Thủy Hoàng băng hà trên đường đi thị sát, con trai thứ 18 là Hồ Hợi lên nối ngôi, tức Tần Nhị Thế, dưới sự dung túng và lường gạt của tên gian thần Triệu Cao, Hồ Hợi lại càng thêm táo tợn hơn, đã điều động mấy trăm nghìn dân phu và thợ đá đi xây dựng lăng mộ Tần Thủy Hoàng, lăng mộ còn chưa xây xong, lại điều mấy trăm nghìn dân phu và tù nhân đi xây dựng mở rộng cung A Phòng. Bấy giờ dân số cả nước chưa đầy 20 triệu, mà số lao dịch và binh dịch đã chiếm hơn 3 triệu người, làm lãng phí biết bao nhân lực và tài lực, phá hoại sản xuất nông nghiệp, nhân dân không được nghỉ ngơi dưỡng sức nên vô cùng căm tức.

Năm 209 trước công nguyên, đất Dương Thành bị điều động hơn 900 người đi Ngư Dương trấn giữ biên cương, nhằm quản lý số người này, hai tên quan quân áp giải đã chọn hai người binh phu mẫn cán làm đồn trưởng để giúp việc, một người tên là Trần Thắng người Dương Thành, còn một là Ngô Quảng người Dương Hạ. Hai người vốn không quen biết nhau, nhưng vì cùng là đồng hành và cùng là đồn trưởng, nên họ đã trở thành đôi bạn thân.

Đường từ Dương Thành tới Ngư Dương dài mấy nghìn dặm, bấy giờ đang là mùa mưa, đường bị ngập nước lầy lội rất khó đi, mà theo pháp lệnh thời bấy giờ, nếu không đến tập trung đúng thời hạn thì số người này tất bị giết chết. Nhưng khi đoàn người đến xã Đại Trạch thì trời mưa tầm tã, đường đi bị nước cuốn trôi không còn lối đi, họ đành phải vào nghỉ trong một ngôi miếu hoang để đợi mưa tạnh rồi tiếp tục đi. Nhưng nào ngờ trận mưa này kéo dài tới mười mấy hôm. Trần Thắng biết đã bị nhỡ thời hạn, bèn lén bàn với Ngô Quảng rằng: "Nơi này cách Ngư Dương còn rất xa, dù có tạnh mưa thì cũng chẳng đến kịp, lẽ nào chúng ta cứ chịu giương cổ để người ta chặt ư ?". Ngô Quảng nói: " Hay là chúng ta trốn đi còn hơn là đâm đầu vào chỗ chết". Trần Thắng nói: "Chạy trốn mà bị chúng bắt được thì cũng bị giết chết, chi bằng ta làm phản còn hơn, nếu không thành công thì cùng lắm cũng là chết chứ gì". Ngô Quảng đồng ý, rồi hỏi Trần Thắng nên bắt đầu từ đâu. Trần Thắng suy nghĩ hồi lâu rồi đáp rằng: " Nghe nói vua Tần Nhị Thế là con út của Tần Thủy Hoàng, hắn đã đoạt vương vị của anh cả là Phù Tô, mà Phù Tô là một người trung hậu nhân nghĩa, rất có uy tín trong nhân dân, mọi người còn chưa biết Phù Tô phải chăng đã bị hại. Còn Hạng Yến là một danh tướng nước Sở, từng lập nhiều chiến công và được người nước Sở rất kính trọng, hiện cũng chẳng ai biết ông ta còn sống hay đã chết. Nay ta giả mượn danh nghĩa của hai người này, kêu gọi người nghèo trong thiên hạ cùng làm phản, người nước Sở nhất định sẽ hưởng ứng". Ngô Quảng vô cùng tán thành, rồi hai người cùng mật bàn kế sách với nhau.

Ngày hôm sau, người đầu bếp đi chợ mua về một con cá, khi mổ cá ra thì thấy bên trong có một miếng vải lụa, trên viết ba chữ "Trần Thắng Vương" bằng son đỏ, mọi người đều kháo nhau về việc này. Đêm hôm đó, trên bụi cây cạnh miếu bỗng có ánh sáng lượn lờ như ma chơi, rồi nghe tiếng con cáo nhại tiếng người kêu to: "Đại Sở hưng, Trần Thắng vương". Mọi người nghe vậy đều hú vía, họ bàn tán xôn xao và cho rằng đây là trời sai Hồ Tiên đến báo tin, nên ngày hôm sau họ cùng kéo nhau đến xem mặt Trần Thắng, thấy tướng mạo Trần Thắng na ná như chân long thiên tử, thêm vào đó Trần Thắng thường ngày đối xử tốt với mọi người, nên họ càng thêm kính trọng Trần Thắng.

Chiều tối hôm đó, Ngô Quảng nhân thấy hai tên quan quân áp giải say rượu liền nói với họ rằng: "Nay dù sao cũng đã quá hạn rồi, vậy xin hai ông hãy để chúng tôi về ", hai người nghe vậy vô cùng tức giận, một người vung roi quất vào mặt Trần Thắng, còn một người rút kiếm ra chỉ chỏ hăm dọa, mọi người thấy vậy đều xô tới, Trần Thắng thấy vậy liền nhanh tay đoạt lấy thanh kiếm rồi đâm chết hắn, còn tên kia cũng bị Ngô Quảng đánh chết.

Trần Thắng và Ngô Quảng thấy mọi người đã đồng lòng với nhau, bèn quyết định lập tức khởi nghĩa, ông cử một tốp người vào rừng đẵn gỗ chặt tre để làm khí giới, còn một tốp đào đất đắp đàn tế, khâu một lá cờ trên viết một chữ Sở to bằng cái đấu, rồi mọi người cùng làm lễ ăn thề, Trần Thắng và Ngô Quảng được bầu làm thủ lĩnh, đoàn người nhanh chóng đánh chiếm được xã Đại Trạch, nông dân các nơi nghe tin, người thì đem lương thực đến úy lạo, kẻ thì vác mai cuốc đến tham gia quân khởi nghĩa, khiến số người tăng lên đông gấp mấy lần, Trần Thắng đổi hiệu xưng vương ở huyện Trần và lập quốc hiệu là "Trương Sở".

Sau khi Trần Thắng và Ngô Quảng dựng cờ khởi nghĩa, các nơi trong cả nước đều tới tấp hưởng ứng, một cuộc khởi nghĩa lớn của nông dân nhằm chống lại triều nhà Tần, đã triển khai rầm rộ tại vùng Trung Nguyên.

________________________________________

Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Nguyên

 

 

 

 

Sau khi Tần Vương Chính giết chết Kinh Kha thích khách của nước Yến, trong lòng vô cùng bực tức, bèn tăng quân cho cha con Vương Tiễn, ra lệnh phải gấp rút tấn công nước Yến, Thái tử Đan dẫn quân ra chống cự, nhưng đâu phải đối thủ của quân Tần, quân Tần nhanh chóng đánh chiếm được Kế Thành thủ đô nước Yến, vua nước Yến và Thái tử Đan buộc phải chạy trốn sang Liêu Đông, Tần Vương Chính chỉ huy quân bám đuổi theo, vua Yến chẳng còn cách nào khác, đành phải giết chết Thái tử Đan để chuộc tội và cầu hòa với nước Tần.

Tần Vương Chính hỏi mưu sĩ Liêu Úy nên giải quyết ra sao thì Liêu Úy trả lời rằng: "Nay hai nước Hàn Ngụy đã bị thôn tính, vua nước Yến chạy trốn sang Liêu Đông cũng đã cùng đường bí lối, nay trời đã trở lạnh, chi bằng đem quân đánh xuống miền nam để thu phục hai nước Ngụy và Sở ".

Tần Vương Chính nghe theo, bèn lệnh cho Vương Quý dẫn 100 nghìn đại quân tiến xuống miền nam tấn công nước Ngụy, quân Ngụy chống đỡ không nổi phải lui về cố thủ ở Đại Lương, rồi cầu cứu với nước Tề, nhưng Vua Tề không chịu sang cứu, thủ đô nước Ngụy bị quân Tần khơi nước sông Hoàng Hà vào làm ngập lụt, vua Ngụy bị bắt sống và nước Ngụy từ đó bị diệt vong.

Năm sau, nước Tần lại chuẩn bị tấn công nước Sở, Tần Vương Chính mới hỏi đại tướng Lý Tín đánh Sở phải dùng bao nhiêu binh mã, Lý Tín trả lời là 200 nghìn, nhà vua lại quay sang hỏi lão tướng Vương Tiễn, thì Vương Tiễn đáp rằng: "Sở là một nước lớn đất rộng người đông, theo ý thần thì phải là 600 nghìn quân mới đủ". Tần Vương Chính nghe vậy nghĩ bụng: "Vương Tiễn đã cao tuổi rồi nên nhát gan, thêm vào đó hai cha con ông ta đang nắm binh quyền, sau này nhỡ xảy ra việc gì thì sao?". Do đó, nhà vua quyết định cử Lý Tín và Mông Điềm dẫn 200 nghìn quân tiến đánh nước Sở. Vương Tiễn thấy nhà vua không tin ở mình, bèn yêu cầu cáo lão hoàn hương, Tần Vương Chính cũng nhân đà này liền nhận lời thỉnh cầu của ông.

Khi vua Sở được tin quân Tần tiến đánh, vội vàng cử đại tướng Hạng Yến thống lĩnh 200 nghìn quân ra chống cự, quân Sở do thông thuộc địa hình, đã chia quân làm 7 đường mai phục tại những nơi hiểm yếu, do quân Tần suốt ngày đêm hành quân vất vả, lại bị mai phục đánh bất ngờ, nên bị tổn thất nặng nề, buộc phải rút quân về. Bấy giơ vua Tần mới biết ý kiến của Vương Tiễn rất đúng đắn, nhà vua liền cách chức Lý Tín, rồi cho người đi mời Vương Tiễn về triều, trao cho 600 nghìn quân lại lần nữa tấn công nước Sở, Vương Tiễn dùng chiến thuật đánh chắc tiến chắc, từng bước lấn tới chiếm được núi Trung Sơn rồi chốt giữ ở đó, mặc cho quân Sở nhiều phen đến thách đánh nhưng vẫn đóng chặt cửa trại không ra, hai bên cứ cầm cự nhau được hơn một năm. Hạng Yến lầm tưởng Vương Tiễn là một ông già nhút nhát, nên đã lơ là việc canh phòng. Nhưng chính vào lúc này, 600 nghìn quân mã nước Tần được nghỉ ngơi dưỡng sức, đột nhiên như nước vỡ bờ tràn sang trận tuyến quân Sở, quân Sở trở tay không kịp, chỉ chống đỡ rời rạc được một lúc, rồi toàn tuyến phòng ngự bị phá vỡ. Quân Tần thừa thắng đuổi một mạch đến chiếm được Thọ Xuân, bắt sống được vua Sở. Vương Tiễn lại ra lệnh cho quân sĩ đóng thuyền vượt qua sông Trường Giang truy kích tàn quân Sở, tướng Sở Hạng Yến thấy nước Sở đã hoàn toàn thất bại liền rút kiếm tự sát. Vương Tiễn lại ra lệnh cho con là Vương Quý dẫn quân lên miền bắc, tiêu diệt được nước Yến và thế lực tàn dư của nước Triệu, đến lúc này 6 nước Sơn Đông chỉ còn lại mỗi nước Tề mà thôi.

Vua nước Tề xưa nay không dám đắc tội với nước Tần, có việc gì xảy ra nếu không liên quan tới mình, thì đều giả câm giả điếc, từ chối cử binh sang giúp các nước, vì ông cho rằng nước Tần ở cách xa nước Tề, mình cứ an phận thủ thường là được rồi, nhưng đến khi nhà vua nhìn thấy 5 nước kia lần lượt bị nước Tần thôn tính, mới vội vàng cử quân ra canh phòng ở biên giới thì đã quá muộn.

Năm 221 trước công nguyên,Vương Quý dẫn 100 nghìn đại quân đánh vào nước Tề, nước Tề thân cô thế cô, không nơi nào chịu đến cứu, nên mấy ngày sau quân Tần chiếm được Lâm Truy, bắt sống được vua Tề. Quân Tần thi hành chiến lược cận công viễn giao và liên hoành v v, nên đã hóa giải được khối liên hợp của 6 nước Sơn Đông, chỉ trong 10 năm đã tiêu diệt gọn 6 nước và thống nhất Trung Nguyên.

Sau khi thống nhất được Trung Nguyên, nhằm tăng cường sự thống trị của trung ương, Tần Thủy Hoàng đã lập ra một loạt chế độ chuyên chế phong kiến; Thống nhất tiền tệ và đơn vị đo lường; Xây dựng Trường Thành, và trở thành tượng trưng trong lịch sử lâu đời của dân tộc Trung Hoa, là người có đóng góp trong việc làm ổn định khu vực Trung Nguyên, đảm bảo sản xuất và đời sống của nhân dân vùng Trung Nguyên. Nhưng mặt khác, Tần Thủy Hoàng cũng rất hao công tốn của trong việc xây dựng; Thi hành chế độ binh dịch rất hà khắc; Đốt sách và chôn sống các nhà nho v v, khiến quần chúng nhân dân vô cùng căm phẫn, nên sau khi ông mất đã nổ ra cuộc khởi nghĩa rầm rộ của nông dân, lật đổ ách thống trị tàn bạo của triều nhà Tần.

________________________________________

Kinh Kha thích Tần Vương

 

Tần Trang Tương Vương (Tức Tử Sở) lên ngôi được 3 năm thì bị bệnh qua đời, thái tử lúc đó mới có 13 tuổi lên nối ngôi, tức Tần Vương Chính, nhưng quyền bính đều nằm trong tay Lã Bất Vi, được xưng là "Thần Phụ". Năm Tần Vương Chính 22 tuổi rất muốn tự mình chấp chính, thì phát hiện Lã Bất Vi rất lộng quyền và hoành hành ngang ngược trong triều, vừa vặn lúc đó trong cung xảy ra nội loạn, kẻ cầm đầu lại có quan hệ mật thiết với Lã Bất Vi, Tần Vương Chính bèn nhân việc này bái miễn chức vụ tướng quốc của Lã Bất Vi, phát vãng sang Ba Thục, rồi trên đường đi bức Lã Bất Vi phải tự sát. Tần Vương Chính trừ được Lã Bất Vi, một lòng muốn thống nhất Trung Nguyên, nên ít lâu sau đã khởi binh diệt được các nước Hàn, Triệu v v, và chiếm được mấy thành trì của nước Yến.

Thái tử Đan nước Yến nguyên làm con tin tại nước Tần, khi thấy nước Tần quyết ý thôn tính các nước, lại chiếm đoạt đất đai của nước Yến, bèn cải trang trốn về nước, rồi quyết định thu nạp dũng sĩ hiệp khách trong thiên hạ để ám sát vua Tần, ngăn chặn tiến trình thống nhất Trung Nguyên của nước Tần.

Qua người tiến cử, thái tử Đan nhận biết một dũng sĩ tên là Kinh Kha, khi thấy người này khí phách hiên ngang, cử chỉ phi phàm, trong lòng vô cùng mừng rỡ, liền bái làm thượng khanh, cho ra ở quán trọ rồi hàng ngày thịnh tình khoản đãi. Ít lâu sau, đại tướng Vương Tiễn nước Tần dẫn quân lên miền bắc xâm phạm nước Yến, thái tử Đan bèn cho gọi Kinh Kha đến rồi nói rằng: "Nếu ta đem binh ra đánh quân Tần, thì chẳng khác nào đem trứng chọi với đá, nay các nước chư hầu đều khoanh tay đứng nhìn, việc liên hợp đánh Tần đã hóa thành mây khói, nay chỉ có cách là cử dũng sĩ hóa trang làm sứ thần đến gặp vua Tần, bức vua Tần hoàn trả đất đai của chư hầu, bằng không thì giết quách hắn đi, vậy ý ông thế nào?". Kinh Kha nói: "Kế này hay lắm, nhưng muốn đến gần được vua Tần, thì trước tiên phải để hắn tin rằng, chúng ta đến là để dâng lễ và cầu hòa mà thôi. Tôi nghe nói vua Tần nằm mơ cũng muốn được Đốc Cáng, một mảnh đất phì nhiêu nhất của nước Yến. Ngoài ra, tướng quân Phàn Ư Kỳ nước Tần sống lưu vong ở nước Yến ta đã nhiều năm, nước Tần hiện đang treo thưởng để tróc nã, nay chỉ cần tôi đem theo bản đồ đất Đốc Cáng và đầu lâu của Phàn tướng quân, thì vua Tần nhất định tiếp kiến tôi, rồi tôi sẽ tìm cách trừ khử hắn."

Thái tử Đan tỏ vẻ khó xử nói: "Bản đồ đất Đốc Cáng thì dễ rồi, còn Phàn tướng quân cũng chỉ vì cùng đường mới đến nương nhờ tôi, thì tôi nỡ lòng nào lại hại ông ta". Kinh Kha biết thái tử không nhẫn tâm, bèn tự mình tìm gặp Phàn Ư Kỳ và nói rằng: "Vua Tần đã ngược đãi tướng quân, không những giết hết người nhà ông, mà còn treo thưởng để bắt ông, chẳng lẽ tướng quân không muốn báo thù rửa hận sao ?". Phàn Ư Kỳ nghe xong nghiến răng nghiến lợi những muốn ăn sống nuốt tươi vua Tần, nhưng ngặt nỗi một mình một thân thì biết báo thù sao đây?. Kinh Kha đoán biết được ý này liền nói rằng: "Nay tôi quyết định sang hạ sát vua Tần, nhưng chỉ lo không đến được gần hắn, nay vua Tần đang ra lệnh bắt tướng quân, nếu tôi đem đầu tướng quân sang đó thì vua Tần tất tiếp kiến tôi, rồi tôi sẽ thừa cơ giết chết hắn". Phàn Ư Kỳ hiểu được ý của Kinh Kha liền vui vẻ nói: "Chỉ cần giết được vua Tần, trừ hại cho nước Yến, rửa được hận cho tôi, thì tôi có tiếc gì", Phàn Ư Kỳ nói xong bèn rút gươm tự sát. Thái tử Đan được tin này, vội vàng đến phủ phục trên xác Phàn Ư Kỳ thương khóc, rồi ra lệnh hậu táng cho Phàn Ư Kỳ. Sau đó, thái tử đưa cho Kinh Kha một con dao găm rất sắc bén, rồi cử dũng sĩ Tần Vũ Dương làm trợ thủ cho Kinh Kha cùng sang nước Tần.

________________________________________

Kỳ hóa khả cư

 

Thái tử An Quốc Quân có hơn 20 người con trai, do Hoa Dương Thị người mà thái tử sủng ái bị bệnh vô sinh, nên vẫn còn chưa lập người kế thừa. Hạ Cơ mẹ của Tử Sở vì không được An Quốc Quân sủng ái, nên Tử Sở bị đưa sang nước Triệu làm con tin.

Do nước Tần không thủ tín, thường xuyên quấy nhiễu biên giới, thậm trí còn tấn công vào nước Triệu, nên số phận của Tử Sở càng thêm bi đát, lương thực cung ứng không kịp thời, an toàn tính mạng không được đảm bảo, nghèo rớt mùng tơi, cơ bản không giống con cái của quý tộc hoàng thất.

Bấy giờ, nước Hàn có một nhà buôn tên là Lã Bất Vi, rất giỏi nghề buôn bán, giàu có ngang bằng một nước, ông thường xuyên đi lại các nước làm ăn buôn bán. Một hôm, Lã Bất Vi tình cờ gặp công tử Tử Sở tại thành Hàm Đan, thấy công tử khốn đốn cùng quẫn như vậy liền nghĩ bụng: "Kỳ hóa khả cư, nếu kinh doanh được tốt thì ta sẽ kiếm được một món lời lớn từ người này".

Lã Bất Vi chủ ý đã định, nên mấy hôm sau liền tìm gặp Tử Sở và nói rằng: "Công tử là cháu của vua Tần, mà tại sao cuộc sống lại khốn khổ đến thế này, tôi sẽ giúp công tử được rạng rỡ cửa nhà". Tử Sở cười cay đắng nói: "Thôi tiên sinh đừng nói đùa tôi nữa, tiên sinh hãy làm rạng rỡ cửa nhà mình trước đi thì hơn ". Lã Bất Vi cười rằng: "Cửa nhà tôi sẽ rạng rỡ chỉ sau khi cửa nhà công tử đã rạng rỡ mà thôi". Tử Sở nghe lời nói có ẩn ý, vội vàng mời Lã Bất Vi cùng ngồi nói chuyện. Lã Bất Vi nói rằng: "Tôi nghe nói cha của công tử đã được lập làm thái tử, tôi muốn giúp công tử được làm Vương thái tôn". Tử Sở nghe vậy than rằng: " Ôi, việc này đâu phải dễ dàng, có nằm mơ tôi cũng không dám, tôi có hơn 20 anh em, vì không được coi trọng nên mới bị đưa sang đây làm con tin, biết đến ngày nào tháng nào mới đến lượt tôi?". Lã Bất Vi an ủi rằng: "Công tử đừng nên bi quan, mọi việc đều ở tại người, tôi đã có cách đảm bảo cho công tử sau này được làm Vương thái tôn".

Tử Sở biết rất rõ mình hiện đang khốn khổ thế này, ngay đến cải thiện cuộc sống còn là điều mơ tưởng, thì còn đâu dám nghĩ đến việc làm Vương thái tôn. Nhưng khi nghe lời nói của Lã Bất Vi rất có hy vọng, nhưng cũng chẳng biết nói gì hơn. Lã Bất Vi nói: "Cha của công tử rất sủng ái Hoa Dương phu nhân, nhưng Hoa Dương phu nhân lại mắc bệnh vô sinh, nay nếu công tử tìm cách lấy lòng phu nhân, nhận bà ta làm mẹ thì việc công tử được làm Vương thái tôn tất có hy vọng". Tử Sở nói: "Tiên sinh nói rất có lý, nhưng tôi nghèo rớt mùng tơi thế này, thì lấy gì để lấy lòng bà ta?". Lã Bất Vi nói: "Tôi tuy không mấy giàu có, nhưng cũng xin đưa hết của cải ra để giúp công tử". Tử Sở vô cùng mừng rỡ bèn chắp tay thi lễ và nói: "Tốt lắm, nếu sau này tôi được lên làm vua, thì nguyện cùng tiên sinh hưởng thụ thiện hạ nước Tần ". Lã Bất Vi đem hết của cải của mình ra, một nửa chia cho Tử Sở dùng để kết giao với hào kiệt trong thiên hạ, mở rộng phạm vi thế lực của mình, còn một nửa thì mua các đồ kỳ chân dị bảo, rồi tự mình đưa sang nước Tần để chạy chọt cho Tử Sở.

Sau khi đến nước Tần, Lã Bất Vi trước tiên đến gặp người chị gái của Hoa Dương phu nhân, tặng cho bà rất nhiều kim ngân châu báu, rồi nhờ bà sang nói khéo với Hoa Dương phu nhân. Ngày hôm sau, Lã Bất Vi lại đem nhiều kim ngân châu báu ra nhờ bà đem sang biếu Hoa Dương phu nhân, dặn bà nói lễ vật này là của Tử Sở nhờ người từ nước Triệu đưa sang, rồi lựa lời tâng bốc Tử Sở nào là một bậc hiền lương, nào là rất kính trọng và quý mến phu nhân, rất nhớ cha và Hoa Dương phu nhân v v.

Hoa Dương phu nhân nhận được lễ vật vô cùng mừng rỡ, người chị nhân đó liền nói rằng: "Em hiện còn trẻ và xinh đẹp, nên được An Quốc Quân sủng ái, nhưng đến khi về già thì sẽ ra sao đây? Hơn nữa em lại không có con cái. Nay Tử Sở là một người hiền minh, lại rất hiếu thảo đối với em, sao em không nhận làm con, để anh ta làm người kế thừa của An Quốc Quân, anh ta đội ơn em, thì khi tuổi về già thì em còn lo gì việc hưởng lạc vinh hoa phú quý ".

Lời nói này thật trúng ý của Hoa Dương phu nhân, bà tìm gặp và nói với An Quốc Quân rằng: "Nay tôi được thái tử rất sủng ái, nhưng điều bất hạnh là tôi không thể sinh đẻ được, nay thấy Tử Sở là một người hiền minh hiếu thảo, nên tôi muốn nhận làm con và mong thái tử lập nó làm con cả, để sau này lên kế thừa vương vị, thì khi tôi già rồi còn có chỗ mà nương nhờ ". An Quốc Quân nghe xong bèn lập tức nhận lời ngay, rồi ra lệnh khắc lên một miếng ngọc sang giao cho Tử Sở làm bằng chứng. An Quốc Quân thấy Lã Bất Vi là người có tài năng liền mời làm thầy của Tử Sở, Lã Bất Vi lại nhân cơ hội này đem một mỹ nữ rất cưng của mình tên là Triệu Cơ tặng cho Tử Sở. Ít lâu sau, Triệu Cơ sinh được một mụn con trai đặt tên là Doanh Chính, tức Tần Thủy Hoàng sau này.

Năm Doanh Chính lên 9 tuổi, Tần Chiêu Tương Vương qua đời, An Quốc Quân lên nối ngôi, tức Tần Hiếu Văn Vương. Ít lâu sau, Tử Sở được đón về Hàm Đan, một năm sau thì An Quốc Quân qua đời, Tử Sở lên kế vị, tức Tần Trang Tương Vương, nhà vua cử Lã Bất Vi làm tướng quốc, được phong làm Văn Tín Hầu.

________________________________________

Tín Lăng Quân thiết phù cứu Triệu

 

"Tín Lăng Quân thiết phù cứu Triệu". Tức Tín Lăng Quân đánh cắp hổ phù để cứu nước Triệu.

Sau trận đánh ở Trường Bình, quân Tần càng vây chặt Hàm Đan thủ đô nước Triệu, tình hình nước Triệu vô cùng nguy ngập, Bình Nguyên Quân một mặt tự mình sang bàn việc hợp tung với nước Sở, yêu cầu Sở xuất binh cứu Triệu, mặt khác viết thư cho em vợ mình là Tín Lăng Quân, ủy nhiệm ông giúp cầu cứu với vua Ngụy. Tín Lăng Quân Ngụy Vô Kỵ nhận được thư của anh rể, đã năm lần bảy lượt vào cung thỉnh cầu vua Ngụy xuất binh cứu Triệu, nhà vua không thể nào từ chối được, đành phải cử lão tướng Tấn Bỉ dẫn 100 nghìn quân sang cứu viện nước Triệu.

Vua Tần được tin này liền cử sứ thần sang Đại Lương cảnh cáo vua Ngụy rằng: "Hàm Đan bị đánh chiếm chỉ trong một sớm một chiều, nước nào dám cứu Triệu thì Tần sẽ thừa thế tấn công nước đó". Vua Ngụy bị đe dọa như vậy, liền cử người đi truyền lệnh cho Tấn Bỉ đóng quân trấn giữ ở Nghiệp Thành để chờ lệnh.

Bình Nguyên Quân chẳng hiểu nguyên nhân ra sao, cứ cho là Tín Lăng Quân không thủ tín, liền viết thư sang trách rằng: "Tôi luôn luôn kính phục phẩm đức ưu tú dũng cảm vì nghĩa, cứu giúp người trong lúc lâm nguy của công tử, do đó mới cùng công tử kết làm thân thích, nay Hàm Đan đang trong cơn nguy cấp, mà chờ mãi cũng chẳng thấy quân Ngụy đến cứu, phẩm cách nghĩa hiệp của công tử đã để đâu cả rồi, cho dù công tử không nghĩ đến sự an nguy của tôi, thì cũng phải thương đến người chị của công tử, chẳng lẽ công tử muốn chị mình trở thành tù binh của quân Tần ư ?". Tín Lăng Quân vừa bị oan ức, vừa sốt ruột, lại một lần nữa đến thỉnh cầu vua Ngụy ra lệnh cho Tấn Bỉ tiến quân, đồng thời phân tích mối lợi hại của sự việc, nhưng bị nhà vua từ chối.

Tín Lăng Quân chẳng còn cách nào khác, đành triệu tập hơn 1000 môn khách và hơn trăm cỗ chiến xa, kéo sang cứu nước Triệu, khi đoàn người đi qua cửa thành, Tín Lăng Quân thấy bạn là Hầu Doanh đang canh cửa, bèn đến chào cáo biệt. Hầu Doanh đã ngoài 70 tuổi, tuy nhà nghèo, địa vị thấp hèn, nhưng rất có tín nghĩa và túc trí đa mưu.

Hầu Doanh thấy Tín Lăng Quân đang liều mạng như vậy liền khuyên rằng: "Công tử đi cứu triệu thì có khác gì đem thịt sang cho hổ ăn, chỉ có uổng mạng mà thôi". Tín Lăng Quân thở dài than rằng: "Tôi cũng thừa hiểu là tự mình dẫn thân vào chỗ chết mà thôi, nhưng ngoài liều chết ra, tôi còn biết làm gì hơn". Hầu Doanh nghe xong bèn nói nhỏ với Tín Lăng Quân rằng: "Công tử là đại ân nhân của Như Cơ ái phi của Ngụy vương phải không? ". Tín Lăng Quân trả lời phải, Hầu Doanh lại nói tiếp rằng: "Công tử hãy nghĩ cho kỹ, muốn cứu nước Triệu thì phải dựa vào quân đội nước Ngụy, Tấn Bỉ hiện đang thống lĩnh 100 nghìn đại quân trấn giữ ở biên giới, nếu điều động được họ thì lo gì không giải vây được cho nước Triệu?". Tín Lăng Quân bèn hỏi lại: "Nhưng trong tay tôi không có hổ phù điều binh thì làm sao được?". Hầu Doanh nói: "Một nửa hổ phù hiện nằm trong tay Tấn Bỉ, còn một nửa thì cất trong buồng ngủ của Ngụy vương, lấy được nó thì sẽ điều động được binh mã, nay người có thể giúp được công tử chẳng phải là Như Cơ ư ?". Tín Lăng Quân nghe xong khen phải, bèn lập tức làm theo kế này.

________________________________________

Mao Toại tự tiến

 

 

 

 

Sau khi đại tướng Bạch Khởi nước Tần bắn chết Triệu Quát, trôn sống 400 nghìn quân Triệu, bèn thúc quân đánh thẳng vào Hàm Đan thủ đô nước Triệu. Sau trận thua to ở Trường Bình, nguyên khí nước Triệu bị tổn thương, đã không thể nào chống đỡ nổi quân Tần, nhà nước đang trong cơn nguy cấp, Triệu Hiếu Thành Vương bảo chú mình là Bình nguyên quân Triệu Thắng phải tìm đủ mọi cách cầu cứu với nước Sở. Triệu Thắng quyết định tự mình sang nước Sở, để cùng vua Sở đàm phán hợp tung cùng chống lại nước Tần.

Triệu Thắng dự định đem theo 20 người văn võ song toàn cùng sang nước Sở, nhưng khi tuyển lựa trong đám 3000 môn khách mà chỉ được có 19 người, còn những người khác đều không đủ tư cách, Triệu Thắng còn đang do dự, thì bỗng có một môn khách đứng lên tự giới thiệu rằng: "Tôi là Mao Toại, là học trò của tiên sinh, tiên sinh thấy tôi có thể bù đủ số người này không?". Những môn khách khác thấy vậy đều cười thầm. Triệu Thắng thấy Mao Toại quá mạo muội như vậy liền hỏi: "Anh đến làm môn khách ở nhà tôi đã mấy năm rồi ?". Mao Toại đáp là đã ba năm rồi. Tiếng nói vừa dứt thì cả nhà đều cười rộ lên. Triệu Thắng lắc đầu nói: "Người có tài năng trên đời thì chẳng khác nào cái dùi được bọc trong túi vải, mũi nhọn của nó sẽ lòi ra ngoài, còn anh thì mới đến đây được có ba năm, tôi chẳng thấy anh có tài cán gì hơn người cả".

Mao Toại nói: "Tiên sinh nói phải lắm, đây cũng chỉ vì tiên sinh hôm nay mới bỏ cái dùi vào túi vải, nếu như tiên sinh sớm bỏ nó vào túi, thì có phải mũi nhọn của nó đã lòi ra ngoài từ lâu rồi không ?, hôm nay chỉ mong tiên sinh bỏ tôi vào túi vải, rồi đợi xem tôi sẽ đột thủng ra như thế nào." Bình nguyên quân Triệu Thắng rất khâm phục đảm lược và tài ăn nói của Mao Toại, bèn nhận lời cho Mao Toại cùng đi. Triệu Thắng ngay hôm đó đến bái biệt vua Triệu rồi lên đường. Trên đường đi 19 người kia cứ trêu chọc Mạo Toại, Mao Toại chỉ cười chứ không nói năng gì.

Khi đoàn người đến nước Sở, Triệu Thắng và vua Sở ở trên bộ rồng bàn việc hợp tung cùng đánh nước Tần, còn 20 môn khách thì ngồi ở phía dưới. Triệu Thắng nói từ sáng đến trưa, đã khô cả cổ họng mà vẫn không sao thuyết phục được vua Sở, các môn khách đã tỏ ra rất khó chịu, nhưng cũng chẳng có ai nghĩ ra kế sách gì hơn, bấy giờ có người nhắc rằng: "Mao Toại chẳng phải muốn đâm mũi dùi ra ngoài ư ?". Lại có người khẽ bảo Mạo Toại rằng: "Bây giờ anh hãy trổ tài xem sao". Chỉ thấy Mao Toại rất bình tĩnh, tay ấn đốc kiếm bước lên bệ hô to lên rằng: "Hợp tung hay không hợp tung, chỉ dăm ba lời là có thể quyết định, chứ đâu cần phải bàn luận từ sáng đến trưa cho phí thời gian". Vua Sở thấy vậy vội hỏi là ai. Triệu Thắng đáp rằng: "Người này là môn khách của tôi". Vua Sở bèn quát rằng: "Hãy mau bước xuống dưới, ta và chủ anh đang bàn việc lớn nhà nước, không cần anh phải trõ mõm vào". Mao Toại tay ấn đốc kiến bước lên mấy bước, cất cao giọng nói rằng: " Đại vương dám vô lễ với tôi, cũng là vì đại vương cậy nước Sở có binh nhiều người đông, nay tôi đứng cách đại vương chỉ mấy bước, mà đại vương còn dám cậy ưu thế nước Sở nữa không? Tính mạng của đại vương hiện nằm trong tay tôi, đại vương không được vô lễ với tôi ngay trước mặt chủ tôi".

Vua Sở thấy Mao Toại tay ấn đốc kiến, lời nói mạnh bạo như vậy, liền hạ thấp giọng nói: "Vậy anh có cao kiến gì thì cứ nói". Mao Toại cũng chẳng khách sáo gì liền nói rằng: "Nghe nói đất của Thương Thang chu vi chỉ rộng có 70 dặm, nhưng sau đó đoạt được cả thiên hạ. Văn Vương đất rộng có trăm dặm mà cũng khiến nhiều nước chư hầu phải chắp tay xưng thần, họ đều không cậy có đất rộng người đông, mà chỉ dựa vào phát huy ưu thế của mình. Nay nước Sở đất rộng 5 nghìn dặm, binh hùng tướng mạnh, thiên hạ khó có ai có thể sánh ngang hàng. Nhưng sự lớn mạnh của nước Tần, khiến nước Sở liên tiếp bị thất bại, đại tướng Bạch Khởi là cái thá gì, hắn chỉ huy mấy chục nghìn quân mã, mà cũng năm lần bảy lượt đánh bại nước Sở, trước sau đánh chiếm được Yên Thành và Ảnh Thành, phóng hỏa đốt đền thờ tổ tông của nước Sở, lăng nhục tổ tiên của đại vương, khiến người nước Triệu chúng tôi cũng phải xấu hổ thay cho đại vương, ấy thế mà đại vương lại không muốn báo thù rửa hận, nay chủ tôi nêu ra việc hợp tung, không phải chỉ riêng vì nước Triệu, cũng là vì nước Sở mà thôi."

Vua Sở bị Mao Toại nói đến mặt đỏ tía tai liền nói rằng: "Vậy cứ làm theo ý của Mao tiên sinh, Sở Triệu kết bang cùng chống lại nước Tần". Sau đó hai bên uống máu ăn thề. Mao Toại bước xuống bệ nói với 19 môn khách kia rằng: "Vậy là việc hợp tung đã định, các ông đều là một lũ bất tài, mọi việc đều ở tại người, nếu bền bỉ lao vào làm là không có việc gì không làm được". Sau đó, vua Sở cử Xuân Thân Quân Hoàng-Yết dẫn 800 nghìn quân tinh binh sang cứu giúp nước Triệu.

________________________________________

Triệu Quát chỉ thượng đàm binh

 

Năm 270 trước công nguyên, Tần Chiêu Tương Vương phong Phạm Tuy làm Thượng khanh giúp mình trị vì nhà nước, Phạm Tuy nêu ra chủ trương liên lạc với các nước xa, tiến đánh nước gần, rồi dần dần thôn tính 6 nước, tiến tới thống nhất thiên hạ, Tần Chiêu Tương Vương rất tán đồng chiến lược này rồi bàn cách thực thi.

Năm 262 trước công nguyên, vua Tần cử đại tướng Bạch Khởi tấn công nước Hàn, chỉ trong một trận đã đánh bại nước Hàn, chiếm được Dã Vương, cắt đứt mối liên lạc với Thượng Đảng. Trước tình hình nguy ngập này, quận thú Thượng Đảng là Phùng Đình đã quyết định thà đầu hàng nước Triệu, chứ quyết không đầu hàng nước Tần. Triệu Hiếu Thành Vương biết tin này vô cùng mừng rỡ, bèn lập tức cử binh mã ra tiếp quản Thượng Đảng, vua Tần thấy Thượng Đảng sắp lọt vào tay, nay lại bị nước Triệu đoạt mất thì vô cùng tức giận, bèn cử đại tướng Vương Hột dẫn quân tấn công Thượng Đảng, Triệu Hiếu Thành Vương cũng cử lão tướng Liêm Pha dẫn 200 nghìn quân đến cứu Thượng Đảng, nhưng khi đại quân đến Trường Bình thì Thượng Đảng đã thất thủ, quân Tần lại điều binh tiến đánh Trường Bình.

Liêm Pha là một tướng lĩnh từng trải nhiều thử thách, khi nhìn thấy quân Tần đang khí thế sục sôi, bèn ra lệnh cho quân sĩ đào hào, đắp lũy, để chuẩn bị phòng thủ lâu dài. Vương Hột đã năm lần bảy lượt đến thách đánh, nhưng Liêm Pha vẫn một mực án binh bất động, tình trạng này cứ kéo dài mãi đến ba năm trời, lương thực quân Tần tiếp tế không kịp, nên quân lính đã có phần uể oải, Tần Chiêu Tương Vương thấy vậy vội vàng triệu Phạm Tuy đến bàn bạc. Phạm Tuy nghĩ ra một kế ly gián để khiến vua Triệu điều động Liêm Pha đi nơi khác. Vua Tần đồng ý liền cử người sang Hàm Đan, dùng nhiều vàng bạc mua chuộc những người bên cạnh vua Triệu, bảo họ tung tin nào là: "Liêm Pha đã già nua lại hèn nhát, cơ bản không dám đối trận với quân Tần ", nào là "Liêm Pha là đồ vô dụng, đã sắp chống đỡ không nổi". Vua Triệu vốn dĩ không tin tưởng ở chiến thuật phòng thủ của Liêm Pha, nay lại nghe những lời nhảm nhí này, bèn quyết định cử Triệu Quát ra thay thế Liêm Pha

Triệu Quát con trai của danh tướng Triệu Xa, từ nhỏ say mê binh pháp, thông thuộc binh thư chiến sách, cứ nói đến việc bày binh bố trận là thao thao bất tuyệt, nên vẫn tự cho mình là thiên hạ vô địch. Danh tướng Triệu Xa rất hiểu rõ con mình chẳng qua là chỉ học thuộc mấy quyển binh thư, chứ không có kinh nghiệm thực chiến, nếu để cầm quân thì tất nhỡ việc quân cơ và thí mạng quân lính, nên trước lúc qua đời đã dặn lại vợ rằng: "Đừng có cho con ra làm quan, để khỏi làm nhỡ việc lớn nhà nước, trở thành tội nhân làm mất nước Triệu".

 

________________________________________

Hoàn bích quy Triệu

 

 

 

Năm 283 trước công nguyên, Triệu Huệ Văn Vương có được một hòn ngọc bích tinh khiết đẹp vô giá, gọi là Hòa Thị Bích, nhà vua nâng niu không muốn rời tay. Tần Chiêu Tương Vương được biết tin này rất thèm thuồng, liền cử sứ giả đến nói với Triệu Huệ Văn Vương rằng, nước Tần muốn đem 15 ngôi thành trì đổi lấy hòn ngọc bích thiên hạ có một không hai này. Triệu Huệ Văn Vương cảm thấy rất khó xử, bởi Tần là một nước láng giềng hổ lang không thủ tín, nếu đem ngọc sang thì mình khó có ngày trở về, nếu không đem sang thì lại sợ vua Tần tức giận, nhà vua bèn triệu tập các đại thần lại thương nghị, các đại thần bàn luận đã nửa ngày mà vẫn không tìm được cách nào hơn, bấy giờ có một hoạn quan tên là Mậu Hiền tiến cử với nhà vua rằng: "Nhà hạ nhân có một môn khách tên là Lạn Tương Như, người này rất bạo gan và có học thức, trí dũng song toàn, có thể cử đi sứ nước Tần". Tức thì nhà vua triệu Lạn Tương Như vào cung, quả nhiên thấy chàng là người rất có khoa nói và rất có kiến thức, bèn cử chàng đem theo ngọc bích sang nước Tần.

Tần Chiêu Tương Vương được tin vô cùng mừng rỡ, vội triệu quần thần tiếp kiến Lạn Tương Như. Lạn Tương Như cung kính đem ngọc bích dâng lên, nhà vua cầm xem khen ngợi không ngớt, mãi sau mới truyền cho các đại thần và cung nữ xem, mà không hề nhắc gì tới việc đổi thành trì. Lạn Tương Như đã nhìn thấu ý định của vua Tần, liền vội vàng bước tới nói rằng: "Viên ngọc bích này tuy quý hiếm thật, nhưng có một vết nứt rất khó nhận ra, hãy để tôi chỉ cho đại vương xem".

Vua Tần tin là thực liền đưa sang, thì thấy Lạn Tương Như ôm lấy ngọc bích vội lùi lại mấy bước, đến gần bên một cột trụ tức giận nói: "Đại vương hứa đổi 15 ngôi thành trì lấy ngọc bích, vua Triệu chúng tôi rất tán thành mới cử tôi đem ngọc sang đây, nhưng tôi thấy đại vương chẳng có thành tâm chút nào. Nay ngọc đang trong tay tôi, nếu mà đại vương bức ép thì đầu tôi sẽ cùng ngọc bích đâm vào chiếc cột này cho tan tành ra, đại vương đừng hòng mà lấy được ". Lạn Tương Như vừa nói vừa sấn đến bên cột. Vua Tần thấy vậy liền vội vàng gọi người đem bản đồ ra, khoanh rõ vị trí của 15 ngôi thành trì. Lạn Tương Như thấy rất khó mà đảm bảo liền nói rằng: "Trước khi cử tôi đem ngọc sang đây, vua Triệu đã ăn chay trong 5 ngày rồi mới tổ chức nghi lễ rất long trọng , nay nếu đại vương có thành ý, thì cũng nên ăn chay trong 5 ngày, bấy giờ tôi mới dâng ngọc bích cho đại vương". Tần Chiêu Tương Vương đành phải nhận lời, rồi đưa Lạn Tương Như ra nghỉ ở nhà khách. Lạn Tương Như vừa về đến nhà khách, liền cử một tên tùy tùng cải trang rồi đem ngọc bích theo đường tắt trở về nước Triệu.

 

________________________________________

Khuất Nguyên ái quốc đầu giang

 

Sau khi bị nước Tần đánh bại, nước Sở đã mất đi một vùng đất đai rộng lớn ở Trung Nguyên và thường xuyên bị nước Tần ức hiếp. Sở Hoài Vương muốn thay đổi cục diện này, đã cử đại phu Khuất Nguyên sang xin lỗi và kết lại liên minh Tề Sở.

Khuất Nguyên tên Bình, là một quý tộc hoàng thất nước Sở, là nhà thơ yêu nước vĩ đại và nhà chính trị, nhà tư tưởng kiệt xuất trong lịch sử TQ. Ông được học hành từ thời thơ ấu, giỏi về văn chương thơ phú, thời còn trẻ đã làm quan tới chức Tả Đồ Đại Phu.

Khuất Nguyên xuất sứ nước Tề đã làm tròn sứ mệnh. Ông đã phát huy tài ngoại giao của mình, khiến hai nước Tề Sở lại khôi phục liên minh. Tần Vương Chiêu Tương sau khi được tin Tề Sở lại liên minh với nhau, trong lòng thấp thỏm không yên, mới viết một lá thư cho Sở Hoài Vương, giả vờ thừa nhận nước Tần có lỗi và mời Sở Hoài Vương đến gặp mặt ở Vũ Quan. Sở Hoài Vương cầm thư của vua Tần mà như cầm bọc kim trên tay, do dự không quyết, nếu không đi thì sợ đắc tội với nước Tần, mà đi thì lại sợ nước Tần không thủ tín, nếu có mưu kế gì thì mình thật khó mà đảm bảo tính mạng. Nhà vua bèn triệu tập các đại thần lại thương nghị. Khuất Nguyên nói: "Nước Tần vốn hung hăng như hổ sói, không hề có chút tín nghĩa, nước ta không chỉ một lần bị chúng ức hiếp, đại vương chớ nên đi, đi thì tất sa vào cạm bẫy". Nhưng công tử Lan thì một mực khuyên vua cha nên đi và nói rằng: "Trước kia, ta coi nước Tần là kẻ thù, rút cuộc bị chết khá nhiều người, lại mất cả đất đai, nay nước Tần chủ động giao hảo, thì ta làm sao lại có thể từ chối được ?". Sở Hoài Vương tin nghe lời công tử Lan, liền lên đường đi sang nước Tần.

Nhưng sự việc xảy ra đúng như lời Khuất Nguyên đã nói, Sở Hoài Vương vừa đặt chân đến Vũ Quan nước Tần, thì bị binh mã nước Tần vây bắt rồi áp giải về Hàm Dương. Vua Tần bức Sở Hoài Vương cắt nhượng đất ở Kiềm Trung, Sở Hoài Vương không chịu liền bị giam lỏng ở nước Tần, đến lúc này nhà vua mới hối hận đã không nghe lời của Khuất Nguyên. Một năm sau, Sở Hoài Vương vì quá uất ức rồi mất ở nước Tần. Khuất Nguyên được tin nhà vua bị mất ở nơi đất khách quê người thì vô cùng thương xót, liền viết bài thơ "Chiêu Hồn".

Thái tử Hoành lên nối ngôi, tức Sở Khoảnh Tương Vương, nhà vua ngu si đần độn, không hề nghĩ tới thù nhà nợ nước, suốt ngày chỉ chìm ngập trong tửu sắc, không đoái hoài tới việc triều chính, Khuất Nguyên thấy vậy lòng dạ như lửa đốt, đã liên tiếp viết tấu chương, khuyên nhà vua hãy chiêu nạp hiền tài, cải cách nội chính, thao luyện quân mã để đợi thời cơ báo thù nước Tần. Nhưng tấu chương của Khuất Nguyên có khác nào trâu đất lăn xuống biển, không hề nhận được tin tức gì. Thì ra các bản tấu chương đều rơi vào tay công tử Lan, Lặc Thượng v v, chúng quay ra căm ghét Khuất Nguyên, rồi tìm đủ mọi cách nói xấu Khuất Nguyên trước mặt nhà vua, khiến Khuất Nguyên bị đầy đến một miền đất hoang ở phía nam sông Trường Giang.

Khuất Nguyên ôm ấp chí lớn cứu nước cứu dân, ngược lại bị gian thần bài xích, nên trong lòng rất bất bình, khi đến bên sông Mịch La ở Tiêu Tương, ông thường men theo bờ sông vừa đi vừa ngâm vịnh những bài thơ do mình sáng tác, trong những năm tháng lưu vong ấy, ông cùng người địa phương cày cấy, cuộc sống rất kham khồ, ông đã viết được nhiều bài thơ nổi tiếng như Ly Tao, Quất Tụng, Cửu Chương v v, trong đó Ly Tao là nổi tiếng nhất. Trong thơ ca của mình, ông đã nguyền rủa lũ gian tham bán nước, ca ngợi người quân tử chính trực, gửi gắm lòng yêu nước vô hạn của mình vào từng gốc cây ngọn cỏ của nước Sở.

Do lâu năm bị đầy ải, khiến tinh thần của Khuất Nguyên bị vùi dập, nhưng ông vẫn kiên nhẫn chịu đựng, quyết không khuất phục trước thế lực gian tà. Ông hy vọng vua Sở sẽ thay đổi ý định, triệu ông về để cứu nhà nước khỏi cơn nguy khốn. Nhưng thời gian cứ thấm thoát trôi qua, sự mong đợi của Khuất Nguyên đều hóa thành bong bóng, khiến lòng ông bi phẫn đến cực độ.

Một hôm, Khuất Nguyên đến dạo bên bờ sông Mịch La, ông vừa đi vừa ngâm vịnh thơ ca của mình, thì có một dân chài nhận ra ông và hỏi rằng: "Ông có phải là Tam Lư đại phu Khuất Nguyên đó không? Làm sao lại đến nông nỗi này?". Khuất Nguyên đáp: "Có khá nhiều người rất bẩn thỉu, nhưng tôi là một người trong sạch. Có khá nhiều người đã uống say, duy có tôi là vẫn tỉnh táo, nên mới bị phát vãng tới đây". Ngư ông nói; "Ông hà tất phải tự cho mình thanh cao, không chịu theo gió bẻ măng, bằng không làm gì đến nông nỗi này". Khuất Nguyên phản bác rằng: "Áo mặc trên người rất sạch sẽ, nào ai muốn lăn vào vũng bùn để làm nhơ bẩn nó? Tôi thà nhảy xuống sông để nuôi cá, còn hơn là đi đồng lõa với bọn gian nịnh để chà đạp nước Sở".

Năm 278 trước công nguyên, đại tướng Bạch nước Tần dẫn quân tiến đánh nước Sở, rồi chiếm được Ảnh Đô. Khuất Nguyên vì không muốn nhìn thấy nước Sở sa vào cảnh diệt vong, liền ôm một tảng đá rồi nhảy xuống sông Mịch La sóng nước cuồn cuộn, dân chúng địa phương nghe tin, đều hò nhau chèo thuyền đến để vớt xác Khuất Nguyên, nhưng không sao tìm thấy nữa, tức thì họ liền đổ gạo xuống sông, những mong cá không động chạm đến thân xác của Khuất Nguyên.

Đến mùng 5 tháng 5 năm sau, người dân địa phương lại chèo thuyền ra giữa sông, đem gạo trong ống bương đổ xuống nước để tế Khuất Nguyên. Về sau, người ta đã dùng thuyền rồng thay thế cho thuyền con, dùng bánh tro thay thế cho gạo tế. Hoạt động cúng tế này còn giữ mãi đến ngày nay và gọi là Tết Đoan Ngọ. Những bài thơ yêu nước của Khuất Nguyên, được người đời sau chỉnh lý thành cuốn "Sở Từ" và lưu truyền đến ngày nay.

________________________________________

Trương Nghi, liên hoành tán liên minh

 

Nước Tần trải qua cuộc biến pháp của Thương Ương, ngày càng trở nên lớn mạnh, nên bắt đầu từ thời Tần Hiếu Công, vua các triều đại đều nảy sinh tham vọng nhất thống thiên hạ, không ngừng xuất binh đánh chiếm sáu nước Tề, Sở, Triệu, Ngụy, Hàn và Yến. Các nước này đều khiếp đảm trước sự lớn mạnh của nước Tần, họ đã liên hợp lại để cùng chống đỡ nước Tần, mà lịch sử gọi là "Hợp tung".

Nước Tần muốn thống nhất thiên hạ, thì tất phải làm tan dã sự liên hợp của các nước, một số chính khách đã giúp nước Tần đi các nơi du thuyết, khuyên họ thân cận với nước Tần, không liên minh với nước khác, mà lịch sử gọi là "Liên hoành"

Bấy giờ, người đề xướng "Liên hoành" là Trương Nghi người nước Ngụy. Ông thời còn nhỏ gia đình nghèo khó, nhưng lại rất chăm chỉ học hành, nên thông cổ chí kim, học thức uyên bác. Thời còn trẻ ông từng đến xin làm quan ở nước Sở nhưng không toại nguyện, sau được một lệnh doãn nước Sở thu nhận làm môn khách. Một hôm, trong nhà lệnh doãn bị mất cắp một miếng ngọc quý, họ đều đổ vạ cho Trương Nghi, rồi trói ông lại đánh cho một trận thập tử nhất sinh. Khi về đến nhà, người vợ thấy chồng mình đầy thương tích liền nghẹn ngào nói: "Ông hàng ngày ra đi học hành để mưu làm quan, nay bị oan ức thế này thì chi bằng ở nhà còn tốt hơn". Trương Nghi hỏi vợ rằng: "Mình hãy nhìn xem lưỡi của tôi có còn không?". Người vợ đáp là lưỡi vẫn còn. Trương Nghi lại nói: "Chỉ cần có lưỡi thì tất có ngày ăn nên làm ra".

Bấy giờ, Tô Tần bạn của Trương Nghi đang đi 6 nước du thuyết về việc "Hợp Tung", ông được phong ấn tể tướng 6 nước, rất là oai phong hiển hách. Trương Nghi biết vậy liền nghĩ bụng, bên Quan Đông đều đã tin nghe lời Tô Tần, duy chỉ có nước Tần ở phía tây thì không, tức thì ông bèn lên đường sang nước Tần. Ông trình bày kế sách "Liên hoành thân Tần" của mình cho Tần Huệ Văn Vương nghe, nhà vua vô cùng mừng rỡ, liền phong Trương Nghi làm ái khanh, bắt đầu bày mưu tính kế cho nước Tần trinh phạt 6 nước.

Năm 314 trước công nguyên, nước Yến xảy ra nội loạn, nước Tề nhân dịp này tấn công và chiếm được nhiều đất đai của nước Yến, tức thì nước Tề trở nên lớn mạnh, do đó việc liên minh giữa Tề Sở là một điều rất bất lợi đối với nước Tần, vua Tần liền cử Trương Nghi sang đó tìm cách phá tan khối liên minh này. Sau khi đến nước Sở, Trương Nghi trước tiên dùng nhiều vàng bạc mua chuộc tên Lặc Thường ái khanh của Sở Hoài Vương, sau đó mới đến thuyết phục Sở Hoài Vương. Ông nói: "Nay vua Tần đặc biệt cử tôi sang đây giao hảo với quý quốc, đâu có biết Đại Vương đã liên minh với nước Tề rồi, nhưng nếu Đại Vương nghe theo ý kiến của tôi, mà cắt đứt mối giao hảo với nước Tề, thì nước Tần xin biếu cho Đại Vương 600 dặm đất ở vùng Thương Vu, vậy là nước Sở được lợi, không những tiêu giảm được thế lực của nước Tề, mà còn được nước Tần tin cậy, thì há chẳng phải một công đôi việc sao?". Sở Hoài Vương nghe xong rất phấn khởi. Còn các đại thần dưới sự lung lạc của Lặc Thường, cũng tới tấp tỏ ra tán thành, tuy chỉ có đại thần Trần Chẩn là phản đối và nói rằng: "Nước Tần làm sao lại vô cớ tặng cho ta 600 dặm đất, đây cũng là vì sự liên minh giữa Sở và Tề, nếu bệ hạ cắt đứt bang giao với nước Tề, nước Tần mà không đến ức hiếp nước Sở mới là lạ. Hoặc giả nước Tần thực lòng muốn dâng cho ta 600 dặn đất, thì bệ hạ hãy cho người đi nhận đất trước, sau đó mới cắt đứt mối bang giao với nước Tề cũng chẳng muộn". Sở Hoài Vương nghe theo, liền cử người theo Trương Nghi sang nước Tần nhận đất.

Nhưng nào ngờ sau khi đến nước Tần, Trương Nghi bị ngã ngựa gẫy chân, nằm nghỉ ở nhà đến ba tháng trời không lên triều. Cùng lúc đó, Tề Tuyên Vương nghe nói nước Sở cắt đứt mối bang giao thì vô cùng bực tức, liền cử sứ thần đến gặp Tần Huệ Văn Vương, hẹn cùng nhau tấn công nước Sở. Sau khi hai nước Tần Tề liên hoàng, Trương Nghi mới lên triều nói với sứ thần nước Sở rằng: "Tôi thực có lỗi, phải chăng Sở Hoài Vương đã nghe nhầm, đất đai của nước Tần, làm sao lại có thể dâng cho người khác một cách dễ dàng như vậy? Tôi nói ở đây là 6 dặm, chứ có phải 600 dặm đâu". Sứ thần nước Sở đáp rằng: "Đại Vương chúng tôi nghe rõ mồn một là 600 dặm, chứ đâu phải 6 dặm". Bấy giờ, Trương Nghi chỉ giả câm giả điếc, không nói không rằng, sứ thần nước Sở bực tức ra về.

Sở Hoài Vương nghe sứ thần về nói lại thì nổi cơn lôi đình, bèn lập tức phát binh 100 nghìn quân tiến đánh nước Tần. Đại thần Trần Chẩn lại khuyên rằng: "Đánh Tần không bằng cắt đất cho Tần để phá hoại liên minh Tần Tề, rồi hẹn với Tần cùng tiến đánh nước Tề, như vậy có thể cướp lấy đất đai của nước Tề bù vào chỗ đất đai đã mất". Nhưng Sở Hoài Vương nào có chịu nghe theo, vẫn khăng khăng mở một trận kịch chiến với quân Tần ở Lam Điền, Tần Tề liên hợp với nhau cùng đánh cho quân Sở một trận thất bại thảm hại, 100 nghìn quân chỉ còn sống sót 30 nghìn, không những không thu được 600 dặm đất ở Thương Vu, ngược lại còn bị nước Tần lấn chiếm mất 600 dặm đất ở Hán Trung, buộc Sở Hoài Vương phải cầu hòa với nước Tần. Sau đó, Trương Nghi cũng dùng thủ đoạn này thuyết phục được các nước Tề, Triệu, Yến, Ngụy v v liên hoành với nước Tần, như vậy liên minh hợp tung 6 nước do Tô Tần kiến tạo nên đã bị Trương Nghi phá tan, đặt cơ sở vững chắc cho nước Tần tiến tới thống nhất TQ.

________________________________________

Mạnh Thường Quân dưỡng khách

 

Mạnh Thường Quân tên Điền Văn, là một quý tộc nước Tề, ông cùng Bình Nguyên Quân Triệu Thắng của nước Triệu, Tín Lăng Quân Ngụy Vô Kỵ nước Ngụy và Xuân Thân Quân Hoàng Yết nước Sở được gọi là bốn đại công tử trong thời kỳ Chiến Quốc. Điền Văn thích giao du với các nhân tài trong thiên hạ và thu nạp làm môn khách, ông cả thảy thu dung hơn 3000 môn khách, trong đó có không ít người là thực sự có tải năng, nhưng cũng có lắm kẻ chỉ vì miếng ăn mà đến sống ký sinh ở nhà ông.

Bấy giờ, Tần Chiêu Vương đang tìm đủ mọi cách nhằm phế bỏ việc liên minh với các nước Tề, Sở. Khi nghe nói Mạnh Thường Quân nước Tề là một nhân tài lại có thế lực, bèn cho người sang mời ông đến nước Tần và hứa sẽ cho ông giữ chức tể tướng. Mạnh Thường Quân dẫn theo một đám môn khách đến Hàm Dương, họ được Tần Chiêu Vương thân hành ra tiếp đón. Mạnh Thường Quân tặng cho nhà vua một chiếc áo bào bằng lông cáo rất quý hiếm, nhà vua rất hồ hởi, liền cử người đem lễ vật cất vào kho trong cung. Tần Chiêu Vương vốn muốn cử Mạnh Thường Quân làm tể tướng như đã hứa, nhưng vị tể tướng đương nhiệm rất ghen tức trước việc này, ông ta sợ bị mất chức, đã ngấm ngầm nhờ người đến nói với Tần Chiêu Vương rằng: "Điền Văn là một quý tộc nước Tề, thủ hạ của hắn lại đông như thế, nào ai dám đảm bảo là hắn không mưu lợi cho nước Tề, như vậy thì nước Tần chẳng nguy lắm sao?". Tần Chiêu Vương ngấm nghĩ hồi lâu rồi nói: "Đúng thế, tại sao ta lại không nghĩ tới việc này nhỉ, hãy đưa họ trở về là xong". Người kia đáp rằng: "Như thế thật không ổn, họ ở đây đã lâu tất nắm được tình hình nước Tần ta, làm sao lại có thể để họ về một cách nhẹ nhàng như vậy?". Tức thì, Tần Chiêu Vương bèn cho giam lỏng Mạnh Thường Quân.

Mạnh Thường Quân lo lắng cho tình cảnh của mình, mới đến hỏi bạn là Kinh Dương Quân người nước Tần, Kinh Dương Quân đã ám thị cho Mạnh Thương Quân hãy đến cầu cứu với ái phi Yến Cơ. Mạnh Thường Quân liền cử người đem theo lễ vật vào cung gặp Yến Cơ. Yến Cơ nói rằng: "Muốn tôi khuyên nhà vua thì cũng chẳng khó gì, nhưng phải biếu tôi một chiếc áo bào bằng lông cáo mới được". Mạnh Thường Quân biết vậy mới bàn với đám môn khách rằng: "Tôi chỉ có mỗi chiếc áo đã tặng cho vua Tần rồi thì làm sao có thể lấy lại, nay ai có thể kiếm được một chiếc áo khác?". Có một môn khách trả lời một cách ngắn gọn rằng: "Tôi đã có cách". Ngay đêm hôm đó, người môn khách này chui qua lỗ chó vào trong cung, vừa đi vừa bắt chước chó sủa rồi lẻn vào trong kho lấy chiếc áo bào ra. Mạnh Thường Quân liền nhờ Kinh Dương Quân đem áo đến biếu Yến Cơ. Đêm đó, Yến Cơ nỉ non bên gối khuyên Tần Chiêu Vương thả Mạnh Thường Quân về nước, nhà vua quả nhiên đồng ý ngay.

Mạnh Thường Quân nhận được văn thư quá cảnh, bèn cùng đám môn khách nhanh chóng chạy ra cửa ải Hàm Cốc, khi đến nơi đã nửa đêm, quan ải còn chưa mở cửa, mọi người đang sốt ruột chưa biết tính ra sao, thì trong đám có một người bỗng bắt chước tiếng gà gáy, tức thì gà trên cửa ải cũng đều gáy theo, lính canh ải cứ tưởng là trời đã sáng, liền mở cửa ải khám văn thư, cho đám Mạnh Thường Quân đi qua cửa ải.

Mạnh Thường quân về đến nước Tề, được Tề Dẫn Vương cho làm tể tướng, bấy giờ môn khách tăng lên càng đông hơn. Một hôm, có một người tên là Phùng Quán đến xin theo. Mạnh Thường Quân thấy người này ăn mặc rách rưới mới hỏi có tài cán gì, Phùng Quán thản nhiên trả lời là mình chẳng có chút tài cán gì. Mạnh Thường Quân chỉ cười và cho ở lại.

Mạnh Thường Quân nuôi hơn 3000 thực khách nên chi phí quá lớn, bổng lộc không đủ chi dụng, phải dựa vào tiền thuê đất đai ở Bích Thành do vua phong, nhưng có một năm không thu được tiền về, mới cử Phùng quán đi đòi. Phùng Quán trước khi đi có hỏi Mạnh Thường Quân rằng: "Khi tôi trở về, ông có muốn tôi đem quà gì về không?". Mạnh Thường Quân ngẫm nghĩ hồi lâu rồi nói: "Thì ông cứ xem ở đây thiếu thứ gì thì đem về ". Phùng Quán đến Bích Thành mới biết năm đó bị thiên tai mất mùa, nông dân thiếu lương ăn khổ cực hết chỗ nói, Phùng Quán bèn tập họp họ lại, rồi đốt hết mọi giấy tờ vay nợ, khiến mọi người vô cùng cảm động. Phùng Quán trở về nói lại đúng sự thực cho Mạnh Thường Quân nghe. Mạnh Thường Quân nổi giận nói: "Trước khi đi ông nói sẽ đem quà về, nay ở đâu ?". Phùng Quán đáp rằng: "Ông đã nói ở đây thiếu gì thì mua về, nhưng tôi thấy ở đây chẳng thiếu gì cả, chỉ thiếu có tình nghĩa mà thôi, nay tôi đã đem tình nghĩa về đây". Mạnh Thường Quân nghe vậy khóc cười không được, liền phất tay áo đi ra.

Hai năm sau, Tề Dẫn Vương tin nghe lời bịa đặt của hai nước Tần, Sở, rất lo lắng Mạnh Thường Quân công cao lấn chúa, gây uy hiếp tới vương vị của mình, bèn thu ấn tể tướng của Mạnh Thường Quân, các môn khách thấy vậy đều nối đuôi nhau bỏ đi, duy chỉ có Phùng Quán là còn ở lại. Mạnh Thường Quân uể oải trở về cố cư ở Bích Thành, dân trong thành nghe tin ông trở về, liền dắt già cõng trẻ ra ngoài 100 dặm để đón. Mạnh Thường Quân nhìn thấy cảnh tượng này rơm rớm nước mắt nói với Phùng Quán rằng: "Tình nghĩa mà ông đã đem cho tôi, nay tôi đã thực sự cảm nhận được rồi".

________________________________________

Triệu Vũ Linh Vương, Hồ phục, Kỵ xạ

 

Sau khi tam phân nước Tấn, nước Triệu do Triệu Tương Tử dựng nên từng một thời trở nên lớn mạnh, sau đó lại dần dần suy thoái. Năm 325 trước công nguyên, Triệu Vũ Linh Vương lên nối ngôi, đây là một ông vua rất có hoài bão, ông đã hạ quyết tâm cải cách để nhà nước lại trở nên lớn mạnh.

Bấy giờ người Hồ vẫn thường xuyên xuất binh quấy nhiễu biên giới các nước, họ giỏi nghề cung ngựa, mặc áo ngắn, mỗi người một ngựa, trong trận mạc vận động rất linh hoạt. còn các tướng sĩ nước Triệu vẫn ăn mặc theo tập tục cũ nghìn năm, áo rộng ống tay dài, khi ra trận thì cưỡi chiến xa bánh gỗ do nhiều ngựa kéo, đã nặng lại chậm chạp, nên thường bị người Hồ đánh bại. Triệu Vũ Linh Vương đã thấy rõ điều này, nên đã hạ quyết tâm phải cải cách quân đội. Một hôm, nhà vua triệu tập các đại thần lại để thương nghị và nói rằng: "Nước ta phía bắc có nước Yến và Đông Hồ, phía tây có các nước chư hầu như Tần, Hàn v v, giữa còn có nước Trung Sơn. Nếu ta không cải cách cho nhà nước lớn mạnh lên, thì bất cứ lúc nào cũng có nguy cơ mất nước, rõ ràng là trang phục của chúng ta không được gọn lắm, lao động và tác chiến đều rất bất tiện. Còn người Hồ thì sao? Họ mặc áo ngắn ống tay hẹp, chân đi ủng da rất nhanh tiện, nay ta muốn cải dùng Hồ phục, vậy các khanh nghĩ sao?". Đại thần Lâu Hoãn nghe xong rất tán thành và nói: "Chúng ta nên phỏng theo trang phục của người Hồ và học tập kỹ thuật tác chiến của họ". Triệu Vũ Linh Vương nói: "Phải lắm, chúng ta đánh trận toàn dựa vào đi bộ, nếu có dùng xe bằng ngựa kéo thì cũng rất nặng nhọc, chẳng linh hoạt chút nào, chúng ta phải học mặc trang phục người Hồ và kỹ thuật cưỡi ngựa bắn cung của họ". Triệu Vũ Linh Vương đã hạ quyết tâm và tự mình dẫn đầu làm trước. Tức thì nhà vua liền cùng Lâu Hoãn đổi mặc trang phục người Hồ.

Nhưng không ngờ vua tôi vừa mặc xong bước lên điện, thì cả cung đình bỗng chốc rộ lên như nước lạnh đổ lên chảo mỡ sôi. Họ người thì nói "Vua Trung Nguyên đi mặc Hồ phục thì thật chẳng ra thể thống gì ", kẻ thì chê trách Lâu Hoãn đã không khuyên vua thì chớ, lại còn vạch đường cho hươu chạy. Chú vua là Công Tử Thành lại càng tức giận hơn ai hết, ông liền thác bệnh ở nhà không lên triều. Đại thần Phì Nghĩa thấy vậy mới khuyên vua rằng: "Nếu như thuyết phục được một người có ảnh hưởng lớn trong triều như Công Tử Thành, thì các đại thần khác cũng phải chịu nghe theo". Triệu Vũ Linh Vương gật đầu nói: "Phải lắm, nên bắt đầu từ ông chú này, trẫm tin rằng ông ta nhất định sẽ chiếu cố đến đại cục".

Hôm đó, Công Tử Thành đang bực bội ở nhà thì bỗng nghe có Triệu Vũ Linh Vương đến thăm, Công Tử Thành thấy nhà vua vẫn mặc Hồ phục bèn lạnh lùng nói: "Nhà tôi nghênh đón vua Hoa Hạ, chứ không tiếp bọn Di Cảnh, mời ông hãy ra thay quần áo đã rồi tôi xin bái ân ". Triệu Vũ Linh Vương biến sắc mặt nói: "Ở nhà nghe lời bề trên, trong nước phải phục tùng nhà vua, những lễ phép này chẳng lẽ chú cũng không hiểu, là vua của một nước, trẫm kên gọi cả nước mặc Hồ phục, chú là một nguyên lão trong triều, cớ sao lại dẫn đầu phản đối ?"

Công Tử Thành vẫn không chịu nhún nhường, liền bác lại rằng: "Đúng, việc lớn nhà nước thì phải nghe lời vua, nhưng ở nhà thì tôi là chú, anh phải nghe lời bề trên, nay muốn đem một nước có nền văn minh lễ nghĩa ở Trung Nguyên đi học tập Di Cảnh còn chưa khai phá là không thể được, tôi không thể theo anh làm những việc xằng bậy như vậy". Triệu Vũ Linh Vương nghe xong không những không nổi giận, mà vẫn ôn tồn khuyên rằng: "Tôi đề xướng học tập người Hồ cưỡi ngựa bắn cung là nhằm nâng cao sức chiến đấu của quân đội, ngăn chặn kẻ địch xâm lấn, khiến nhà nước giàu mạnh lên, thế mà chú vẫn cứ khư khư bám lấy thói cổ hủ, phản đối cải cách, chẳng lẽ chú cứ muốn giữ mãi cục diện lạc hậu này ư? Mong chú hãy đứng ra làm gương cho con cháu ". Những lời nói chân tình của nhà vua đã khiến Công Tử Thành như sáng mắt ra.

Ngày hôm sau,Triệu Vũ Linh Vương tuyên bố trong triều cả nước đều đổi mặc Hồ phục, mệnh lệnh cho quân đội phải học cưỡi ngựa bắn cung, Công Tử Thành không những dẫn đầu mặc Hồ phục, mà còn tuyên truyền cho cuộc cải cách này. Các đại thần trong triều thấy Công Tử Thành đã chịu khuất phục và dẫn đầu làm gương thì cũng chẳng ai dám nói gì, đều phải làm theo cả.

Một năm sau, nước Triệu đã có một đạo kỵ binh tinh nhuệ. Năm 305 trước công nguyên, Triệu Vũ Linh Vương thân trinh chỉ huy đạo quân này đánh bại được nước Trung Sơn, thu phục được bộ lạc gần Đông Hồ. Bước sang năm thứ 7 lại thu phục được các nước Trung Sơn, Lâm Hồ v v, mở rộng thêm biên giới, từ đó tiếng tăm của nước Triệu càng thêm vang dội, không những các nước nhỏ, mà ngay đến lớn mạnh như nước Tần cũng không dám coi thường nước Triệu.

________________________________________

Tôn Tẫn-Bàng Quyên đấu trí

 

Bàng Quyên và Tôn Tẫn đều là danh tướng trong thời kỳ Chiến Quốc TQ, hai người cùng lúc đến học tập binh pháp với một học giả nổi tiếng là Quỷ Cốc tiên sinh. Tôn Tẫn là con cháu của nhà quân sự nổi tiếng Tôn Vũ, vốn được truyền dạy về "Tôn Tử binh pháp". Còn Bàng Quyên là một người gian ngoan quỷ quyệt, vì mục đích cá nhân đã tìm đủ cách tiếp cận với Tôn Tẫn và hai người kết nghĩa làm anh em.

Bàng Quyên là người nước Ngụy, khi được tin Ngụy Huệ Vương cũng muốn học theo lối Tần Hiếu Công đã chiêu nạp các hào kiệt như Thương Ương v v, khiến nước Tần trở nên giàu mạnh và được làm bá chủ, nên cũng muốn đến thử xem sao, anh ta vốn biết sư huynh Tôn Tẫn còn tài giỏi hơn mình, bèn đến hỏi ý xem sao, Tôn Tẫn nghe xong liền tỏ ý tán thành ngay. Trước khi chia tay, Bàng Quyên nói với Tôn Tẫn rằng: "Nếu tôi được nước Ngụy trọng dụng, thì nhất định sẽ tiến cử sư huynh để cùng nhau chung hưởng phú quý".

Bàng Quyên tuy xấu thói, nhưng cũng là một người tài ba, anh ta đem lý lẽ và phương pháp dụng binh trị nước của mình kể cho Ngụy Huệ Vương nghe, nhà vua đồng ý liền cử Bàng Quyên làm đại tướng. Từ đó, Bàng Quyên ngày ngày bày binh bố trận, thao luyện quân mã. Ít lâu sau đã đánh thắng được các nước nhỏ ở xung quanh, nước Tề là nước lớn ở phương đông cũng bị đánh bại. Nên Ngụy Huệ Vương càng thêm tín nhiệm Bàng Quyên, khiến Bàng Quyên trở nên càng ngông cuồng tự đại. Nhưng hắn cũng có một mối lo về người sư huynh Tôn Tẫn, có học vấn cao lại thông thạo "Tôn Tử binh pháp", một khi được nước khác trọng dụng mà trở thành đối thủ của mình thì nguy to. Bàng Quyên bèn tiến cử Tôn Tẫn với Ngụy Huệ Vương, nhà vua vốn biết tiếng Tôn Tẫn là người tài giỏi bèn đồng ý ngay. Tức thì Tôn Tẫn được mời đến nước Ngụy để cộng sự với Bàng Quyên. Nhưng Bàng Quyên làm như vậy là có dụng ý xấu, hắn đã nhiều lần gièm pha Tôn Tẫn trước mặt Ngụy Huệ Vương, khiến nhà vua ra lệnh cắt bỏ hai miếng xương bánh chè của Tôn Tẫn.

Sau khi Tôn Tẫn bị nhục hình, Bàng Quyên lại tỏ ra vô cùng thương xót đến đón Tôn Tẫn về nhà mình điều trị, Tôn Tẫn thấy vậy rất cảm động rồi hứa sẽ truyền "Tôn Tử binh pháp"cho Bàng Quyên. Cũng may có một người coi ngục tốt bụng đã mách với Tôn Tẫn biết rõ sự thực. Mãi đến lúc này Tôn Tẫn mới biết Bàng Quyên là một tên mặt người dạ thú. Ít lâu sau, Tôn Tẫn bỗng bị điên dại, suốt ngày chỉ lang thang đầu đường xó chợ, có lúc còn bốc phân lợn ăn. Bàng Quyên cho người theo dõi rất lâu, thấy vậy liền cho rằng Tôn Tẫn đã thực sự bị điên, rồi lơ là việc theo dõi. Bấy giờ, có một sứ thần nước Tề đến nước Ngụy đã lén lút vực Tôn Tẫn lên xe rồi đưa về nước Tề.

 

________________________________________

Thương Ương nam môn lập mộc

 

Vệ Ương nguyên họ Công Tôn, là một quý tộc đã suy đồi, vì thấy nước Vệ nhỏ yếu, không thể thi thố tài năng của mình, ông mới đi sang nước Ngụy, nhưng lại không được nước Ngụy trọng dụng, trong lúc Vệ Ương đang buồn chán, thì được tin Tần Hiếu Công đang chiêu nạp nhân tài, liền rời nước Ngụy sang nước Tần, rồi nhờ người gặp được Tần Hiếu Công, ông đem mưu lược và biện pháp khiến dân giàu binh mạnh của mình trình bày với Tần Hiếu Công và nói rằng: "Một nước muốn giàu mạnh thì phải phát triển sản xuất, dân giàu thì quân đội mới có đầy đủ lương thực, phải tăng cường huấn luyện quân đội, điều then chốt là phải thưởng phạt nghiêm minh, những nông dân thu hoạch nhiều và tướng sĩ anh dũng thiện chiến thì nhà nước phải khen thưởng, còn những kẻ lười nhác hoặc kẻ ham sống sợ chết trong chiến đấu thì phải trừng phạt, triều đình có uy tín rồi thì cải cách mới tiến hành thuận lợi, nhà nước mới giàu mạnh lên được". Tần Hiếu Công chăm chú lắng nghe và tán thành chủ trương của Vệ Ương, nhưng một số đại thần quý tộc đều hết sức phản đối, Tần Hiếu Công bèn triệu tập các đại thần lại để thảo luận vấn đề tốt xấu của biện pháp, đại thần Cam Long nói rằng: "Chế độ và lễ pháp hiện hành là do tổ tiên đặt ra, các quan lại chấp hành rất thuận tiện, mà dân chúng cũng đã quen thì không cần phải sửa đổi, nếu sửa đổi thì tất gây thành vạ lớn ".

Vệ Ương nghe vậy liền phản bác rằng: "Từ xưa đến nay, không hề có lễ pháp nào là không thay đổi, những lễ pháp mà các ông quan tâm có khiến nước Tần giàu mạnh không? Chỉ cần nước Tần giàu mạnh, thay đổi lễ pháp cũ thì có gì không đúng ?". Sau đó, Vệ Ương còn nêu ra rất nhiều sự thật trình bày về tính tất yếu của việc biến pháp. Tần Hiếu Công nghe xong phấn khởi nói: "Tiên sinh nói phải lắm, nước Tần tất phải thi hành tân pháp", rồi tôn Vệ Ương làm Tả Thứ Trường, nắm quyền thúc đẩy tân pháp, và còn tuyên bố nếu ai phản đối biến pháp thì sẽ bị trị tội.

Trải qua một thời gian trù bị, Vệ Ương đã đặt ra một loạt pháp lệnh biến pháp, nhưng ông lại không cho tuyên bố ngay, bởi lẽ ông biết rất rõ pháp lệnh mới chưa có uy tín, dân chúng còn do dự chưa tin, tức thì bèn nghĩ ra một kế, ông cho dựng một chiếc cột gỗ cao hơn ba trượng ở cửa nam thành, bên cạnh dán một tờ cáo thị rằng: " Ai vác được cây cột này đến cửa bắc thành thì sẽ thưởng cho mười lạng vàng". Một lát sau, mọi người kéo đến rất đông, ai nấy đều cảm thấy kỳ lạ, rồi bàn tán xôn xao.

Vệ Ương thấy không ai chịu làm, liền tăng tiền thưởng lên 50 lạng vàng. Một lát sau bỗng có một anh chàng lực lưỡng rẽ đám đông bước ra nói: "Để tôi thử xem", rồi vác cột gỗ đi về phía cửa bắc, mọi người đều kéo theo để xem. Bấy giờ, Vệ Ương đã đợi sẵn ở cửa bắc, rồi cử người ra nói rằng: "Tốt lắm, anh là một lương dân, đã tin tưởng và chấp hành lệnh tôi", rồi đưa 50 lạng vàng thưởng cho anh chàng này. Việc này bỗng chốc được truyền đi rất nhanh, rồi vang xa khắp nước Tần, mọi người đều kháo nhau rằng: "Tả Thứ Trường là người nói sao làm vậy, mệnh lệnh của ông ta thật không chút hàm hồ. "

_______________________________________

Tam gia phân Tấn

 

Cuối thời Xuân Thu, nước Tấn từng một thời bá chủ Trung Nguyên đã dần dần suy thoái, đời sau không bằng đời trước, mọi quyền hành trong triều đều rơi vào tay các khanh đại phu, đến thời Tấn Xuất Công thì nhà vua đã hoàn toàn trở thành bù nhìn của các khanh đại phu, các khanh đại phu tương đối có thế lực lúc bấy giờ là Trí thị, Triệu thị, Ngụy thị, Hàn thị, Phạm thị và Trung Hành thị, được gọi là " Lục Thị", trong đó Trí thị là có quyền lực lớn nhất, ngũ khanh phải cam chịu lép vế, kẻ khôn hồn thì tự biết giữ lấy thân, không ai dám tranh chấp.

Trí Bá Dao trong gia tộc Trí thị luôn luôn nắm giữ quyền bính, bài xích những kẻ không ăn cánh với mình để chuẩn bị cho sau này lên làm vua. Năm 458 trước công nguyên, ông trước tiên liên hợp với ba họ Hàn, Triệu và Ngụy, cùng tiêu diệt hai họ Phạm và Trung Hành, nên chỉ còn lại bốn thị, vì vậy dã tâm tiếm quyền đoạt chức của Trí thị càng lớn, ông đã nghĩ ra một độc kế để tiêu giảm thế lực của ba họ kia rồi dần dần tiêu diệt, mới nói với Triệu Tương Tử, Hàn Khang Tử và Ngụy Hằng Tử rằng, nước Tấn kể từ thời Tấn Văn Công luôn luôn là bá chủ Trung Nguyên, nay địa vị bá chủ đã bị hai nước Ngô và Việt đoạt mất. Nay nhằm chấn hưng và khôi phục lại địa vị bá chủ của nước Tấn, tôi chủ trương mỗi họ phải nộp trả 100 dặm đất và hộ khẩu cho nhà nước.

Ba họ đại phu này vốn biết dã tâm của Trí Bá Dao đã mượn danh nghĩa nước Tấn để bức họ giao trả ruộng đất, nhưng họ lại không nhất trí với nhau, Hàn Khang Tử và Ngụy Hằng Tử đã lần lượt giao trả ruộng đất và hộ khẩu cho Trí Bá Dao, duy chỉ có Triệu Tương Tử là không chịu và nói rằng: "Ruộng đất là của cải do cha ông lập chiến công mới có, nay tại sao lại phải nộp trả ?". Trí Bá Dao biết được vô cùng bực tức, liền ra lệnh cho hai họ Hàn, Ngụy, cùng liên hợp tiến đánh họ Triệu, Triệu Tương Tử biết mình không đủ sức chống đỡ với ba họ này, đành dẫn quân mã bản bộ lui về trấn giữ ở Tấn Dương. Tấn Dương nguyên là đất tổ họ Triệu, thành cao tường chắc, lương thảo đầy đủ, lại được dân chúng ủng hộ, là một cứ điểm phòng thủ rất vững trãi. Binh mã họ Triệu đã dựa vào tường thành kiên cố, khí thế sục sôi và tên nỏ bắn ra như mưa, kiên trì phòng thủ ở Tấn Dương được gần ba năm trời, khiến Trí Bá Dao lúng túng không biết xử trí ra sao. Một hôm, Trí Bá Dao đến xem địa hình ở phía bắc thành Tấn Dương, thấy nước sông Phần dào dạt chảy quanh thành rồi đổ về hướng đông bắc, liền nghĩ ra một kế, nay nhân lúc nước sông Phần vơi cạn, cho quân lính đắp một đoạn đê ở trên thượng du để ngăn nước, đợi đến mùa mưa khi nước lũ đổ về thì phá đê cho nước tràn vào thành Tấn Dương. Trí Bá Dao nghĩ vậy liền ra lệnh cho binh sĩ lập tức đắp đê. Quả nhiên, khi đến mùa mưa, Trí Bá Dao lệnh cho quân sĩ phá đê, dòng nước lũ như một đàn ngựa hoang bất kham lồng lộn từ thượng du ào ào đổ xuống tràn ngập cả thành Tấn Dương, dân chúng trong thành đều phải leo lên mái nhà lánh nạn.

Sau khi thành Tấn Dương bị ngập, Triệu Tương Tử luống cuống liền cho gọi mưu sĩ Trương Mạnh Đàm đến thương nghị. Trương Mạnh Đàm hiến kế rằng: "Hai họ Hàn, Ngụy bị họ Trí bức ép tới đây chứ không phải là tình nguyện, nay tôi xin sang đó mật bàn với họ, động viên họ làm phản để cùng đối phó với họ Trí". Đêm hôm đó, Trương Mạnh Đàm lẻn ra khỏi thành, lần đến đại bản doanh của ba họ kia, trước sau tìm gặp Hàn Khang Tử và Ngụy Hằng Tử, hai họ này vốn đang lo cho số phận của mình, nay được Trương Mạnh Đàm bày vẽ cho, thì đều đồng ý cùng phản lại họ Trí và quyết định đêm hôm sau thì khởi sự.

Canh ba đêm hôm sau, Trí Bá Dao còn đang mơ màng, thì chợt nghe tiếng hò reo ầm ĩ, liền vùng dậy chạy ra xem, thì thấy doanh trại đã bị ngập nước. Đây là do hai họ Hàn Ngụy đã bí mật khơi nước cho tràn vào doanh trại Trí Bá Dao. Trí Bá Dao đang luống cuống thì bỗng thấy quân sĩ của ba họ Hàn, Triệu, Ngụy lướt thuyền bè từ bốn bề lao tới, quân họ Trí bị chém chết và chết đuối nhiều đến không đếm xuể, Trí Bá Dao cũng bị chém chết trong đám loạn quân.

Ba họ Hàn ,Triệu, Ngụy đoạt lại đất đai đã mất, rồi cùng phân chia tài sản và đất đai của nhà họ Trí. Ít lâu sau, phần đất ít ỏi của vua Tấn cũng bị phân chia nốt. Đó chính là "Tam gia phân Tấn" nổi tiếng trong lịch sử.

________________________________________

Phạm Lãi và Văn Chủng

 

Việt Vương Câu Tiễn nếm mật nằm gai, trải qua mấy năm cố gắng, khiến thực lực nước Việt trở nên hùng mạnh, nhà vua vô cùng mừng rỡ, thường cùng hai vị đại thần Phạm Lãi và Văn Chủng thương nghị việc thảo phạt nước Ngô.

Bấy giờ, Ngô Vương Phù Sai do được làm bá chủ, nên tỏ ra vô cùng kiêu ngạo và đam mê hưởng lạc, Câu Tiễn vẫn thường xuyên cử người sang tiến cống và bày tỏ lòng trung thành đối với nước Ngô. Lão thần Ngũ Tử Tư thấy vậy mới trách vua Ngô rằng: "Đại vương năm xưa lẽ ra không nên thả Câu Tiễn về nước, Thần nghe nói Câu Tiễn sống cuộc đời nếm mật nằm gai, đang mài sắc ý chí, chúng ta không thể lơ là về điều này ". Nhưng Phù Sai nào chịu nghe theo.

Văn Chủng được biết Phu Sai ham mê tửu sắc,bèn khuyên Câu Tiễn hãy tuyển chọn mỹ nữ trong nước đem dâng cho Phù Sai, sau tìm được một mỹ nữ tên là Tây Thi, bèn lệnh cho Phạm Lãi đưa sang nước Ngô. Phu Sai thấy Tây Thi đẹp như hằng nga giáng trần thì mê mẩn tâm thần, rồi từ đó càng thêm lơ là việc nước.

Hai năm sau, nước Ngô đánh bại được nước Tề, Phù Sai càng thêm hý hửng, quan lại các cấp đều đến chúc mừng, duy chỉ có Ngũ Tử Tư thì nói rằng: "Việc đánh bại nước Tề đã thấm vào đâu, nước Việt mới là nguồn gốc gây ra tai họa, chỉ có diệt xong nước Việt, thì mới trừ được hậu hoạn". Ngô vương Phù Sai nghe vậy cảm thấy rất cụt hứng.

Ít lâu sau, Phù Sai cử Ngũ Tử Tư đi sứ nước Tề, Ngũ Tử Tư cảm thấy việc vua Ngô mất nước đã gần trong gang tấc, nên đã gửi con cho một vị đại thần nước Tề nuôi hộ, đổi họ Vương Tôn Thị. Bá Tích biết được bèn đem mách với Phù Sai và đơm đặt Ngũ Tử Tư. Sau khi Ngũ Tử Tư về nước, Phù Sai bèn lập tức cử người đem một thanh kiếm sang bức Ngũ Tử Tư phải tự sát, Ngũ Tử Tư không biết nói sao mới dặn lại các tùy tùng rằng: "Ngày tận số của nước Ngô chẳng còn bao xa nữa, hãy khoét con ngươi ta đem treo ở trên cửa đông thành Cô Tô, ta muốn nhìn xem quân đội nước Việt tiến vào ra sao."

Sau khi Ngũ Tử Tư mất, Bá Tích lên làm thừa tướng. Năm 482 trước công nguyên, Việt vương Câu Tiễn nhân lúc Ngô vương Phù Sai sang Hoàng Trì họp bang hội với các nước, bèn thống lĩnh 50 nghìn đại quân tiến đánh nước Ngô, chỉ trong ba ngày đã chiếm lĩnh được đô thành Cô Tô. Phù Sai được tin, liền vội vàng dẫn quân về nước rồi cử người sang cầu hòa với nước Việt, Câu Tiễn thấy nước Ngô bấy giờ còn khá mạnh, chưa thể nào diệt được nước Ngô, liền đồng ý lời cầu hòa rồi rút quân về nước. Bốn năm sau, Câu Tiễn lại dấy binh tiến đánh nước Ngô, quân Ngô bị thất bại thảm hại, Bá Tích là người đầu tiên mở cửa thành ra đầu hàng, còn Phù Sai lấy vải che mặt rồi tự sát, nghe nói là không có mặt mũi nào để nhìn Ngũ Tử Tư.

Việt vương Câu Tiễn nếm mật nằm gai, trả thù được nước Ngô, trong khi phong thưởng các đại thần thì chẳng thấy Phạm Lãi đâu, thì ra Phạm Lãi đã đem theo nàng Tây Thi lên thuyền qua Thái Hồ trốn sang nước khác, ông còn để lại một câu trung ngôn cho Văn Chủng rằng: "Phi điểu tận, lương cung tàng, giảo thỏ tử, tẩu cẩu phanh". Có nghĩa là: Chim bắn hết rồi thì cất cung, thỏ chết hết rồi thì tất mổ chó để nấu. Đây có ý khuyên Văn Chủng nên sớm lui về sống ẩn cư. Nhưng Văn Chủng cậy mình có công, sẽ được phong quan tiến chức, nhưng nào ngờ Cẫu Tiễn đã cử người đưa cho ông một thanh kiếm, Văn Chủng nhìn kỹ thì chính là thanh kiến mà Ngũ Tử Tư tự vẫn năm xưa, bấy giờ mới hối hận mình đã không nghe lời khuyên của Phạm Lãi, đành ngửa mặt lên trời than rồi tự vẫn. Còn Phạm Lãi đi sang đất Đào Ấp làm nghề buôn bán trở nên rất giàu có, mà người thiên hạ gọi là Đào Chu Công, được thương nhân đời sau tôn thời là thần bảo hộ.

Câu Tiễn sau khi diệt xong nước Ngô, đã giết chết tên gian thần Bá Tích, sau đó vượt sông Hoài tiến lên hướng bắc, cùng các nước Tề, Tấn, Tống, Lỗ v v họp bang hội ở Từ Địa. Chu Nguyên Vương thừa nhận địa vị bang chủ của Câu Tiễn. Do đó, Câu Tiễn đã trở thành một vị bá chủ cuối cùng trong thờ đại Xuân Thu.

________________________________________

Câu Tiễn nếm mật nằm gai

 

 

 

 

 

Sau khi Ngô vương Hạp Lư đánh bại nước Sở, trở thành một cường quốc ở phương nam, bèn nảy sinh ý định mở rộng thế lực vào Trung Nguyên. Nhưng nước Việt một nước láng giềng và luôn có bất hòa với nước Ngô cũng dần dần trở nên lớn mạnh, đã tạo thành mối uy hiếp đối với hậu phương của nước Ngô. Năm 496 trước công nguyên, Vương Doãn vua nước Việt bị bệnh qua đời, vua Ngô nhân lúc nước Việt bận việc tang, bèn phát động tấn công, hai bên mở trận kịch chiến ở Huề Lý, rút cuộc quân Ngô bị thất bại thảm hại, Ngô vương Hạp Lư do bị thương, lại vì tuổi già sức yếu nên khi trở về đến nửa đường thì mất, con là Phù Sai lên nối ngôi. Phù Sai luôn luôn ghi nhớ lời cha dặn trước lúc qua đời. Nhằm tự răn mình, nhà vua đã cử một người đứng trước cửa cung, mỗi khi mình ra vào thì người này đều hô to lên rằng; " Phù Sai, người đã quên mối thù nước Việt giết cha rồi ư ?". Phù Sai liền khóc nói: "Không, không dám quên, ba năm sau nhất định báo thù". Nhà vua ra lệnh cho Ngũ Tử Tư và Bá Tích khẩn trương thao luyện binh mã, để chuẩn bị tấn công nước Việt.

Hai năm sau, Ngô vương Phù Sai vì nóng lòng muốn báo thù, liền thống lĩnh đại quân tiến đánh nước Việt. Đại phu Phạm Lãi nói với Việt vương Câu Tiễn rằng: " Nước Ngô đã luyện tập binh mã trong hai năm, họ nóng lòng muốn báo thù, nên khí thế rất lớn mạnh, chúng ta chỉ nên giữ thành, chứ không ra nghênh chiến". Câu Tiễn không chịu nghe theo, liền dẫn quân ra Tiêu Sơn mở một trận kịch chiến với quân Ngô, rút cuộc quân Việt bị thất bại, Câu Tiễn chỉ còn lại 5000 quân mã chạy trốn lên núi Hội Khê, quân Ngô thừa thắng đuổi riết rồi bao vây chặt núi Hội Khê. Câu Tiễn cuống cuồng liền cùng Phạm Lãi bàn cách đối phó, Phạm Lãi nói: "Đã đến nước này, chúng ta chỉ còn cách cầu hòa mà thôi". Câu Tiễn nghe theo, liền cử đại thần Văn Chủng sang dinh trại quân Ngô cầu hòa.

Văn chủng đến nơi vội quỳ gối trước mặt Phù Sai nói rằng, Câu Tiễn nguyện làm thần tử của Ngô vương, Phù Sai toan nhận lời, nhưng bị Ngũ Tử Tư kiên quyết phản đối, Văn Chủng đành phải cúi đầu quay trở về, sau được biết Bá Tích tể tướng nước Ngô là một người hiếu sắc, liền chọn một tốp mỹ nữ cùng nhiều báu vật sang biếu và nhờ Bá Tích nói giúp, Bá Tích nhận lời, liền năm lần bảy lượt đến khuyên Phù Sai, khiến nhà vua phải mềm lòng đã bất chấp sự phản đối của Ngũ Tử Tư, đồng ý lời thỉnh cầu của nước Việt, nhưng với điều kiện là hai vợ chồng Câu Tiễn phải được đưa sang nước Ngô. Câu Tiễn chẳng còn cách nào khác, đành phải phó thác việc lớn nhà nước cho đại thần Văn Chủng, rồi cùng Phạm Lãi lên đường sang nước Ngô.

Vua Ngô sắp xếp cho hai vợ chồng Câu Tiễn đến ở trong một ngôi nhà đá bên cạnh mộ Hạp Lư, họ hàng ngày chăn ngựa, quần áo lam lũ, ăn toàn cám và rau dại. Câu Tiễn ngày ngày đi chăn ngựa, vợ ở nhà giặt giũ nấu cơm, còn Phạm Lãi thì kiếm củi, họ tỏ ra rất an phận, nền nếp, một lòng một dạ cung kính đối với vua Ngô. Nhằm bày tỏ lòng trung thành của mình, khi Phù Sai lâm bệnh, Câu Tiễn thậm trí còn nếm phân của Phù Sai để phán đoán bệnh tình,việc làm này khiến Phù Sai rất cảm động và cho rằng Câu Tiễn đã thực lòng quy thuận mình, nên ba năm sau liền phóng thích vợ chồng Câu Tiễn về nước. Sau khi về đến nước Việt, Câu Tiễn liền gắng công xây dựng đất nước, chờ đợi thời cơ để rửa hận, nhà vua lo mình thỏa mãn với hiện trạng, mà làm nhụt ý chí báo thù rửa hận của mình, nên đã tự sắp xếp cho mình một môi trường sống rất gian khổ, ông treo một chiếc mật ở giữa nhà ăn, trước khi ăn cơm đều nếm vị đắng của mật và tự nhắc nhở mình "Chớ quên nỗi nhục ở Hội Khê", còn ban đêm thì ngủ trên đống củi rơm. Đây chính là xuất xứ của câu thành ngữ "Nếm mật nằm gai".

Câu Tiễn hàng ngày đi làm ruộng, vợ ở nhà dệt vải, khuyến khích nông dân ra sức phát triển sản xuất, tăng thêm của cải cho nhà nước, quy định trong 7 năm không thu thuế, giảm gánh nặng cho nông dân. Đồng thời còn đặt ra chính sách dân số, người già không được lấy vợ trẻ, thanh niên không được lấy vợ già, sinh đẻ được nhà nước chiếu cố, sinh con trai từ một đứa trở lên đều do nhà nước nuôi dưỡng. Do đó, chỉ trong mấy năm mà dân số nước Việt tăng lên nhanh chóng, nhà nước cũng từ yếu chuyển sang mạnh. Câu Tiễn lại ra lệnh cho Phạm Lãi huấn luyện binh mã, Văn Chủng quản lý việc lớn nhà nước và không ngừng tiến cống cho nước Ngô, loại trừ được sự hoài nghi của Phù Sai, buông lỏng việc phòng bị đối với nước Việt, tình hình vẫn trong trạng thái hòa bình, nhưng nước Việt đã nhân cơ hội này trở nên ngày càng lớn mạnh.

________________________________________

Khổng Tử chu du liệt quốc

 

Ngô Vương Hạp Lư được sự trợ giúp của Ngũ Tử Tư và Tôn Vũ v v, nhà nước ngày một lớn mạnh, nên có ý tranh bá với các nước chư hầu ở Trung nguyên. Trước tiên là nước Tề nước láng giềng ở miền bắc, bấy giờ Tề Cảnh Công đang chấp chính, nhà vua bổ nhiệm Yến Anh có tài trị nước làm thừa tướng, thực hiện cải cách, khiến nước Tề lại bắt đầu trở nên lớn mạnh.

Năm 500 trước công nguyên, Tề Cảnh Công và Hạp Lư muốn liên hợp với các nước chư hầu Trung Nguyên như nước Lỗ v v, cùng đối phó với sự uy hiếp của nước Ngô, khôi phục lại sự nghiệp bá chủ của Tề Hằng Công, mới hẹn với Lỗ Định Công đến mở bang hội ở thung lũng nơi giáp ranh giữa hai nước.

Bấy giờ mở bang hội phải có một đại thần đắc lực làm trợ thủ được gọi là "Tướng lễ", Lỗ Định Công liền cử tư khấu Khổng Tử đảm nhiệm việc này.

Khổng Tử tên Khưu, tự Trọng Ni, người nước Tống, do tổ tiên xảy ra xung đột với gia tộc Hoa Thị, nên buộc phải lánh nạn sang nước Lỗ, cha ở nước Lỗ vì lập chiến công nên được phong làm Ấp Đại Phu, khi Khổng Tử lên ba thì cha qua đời. Mẹ Khổng Tử là Ngạn Thị vì không chịu đựng được sự ức hiếp của gia tộc Khổng Thị, mới đem theo Khổng Tử đến sống ở Khúc Phụ.

Nước Lỗ là phong địa của Chu Công Đán thời kỳ đầu nhà Chu, còn bảo lưu khá nhiều lễ nghi phiền phức như cưới xin, ma chay, tế tổ v v, do chịu sự ảnh hưởng của nền văn hóa cổ xưa này, nên Khổng Tử từ nhỏ đã có hứng thú đối với những lễ nghi này, ông thường bắt chước người lớn tham gia các nghi lễ, ông ham hỏi ham học và không biết mệt mỏi, nên rất tinh thông các lễ nghi của nhà Chu, tiếng tăm ngày một vang xa, có rất đông người đến xin theo học, do đó ông đã mở trường tư thục để dạy học.

 

________________________________________

Ngũ Tử Tư quy báo Sở Vương thù

 

Năm 527 trước công nguyên, Sở Bình Vương thấy nước Tấn ngày càng lớn mạnh, bèn quyết định liên hợp với nước Tần cùng đánh, mới cử đại phu Phí Vô Cực sang nước Tần cầu hôn cho thái tử Kiến, Tần Ai Công xét vì lợi ích nhà nước, bèn nhận lời gả em gái là Mạnh Doanh cho thái tử nước Sở.

Mạnh Doanh là một thiếu nữ nhan sắc, Sở Bình Vương thoạt nhìn thấy nàng đã đem lòng say đắm, Phí Vô Cực là một tên tiểu nhân gian nịnh, khi đoán biết được ý của Sở Bình Vương mới nói rằng: "Nếu đại vương có ý với nàng, thì cứ giữ nàng ở lại là xong". Sở Bình Vương nghe vậy chính hợp với ý mình, liền giữ Mạnh Doanh ở lại trong cung, rồi đem người thị nữ của nàng gả cho thái tử Kiến. Sự việc này chẳng bao lâu bị lộ ra, Phí Vô Cực sợ thái tử Kiến biết, bèn xui Sở Bình Vương trục xuất thái tử ra khỏi Ảnh Đô, đi trấn giữ ở Thành Phụ. Phí Vô Cực còn chưa yên tâm, hắn lo ngại Sở Bình Vương một khi qua đời, thái tử Kiến mà lên nối ngôi thì tất báo thù mình, nên tìm đủ mọi cách để hãm hại thái tử, hắn thường xuyên khích bác trước mặt Sở Bình Vương rằng: "Nay đại vương cướp mất vợ của thái tử, thái tử tất thù oán đại vương, nay thái tử được sự trợ giúp của Ngũ Xa, đang khẩn trương chiêu binh mãi mã, ngày đêm thao luyện, để chuẩn bị sau này đánh về Ảnh Đô báo thù đại vương đó". Sở Bình Vương nghe xong bán tin bán nghi, bèn triệu Ngũ Xa đến quở trách.

Ngũ Xa là con trai của đại tướng Ngũ Cử, tính tình cương trực và một lòng trung thành với thái tử Kiến, ông cảm thấy Sở Bình Vương làm việc thật quá đáng, và vô cùng căm ghét Phí Vô Cực, bèn nói thẳng trước mặt Sở Bình Vương rằng: "Đại vương cướp con dâu đã là một việc ngang trái, nay làm sao lại tin nghe lời đồn nhảm để tàn hại thân sinh cốt nhục của mình?". Sở Bình Vương xấu hổ đến bực tức, bèm giam Ngũ Xa vào ngục. Phí Vô Cực lại xui Sở Bình Vương phế bỏ thái tử Kiến và cử người sang ám sát thái tử. Cũng may thái tử Kiến biết trước việc này, vội đem theo công tử Thắng chạy trốn sang nước Tống. Phí Vô Cực biết Ngũ Xa có hai người con trai là Ngũ Thường và Ngũ Tử Tư, đều là kỳ tài văn võ kiêm toàn, nếu không nhổ cỏ tận gốc thì tất sinh hậu hoạn, mới lừa Sở Bình Vương bức Ngũ Xa viết thư cho hai người con trai, bảo họ đến Ảnh Đô để giết đi. Ngũ Thường vì thương cha vội đến Ảnh Đô, ít lâu sau thì hai cha con bị giết chết.

Ngũ Tử Tư không bị mắc lừa, chàng chạy trốn sang nước Tống tìm gặp thái tử Kiến, nhưng chẳng may nước Tống xảy ra nội loạn, hai người đành phải đem theo công tử Thắng chạy trốn sang nước Trịnh, yêu cầu Trịnh Định Công giúp mình báo thù, nhưng vua Trịnh không đồng ý, thái tử Kiến bèn ngấm ngầm câu kết với một số đại thần nước Trịnh, toan lật đổ Trịnh Định Công, rút cuộc sự việc bị bại lộ rồi bị giết chết. Ngũ Tử Tư vội vàng đem theo công Thắng chạy trốn sang nước Ngô. Trên đường đi vì sợ quân Trịnh đuổi theo, quân Sở chắn lối, nên phải đêm nấp ngày đi, mười mấy ngày sau mới đến Chiêu Quan, nơi giáp ranh giữa  hai nước Sở Ngô.

Khi đến đây Ngũ Tử Tư mới cảm thấy lạnh gáy, trên cửa quan có treo tấm hình của mình, Sở Bình Vương đã sớm điều binh bày thành thiên la địa võng, kiển tra rất cẩn mật, dù có cánh cũng không thể bay qua cửa ải. Ngũ Tử Tư đang chưa biết suy tính ra sao, thì vừa may có một cụ già tốt bụng tên là Đông Cao Công, rất đồng tình với cảnh ngộ của Ngũ Tử Tư, cụ dẫn Ngủ Tử Tư về nhà mình ở lại mấy ngày và thịnh tình khoản đãi. Trong truyền thuyết có nói Ngũ Tử Tư vì quá lo nghĩ không ăn không ngủ được mấy ngày, nên râu tóc đều bạc trắng. Đông Cao Công có một người bạn rất giống Ngũ Tử Tư, liền bảo ông này đi qua cửa ải trước thì bị bọn lính canh ải bắt giữ, còn Ngũ Tử Tư vì râu tóc bạc phơ nên đi qua ải chót lọt.

Ngũ Tử Tư và công tử Thắng đến thủ đô nước Ngô, tứ cố vô thân, đành phải ra thổi tiêu ăn xin ở ngoài chợ. Thầy tướng Bị Ly thấy Ngũ Tử Tư tướng mạo đàng hoàng, nói năng cao nhã bèn tiến cử với vua Ngô và được phong làm đại phu. Bấy giờ, công tử Quang trong vương thất nhà Ngô đang âm mưu tiếm ngôi vua, Ngũ Tử Tư phát hiện vị công tử này là người tất thành nghiệp lớn, bèn tiến cử võ sĩ Chuyên Chư dùng dao găm trong bụng cá vào cung giết chết vua Ngô, công tử Quang lên nối ngôi, còn Ngũ Tử Tư được cử giữ việc quân sự nhà nước.

Năm 506 trước công nguyên, vua Ngô phong Tôn Vũ làm đại tướng, Ngũ Tử Tư làm phó tướng dẫn quân tiến đánh nước Sở, nước Sở bị thất bại thảm hại, bấy giờ Sở Bình Vương đã chết từ lâu. Ngũ Tử Tư đau đớn vì việc cha anh bị sát hại, bèn cho đào mộ Sở Bình Vương lên, rồi dùng roi quất vào xác hơn 300 roi cho hả giận.

Sau khi vua Ngô về đến đô thành Cô Tô, công đầu thuộc về Tôn Vũ, Tôn Vũ không muốn làm quan liền về quê sống ẩn dật, rồi viết ra cuốn "Tôn Tử Binh pháp", một trước tác quân sự nổi tiếng trong và ngoài nước. Còn Ngũ Tử Tư được phong làm tể tướng, giúp vua Ngô gây dựng cơ đồ bá nghiệp.

________________________________________

Sở Trang Vương nhất minh kinh nhân

 

 

Sau khi nước Sở bị nước Tấn đánh bại tại Thành Bộc ít lâu, Sở Thành Vương bị con trai là Thương Thần giết hại một cách tàn nhẫn. Thương Thần lên làm vua, tức Sở Mục Vương, nhà vua không cam chịu nước Sở mất đi địa vị bá chủ, liền áp dụng một loạt chính sách nước giàu binh mạnh, tăng cường huấn luyện binh mã. Nhưng trong lúc nhà vua chuẩn bị giao tranh, quyết một trận sống mái với nước Tấn, thì chẳng may bị bệnh đột ngột qua đời, con trai của nhà vua lên nối ngôi, tức Sở Trang Vương.

Năm 631 trước công nguyên, nước Tấn nhân cơ hội nước Sở bận việc tang, đã thu nạp mấy nước nhỏ vốn phụ thuộc nước Sở, rồi kết thành đồng minh. Nước Sở nhận được tin này, các đại thần đều tới tấp yêu cầu nhà vua xuất binh để tranh bá với nước Tấn. Nhưng Sở Trang Vương vừa mới lên ngôi được ít lâu lại làm ngơ trước việc này, mà hàng ngày chỉ ăn chơi với đám quý phi, ban ngày thì du ngoạn săn bắn, đêm đến thì bày tiệc uống rượu, không mảy may để ý đến việc triều chính và cơ nghiệp bá chủ, mọi lời khuyên của các đại thần đều bỏ ngoài tai, tình trạng này cứ kéo dài mãi tới ba năm trời. Hơn nữa, nhằm được yên tĩnh hơn, nhà vua đã cho dựng một tấm biển gỗ trên viết: "Ai dám can ngăn thì chém chết".

Lệnh cấm tuy nghiêm, nhưng vẫn không thể nào đe dọa được các trung thần trong triều, đại thần Ngũ Cử sau khi trải qua suy nghĩ kỹ liền vào cung gặp Sở Trang Vương, đến nơi thì thấy nhà vua một tay ôm Trịnh Cơ, một tay ôm Sái Nữ, say ngất ngưởng đang ngồi xem ca múa. Khi thấy Ngũ Cử đến liền nheo mắt hỏi rằng: "Đại phu đến đây muốn uống rượu hay vui chơi ?". Ngũ Cử đáp rằng: "Có người bảo thần đoán một câu đố, mà thần nghĩ mãi không ra, nên mới đến nhờ đại vương đoán giúp". Sở Trang Vương vội hỏi lại: "Câu đố gì mà khiến đại phu lại đoán không ra? Đại phu hãy nói ta nghe". Ngũ Cử chậm rãi nói: "Thủ đô nước Sở có một con chim lớn màu sắc rực rỡ, vô cùng đẹp đẽ, nó ung dung đậu trên đồi cao, đã ba năm trời không bay không hót, các văn võ trong triều đều không biết nó là loài chim gì?". Sở Trang Vương nghe xong đã hiểu rõ ngụ ý của Ngũ Cử, bèn cười đáp rằng: "Trẫm đoán ra rồi, đó không phải là một con chim bình thường, nó ba năm không bay, nhưng đã bay thì vút cao chọc trời. Nó ba năm không hót, mà đã hót thì khiến mọi người phải khiếp vía, khanh cứ chờ đấy mà xem". Ngũ Cử đã đoán biết được ý của Sở Trang Vương, liền vui vẻ lui ra.

Mấy tháng sau, con chim ấy vẫn im lặng như trước, không hót cũng không bay, suốt ngày đắm chìm trong tửu sắc. Đại thần Tô Tòng không thể nhịn được nữa, bèn khóc lóc đến g̣ặp Sở Trang Vương, Nhà vua không hiểu ra sao liền hỏi rằng: "Tiên sinh làm sao lại thương tâm như vậy?". Tô Tòng đáp: "Thần thương tâm là bởi mình sắp chết và nước Sở sắp bị diệt vong". Sở Trang Vương không hiểu bèn hỏi tại sao thì Tô Tòng đáp: "Thần muốn khuyên nhưng đại vương không nghe, thì thần tất bị giết chết. Đại vương suốt ngày đam mê tửu sắc, không coi việc triều chính, thì nước Sở bị diệt vong đã ở ngay trước mắt". Sở Trang Vương nổi giận mắng rằng: "Ngươi rõ là muốn chuốc lấy cái chết, đã biết mà vẫn làm, thực là ngu ngốc đến cùng cực". Tô Tòng đau đớn nói: "Thần tuy ngốc nhưng đại vương còn ngu ngốc hơn thần, sau khi thần chết thì còn có tiếng thơm là trung thần, còn đại vương thì sao? Sau khi nước Sở bị diệt thì đại vương sẽ là một ông vua mất nước mà thôi".

 

________________________________________

Tần Mục Công tranh bá

 

 

 

Sau khi Tấn Văn Công xưng bá, trong tay nắm giữ quyền tự do chinh phạt các nước chư hầu do Chu Tương Vương ban cho, bèn muốn báo thù các nước đã vô lễ với mình trong thời gian bị lưu vong, mà nước Trịnh là một trong số này.

Nước Trịnh nằm ở giữa các nước lớn, chẳng còn cách nào khác đành phải làm lành với Tấn, mà lạnh nhạt với Sở. Tấn Văn Công rất không vừa ý trước lối làm tráo trở này, liền liên hợp với nước Tấn tiến đánh nước Trịnh. Khi đang trên đường hành quân, Tần Mục Công nghe theo lời khuyên của đại thần nước Trịnh, xét vì trận đánh này sẽ chẳng mang lại lợi ích gì, chỉ a dua với người khác mà thôi, tức thì bèn kết bang với nước Trịnh, rồi rút quân trở về, để lại ba vị tướng quân dẫn 2000 quân mã giúp nước Trịnh canh giữ đô thành. Tấn Văn Công biết được tin này, trong lòng vô cùng khó chịu, nhưng vì nghĩ tới việc "Tần Tấn chi hảo", nên cũng không nỡ trở mặt.

Ít lâu sau, Tấn Văn Công tạ thế, nước Tấn trong một lúc không đủ sức lực tranh bá với nước Tần. Tần Mục Công được biết Kỷ Tử- một viên tướng ở lại giúp nước Trịnh, đã nắm trong tay chiếc chìa khóa vào cửa bắc thành đô nước Trịnh, thì cho rằng thời cơ đã tới, không nghe theo lời khuyên và sự phản đối của các đại thần Kiển Thúc và Bách Lý Hề, một mực dẫn quân trinh phạt nước Trịnh. Nhưng nước Trịnh được một lái buôn báo trước việc này, bèn trục xuất các tướng sĩ nước Tần tước kia ở lại giúp nước Trịnh, nên quân nước Tần đành phải quay trở về. Trên đường về cứ tung tin là quân nước Tần đã tiêu diệt được nước Dung Hoạt phụ thuộc nước Trịnh, khiến nước Tấn vô cùng bực tức, do đó quân nước Tần về đến nửa đường thì bị quân Tấn phục kích, toàn bộ bị tiêu diệt.

Sau trận đánh này, Văn Doanh mẹ của Tấn Tương Công nguyên là công chúa nước Tần, được biết ba vị đại tướng quân của nước Tần là Mạnh Minh Thị, Tây Khất Thuật và Bạch Ất Bỉnh bị quân Tấn bắt làm tù binh, mới đến nói với Tấn Tương Công rằng: "Hai nước Tần Tấn kết giao với nhau vốn rất hữu hảo, đám võ phu Mạnh Minh Thị hiếu thắng đã phương hại đến hòa khí giữa hai nước, nếu giết ba người này thì e sẽ khoét sâu thêm mối hận thù giữa hai nước, chi bằng thả họ về để vua nước Tần trừng trị chúng có hơn không?". Tấn Tương Công nghe theo lời khuyên của mẹ, liền thả ba người này ra.

Tần Mục Công được biết ba người được tha về nước, liền mặc áo vải thô ra ngoài thành nghênh đón, nhà vua không những không trị tội họ, ngược lại còn chủ động nhận lỗi về trận thất bại này, và cho họ tiếp tục nắm quyền chỉ huy và thao luyện quân đội. Ba tướng này vô cùng cảm động, bèn đem hết tài sản ra giúp đỡ những gia đình các binh sĩ tử trận.

Năm 625 trước công nguyên, Mạnh Minh Thị dẫn quân sang đánh nước Tấn. Vua nước Tấn vốn biết nước Tần sớm muộn cũng sang báo thù, nên đã chuẩn bị sẵn. Tấn Tương Công cử nguyên soái Tiên Thả (Tức con của Tiên Chẩn) dẫn quân ra nghênh chiến, hai đạo quân chạm trán nhau tại Bành Nha, rút cuộc Tần bị thất bại thảm hại. Mùa thu năm đó, nước Tấn lại liên hợp với ba nước Tống, Trần, Trịnh đánh sang biên giới nước Tần, Mạnh Minh Thị lệnh cho quân sĩ chỉ canh giữa thành, chứ không được giao chiến, nhưng rút cuộc vẫn bị quân Tấn cướp mất hai thành trì.

Qua việc này, quân Tần trên dưới ai nấy đều oán trách Mạnh Minh Thị hèn nhát, các nước nhỏ ở xung quanh thấy nước Tần thất bại liên tiếp, đều nối tiếp nhau xa lìa nước Tần, không chịu sự quản thúc của nước Tần nữa.

Mùa hè năm 624 trước công nguyên, Mạnh Minh Thị lại tuyển lựa binh mã tinh nhuệ nhất trong cả nước, chuẩn bị 500 cỗ chiến xa để mở một trận quyết chiến với nước Tấn. Tần Mục Công càng bội phần tin tưởng, đã chi ra rất nhiều lương thực và gấm vóc thưởng cho gia đình các binh sĩ. Nỗi nhục bao năm và sự khích lệ đã khiến ý chí chiến đấu của các tướng sĩ càng thêm sôi sục.

Sau khi quân Tần vượt qua sông Hoàng Hà, nhằm khích lệ quyết tâm tất thắng của các tướng sĩ, Mạnh Minh Thị đã ra lệnh đốt hết thuyền bè. Các tướng thấy không còn đường rút lui liền dũng mãnh sông pha chén giết, thế mạnh như chẻ tre đánh thắng hết trận này đến trận khác, không những chiếm lại được trận địa, mà còn đoạt được mấy thành trì lớn của nước Tấn. Tấn Tương Công thấy thế quân Tần quá mạnh, bèn ra lệnh cho quân Tấn chỉ kiên trì phòng thủ, chứ không ra nghênh chiến. Mấy ngày sau có người nói với Tần Mục Công rằng: "Nay quân Tấn đã chịu thua không ra giao chiến, nỗi nhục ba năm của chúng ta coi như đã trả, chi bằng ta nhân cơ hội này đến nơi chôn cất các tướng sĩ tử trận năm xưa để rửa nỗi nhục này". Tức thì, Tần Mục Công thống lĩnh đại quân đến nơi xảy ra trận chiến năm xưa, để tưởng niệm các tướng sĩ tử trận.

Năm 623 trước công nguyên, Tần Mục Công thân trinh dẫn quân tiêu diệt 12 Tây Nhung, biên giới mở rộng nghìn dặm, và trở thành bá chủ các nước chư hầu.

________________________________________

Công tử Trọng Nhĩ lưu vong

Khi tuổi về già, Tấn Hiến Công chiều chuộng ái phi Ly Cơ, muốn lập con nàng là Khê Tề làm Thái tử, liền bức chết nguyên Thái tử Thân sinh. Hai người con riêng của Tấn Hiến Công là Di Ngô và Trọng Nhĩ thấy Thái tử bị bức hại liền bỏ trốn sang nước khác lánh nạn.

Trọng Nhĩ là người rất có danh vọng tại nước Tấn, khi chàng đi lánh nạn đã có các văn võ tinh anh như Hồ Mao, Hồ Yển, Triệu Suy, Tiên Chẩn, Giới Tử v v đi theo. Trọng Nhĩ sống nhờ ở nước Cảnh được 12 năm, sau vì bị Tấn Huệ Công cử người sang ám sát, chàng lại phải trốn sang nước Tê. Khi chàng đi ngang qua nước Vệ, Vệ Văn Công cho rằng chàng là một công tử vận đen nên không tiếp đãi, khiến chàng phải vừa đi vừa ăn xin suốt dọc đường. Khi đoàn người đến một nơi gọi là Ngũ Lộc, thì thấy một đám nông phu đang ăn cơm trên bờ ruộng, thì cảm giác đói lại càng thêm cồn cào khó chịu, mới đến xin ăn với họ. Có một nông phu riễu cợt liền bốc một nắm bùn đưa cho họ. Trọng Nhĩ rất tức giận, định bảo người đem roi quất nông phu kia, thì đại thần Hồ Yểm vội vàng ngăn lại, nhận lấy nắm bùn và nói rằng: "Có đất là có nước, đất là tượng trưng cho quốc gia, đây há chẳng phải thượng thiên ban điềm lành cho Công tử ư ?". Trong Nhĩ nghe vậy đành phải làm thinh, cười khóc không được tiếp tục lên đường.

Khi đến nước Tề, Tề Hằng Công thiết tiệc khoản đãi Trọng Nhĩ và đem con gái công tộc là nàng Tề Khương gả cho chàng. Trọng Nhĩ ở lại nước Tề được 7 năm và không còn muốn đi đâu nữa, nhưng các đai thần đi theo chàng lại mong muốn trở về nước Tấn, để giúp chàng làm nên sự nghiệp. Một hôm, họ họp mặt trong vườn dâu để bàn cách đưa chàng về nước, thì bị một thị nữ đang hái dâu trên cây nghe được, rồi đến mách với Tề Khương. Nàng mới hỏi Trọng Nhĩ rằng: "Nghe nói, chàng nay mai sắp trở về nước Tấn?". Trọng Nhĩ chối đây đẩy: "Nàng nghe ai nói vậy? Làm gì có việc đó?". Tề Khương liền khuyên rằng: "Tôi không phản đối chàng về nước, chàng cứ yên phận sống ở đây cũng chẳng được tích sự gi, chi bằng sớm trở về làm nên sợ nghiệp có phải tốt hơn không?". Nhưng Trọng Nhĩ nào có chịu nghe theo. Không còn cách nào khác, nàng Khương Tề bèn chuốc rượu cho chàng uống say rồi vực lên xe. Đợi đến khi Trọng Nhĩ tỉnh rượu thì đoàn người đã rời xa nước Tề, chàng lại phải tiếp tục lưu vong.

Trọng Nhĩ cùng đoàn người đi sang nước Tào, Tào Cộng Công và Vệ Văn Công đều rất khinh thường Trọng Nhĩ liền đuổi chàng ra khỏi biên giới. Đoàn người lại phải chạy sang nước Tống. Nước Tống lúc bấy giờ đã bị thiệt hại quá nặng bởi cuộc chiến tranh với nước Sở, không đủ sức lực để giúp đỡ Trọng Nhĩ, chàng lại phải rời nước tống sang nước chạy sang nước Trịnh,Trịnh Văn Công vì vừa kết bang với nước Sở, nên cũng không muốn tiếp đãi, nên chàng lại đành phải rời nước Trịnh chạy sang nước Sở.

Khi tới nước Sở, Trọng Nhĩ được Sở Thành Vương dùng nghi lễ nhà vua đón tiếp. Một hôm, trong khi dự tiệc, Sở Thành Vương nửa đùa nửa thật hỏi Trọng Nhĩ rằng: "Nếu tôi đưa được công tử về nước, thì sẽ lấy gì đền đáp tôi?" Trọng Nhĩ cười đáp rằng: "Ân đức của đại vương không thể lấy kim ngân tài vật để báo đáp. Nhờ hồng phúc đại vương mà tôi được trở về nước Tấn chấp chính, thì tôi sẽ khiến hai nước chung sống hòa mục. Nếu một khi hai nước xảy ra tranh chấp vì lợi ích của mình, thì tôi sẽ rút quân lui về 90 dặm để báo đền ân đức của đại vương". Sở Thành Vương nghe xong chỉ cười nhạt, thì đại tướng Thành Đắc Thần đang ngồi bên đã tức đến nghiến răng nghiện lợi. Đến khi tiệc tan, Thành Đắc Thần mới nói với Sở Thành Vương rằng: "Trọng Nhĩ nay đã ngông như thế, thì rõ là phường vong ơn bội nghĩa, chi bằng giết quách hắn đi để tránh hậu hoạn". Nhưng cũng may là Sơ Thành Vương không đồng ý làm như vậy. Ít lâu sau, Tần Mục Công sai người sang đón Trọng Nhĩ, Sở Thành Vương bèn tiện thể tiễn Trọng Nhĩ cùng đoàn người sang nước Tần.

Tần Mục Công năm xưa từng giúp công tử Di Ngô về nước lên làm vua, nhưng không ngờ Di Ngô lấy ân làm oán trở mặt với nước Tần, giữa hai nước từng xảy ra chiến tranh. Sau khi Tấn Huệ Công mất, còn là Hoài Công kế vị vẫn tiếp tục đương đầu với nước Tần. Do đó, Tần Mục Công mới quyết định giúp công tử Trọng Nhĩ về nước lên làm vua, và gả con gái của mình là Văn Doanh cho Trọng Nhĩ, trở thành "Tần Tấn chi hảo".

Năm 636 trước công nguyên, Tần Mục Công cử quân hộ tống Trọng Nhĩ về nước, chẳng bao lâu thì phá vỡ đô thành nước Tấn, Tấn hoàn Công bị đâm chết, dân nước Tấn cùng lập Trọng Nhĩ lên làm vua, tức Tấn Văn Công.

Trọng Nhĩ sống lưu vong tại nước ngoài 19 năm trời,lần lượt đi khắp 8 nước chư hầu, mãi đến năm 62 tuổi mới lên làm vua. Ông chỉnh đốn chính trị, phát triển sản xuất, khiến nước Tấn nhanh chónh trở nên giàu mạnh. Về sau, trải qua cuộc chiến mang tính quyết định ở Thành Bồ, Tấn Văn Công Trọng Nhĩ cuối cùng đã trở thành bá chủ Trung Nguyên.

________________________________________

Tống Tương Công ngu xuẩn

 

Khi tuổi về già, Tề Hằng Công bắt đầu sủng tín ba tên gian nịnh Dị Nha, Thụ Điêu và Khai Phương, nhất là sau khi Quản Trọng qua đời, ba tên này lại càng ngông cuồng, chẳng coi luật phát và nhà vua vào đâu. Đến khi Tề Hằng Công băng hà, chúng bèn chỉ định công tử Vô Khuy lên nối ngôi, còn công tử Chiêu người được Tề Hằng Công lúc sinh thời lập làm Thái Tử đành phải chạy trốn sang nước Tống, mong được Tống Tương Công cứu giúp.

Tống Tương Công thấy nước Tề xảy ra lục đục, đã có ý nhân dịp này đoạt ngôi bá chủ, nay lại thấy Thái Tử Chiêu đến cầu cứu, thì quả cơ hội ngàn năm có một, bèn nhanh chóng đáp lời ngay. Sau đó, Tống Tương Công thông báo cho các nước chư hầu, điều binh đến cùng hộ tống Thái Tử Chiêu về nước lên nối ngôi vua. Nhưng vì Tống Tương Công chẳng có mấy uy tín, nên chỉ có ba nước Vệ, Tào, Châu dẫn quân đến giúp. Tống Tương Công chỉ huy liên quân bốn nước tấn công vào nước Tề. Do nước Tề đang trong nội loạn, không đủ sức chống đỡ, các đại thần nước Tề đành sát hại công tử Vô Khuy, ra đầu hàng liên quân, cùng lập Thái Tử Chiêu lên ngôi vua, tức Tề Hiếu Công.

Tống Tương Công muốn mượn thế lực nước lớn để bức các nước nhỏ thuần phục mình, thì đại thần công tử Mục Di cho rằng: "Làm như vậy thật không ổn, Tống là một nước nhỏ, được làm bang chủ đối với nước Tống mà nói thật chẳng có ích lợi gì". Tống Tương Công vẫn một mực không chịu nghe theo. Năm 639 trước công nguyên, Tống Tương Công cho mời Tề Hiếu Công đến để cùng nước Sở bàn định lập hội đồng minh, để hai nước này ủng hộ mình làm bá chủ. Tề Hiếu Công tuyệt đối đồng ý, còn Sở Thành Vương bề ngoài bày tỏ nhận lời, và hẹn đến mùa thu năm đó tổ chức hội đồng minh các nước chư hầu tại Mạnh Địa nước Tống.

Đến hôm đó, Tống Tương Công và Sở Thành Vương tranh cãi nhau về việc ai làm chủ đồng minh, do nước Sở thế lực lớn mạnh, nên nhiều nước chư hầu đều vào hùa với nước Sở, Tống Tương Công không chịu toan tranh cãi nữa, thì bị các quan chức nước Sở liền xúm vào bắt trói lại, rồi lập Sở Thành Vương làm chủ đồng minh. Sau nhờ được các nước khuyên giải, nên Tống Tương Công mới được tha ra.

Tống Tương Công vô cùng phẫn uất, liền trút mối căm giận lên đầu nước Trịnh lệ thuộc nước Sở. Năm 638 trước công nguyên. Tống liên hợp với các nước Vệ, Hứa v v cùng tiến đánh nước Trịnh, Trịnh đương nhiên phải cầu cứu với nước Sở. Sở Thành Vương lập tức điều quân đánh thẳng vào nước Tống, khiến Tống Tương Công hoảng hốt phải dẫn quân về giải cứu, khi quân Tống về đến Hồng Thủy thì chạm trán với quân sở.

________________________________________

Tề Hằng Công cửu hợp chư hầu

 

 

Theo đà nước Tề ngày một lớn mạnh, thì dã tâm làm bá chủ chư hầu của Tề Hằng Công cũng ngày càng mạnh mẽ.

Một hôm, Tề Hằng Công hỏi Quản Trọng rằng: "Nay nước Tề ta binh hùng tướng mạnh, lương thực đầy đủ, phải chăng đã có thể hội họp chư hầu, để cùng nhau lập ra bang ước?". Quản Trọng nói: "Chúng ta lấy tư cách gì để họp chư hầu, mọi người đều cùng là chư hầu của nhà Chu cả, thì còn ai chịu phục ta? Nay Chu Thiên Tử tuy yếu thế, nhưng dù sao cũng vẫn là Thiên Tử, ai dám cao hơn Thiên Tử nào?". Quản Trọng nói xong bèn kiến nghị Tề Hằng Công nên mượn danh nghĩa "Tôn Vương nhướng Di", để thiết lập địa vị bá chủ ở Trung Nguyên. Đó chính là tôn Chu Thiên Tử làm lãnh tụ, liên hợp các đạo chư hầu lại cùng chống cự với các bộ lạc Man, Di thường xâm lấn Trung Nguyên, sau này ai có khó khăn thì mọi người cùng giúp, ai ngang bướng thì cùng thảo phạt". Tề Hằng Công nghe xong vô cùng mừng rỡ, mới hỏi Quản Trọng nên bắt đầu từ đâu. Quản Trọng đáp rằng: "Hãy bắt đầu từ việc Thiên Tử mới lên kế vị, chúa công hãy cử đại thần sang chúc mừng Thiên Tử, rồi tiện thể nêu ra kiến nghị, nói nước Tống hiện đang xảy ra nội loạn, Tống Hằng Công vừa lên ngôi vua nhưng địa vị còn chưa vững, trong nước rối loạn không yên. Nên mong Thiên Tử ra lệnh xác định rõ địa vị đế vương của Tống Hằng Công. Như vậy trong tay chúa công có mệnh lệnh của Thiên Tử, thì mới có thể triệu tập chư hầu, lập ra bang ước, làm như thế thì còn ai dám phản đối nữa?". Tề Hằng Công nghe xong gật đầu tán thành, liền quyết định làm theo ý này.

Bấy giờ, vương triều nhà Chu chỉ còn là cái xác không, các chư hầu cơ bản không quan tâm đến công việc của Thiên Tử. Chu Ly Vương vừa mới lên ngôi, thấy có sứ thần của một nước lớn như nước Tề đến chúc mừng, đương nhiên là vô cùng mừng rỡ, bèn ủy thác cho Tề Hằng Công việc triệu tập chư hầ̀u và xác định địa vị đế vương của Tống Hằng Công.

Năm 681 trước công nguyên, Tề Hằng Công thừa lệnh Chu Thiên Tử, thông báo với các chư hầu, hẹn ngày 1 tháng 3 thì đến dự bang hội ở Bắc Hạnh của nước Tề, để cùng nhau xác định địa vị của vua nước Tống. Nhưng vì bấy giờ Tề Hằng Công còn chưa có mấy uy tín, nên chỉ có bốn nước chư hầu là Tống, Trần, Châu và Sái đến dự. Còn các nước Lỗ, Vệ, Trịnh, Tào v v thì đều im lặng để chờ đợi xem sao. Tề Hằng Công cảm thấy rất khó xử, định thay đổi lại ngày hẹn thì Quản Trọng khuyên rằng: "Bang hội lần đầu tiên không thể thất tín. Nay đã có bốn nước tới đây, thì có thể mở hội đúng thời hạn". Năm nước chư hầu hội kiến xong, đều nhất trí đề cử Tề Hằng Công làm bang chủ và lập ra bang ước.

Sau bang hội, Tề Hằng Công dẫn quân tiêu diệt nước Toại, sau đó lại đánh bại hai nước Lỗ và Trịnh, bức họ phải cầu hòa. Năm 679 trước công nguyên, Tề Hằng Công lại hẹn với các nước mở bang hội ở Tăng Địa, lần này các nước chư hầu trên cơ bản đã thừa nhận địa vị bá chủ của Tề Hằng Công.

Sau khi Tề Hằng Công làm bá chủ, các chư hầu đều định kỳ tiến cống, duy có nước Sở thuộc miền đất hoang vu ở miền nam, vì không có quan hệ vãng lai với các chư hầu ở Trung Nguyên, nên sau khi lớn mạnh lên thì thủ lĩnh của họ đã coi khinh cả thiên tử, tự xưng là "Sở Vương".

Năm 656 trước công nguyên, Tề Hằng Công hợp quân 7 nước Tống, Lỗ, Vệ, Trịnh, Trần, Tào và Hứa để thảo phạt nước Sở. Sở Thành Vương được tin bèn lập tức điều động quân mã để kháng cự, rồi cử sứ giả đến trách hỏi Tề Hằng Công rằng: "Sở ở miền nam, Tề ở phương bắc, hai nước không có quan hệ vãng lai, nay cớ sao lại đến xâm phạm chúng tôi?". Quản Trọng liền hỏi lại rằng: "Tuy hai nước cách xa nhau, nhưng chúng tôi đều là chư hầu do thiên tử phong, ban đầu khi Vũ Vương chia phong, đã từng ủy quyền cho Tề Thái Công, là nếu chư hầu không phục tùng Thiên Tử, thì nước Tề có quyền trừng phạt. Nay nước Sở đã lâu không tiến cống Thiên Tử là cớ làm sao?". Sứ giả nói: "Mấy năm không tiến cống là lỗi tại chúng tôi , sau này chúng tôi nhất định sẽ tiến cống như trước". Khi sứ giả ra về rồi, Tề Hằng Công vẫn không tin nước Sở sẽ ngoan ngoãn chịu thua như vậy, bèn cùng các chư hầu nhổ trại tiến quân vào Triệu Lăng. Sở Thành Vương không hiểu ra sao, lại cử đại thần Khuất Hoàn đến hỏi xem sao. Nhằm phô trương thanh thế của mình, Tề Hằng Công liền mời Khuất Hoàn cùng ngồi xe đến kiểm duyệt liên quân Trung Nguyên, quả là uy vũ hùng tráng, tinh binh lương đủ. Tề Hằng Cao ra vẻ tự đắc nói với Khuất Hoàn rằng: "Quân đội chúng tôi mạnh mẽ như vậy, thì làm sao lại không thắng trận?". Khuất Hoàn ngang nhiên đáp rằng: "Quân Hầu phù trợ Thiên Tử, cứu khổ giúp yếu, chúng tôi đương nhiên rất khâm phục, đằng này ông diễu võ dương oai, cậy thế hiếp đáp người, nước Sở chúng tôi tuy không hùng mạnh, nhưng chúng tôi sẽ dựa vào thành lũy và hào nước Hán Thủy tác chiến, binh lính của ông dù có đông đến mấy, thì đã chắc gì đánh thắng được".

Tề Hằng Công thấy Khuất Hoàn trả lời cứng rắn như vậy, biết là không thể dễ dàng đánh thắng được nước Sở, hơn nữa nước Sở đã nhận lỗi và hứa sẽ tiếp tục tiến cống, thì nên làm dịu đi là hơn. Tức thì các nước chư hầu và nước Sở cùng lập bang ước, rồi ai nấy kéo quân về.

Ít lâu sau, vương triều nhà chu xảy ra nội loạn, Tề Hằng Công giúp Thiên Tử dẹp yên nội loạn lên ngôi vương vị, tức Chu Tương Vương. Tề Hằng Công lại tụ họp các chư hầu ở Quỳ Khưu nước Tống, một lần nữa đặt ra bang ước. Đây là lần thứ 9, và cũng là lần cuối cùng. Do đó trong lịch sử mới gọi quá trình xưng bá của Tề Hằng Công là "Cửu hợp chư hầu".

________________________________________

Quản Bào chi giao

 

Sau khi Chu Bình Vương rời đô về Lạc Ấp rồi dựng nên triều Đông Chu. Trong lịch sử được chia làm hai thời kỳ "Xuân Thu" và "Chiến Quốc".

Thời Xuân Thu, vương triều nhà Chu suy thoái, tuy triều đình còn có Thiên Tử trí cao vô thượng, nhưng đó chẳng qua là trên danh nghĩa mà thôi, các chư hầu tương đối lớn mạnh đã mượn danh nghĩa bảo hộ Chu Thiên tử, không ngừng xảy ra các cuộc hỗn chiến và thôn tính lẫn nhau,để mở rộng phạm vi thế lực của mình, đạt tới mục đích xưng bá.

Tề là nước xưng bá đầu tiên trong thời gian này, nước Tề nằm trên bán đảo Sơn Đông hiện nay, địa phận tương đối rộng lớn, vật sản phong phú và sản xuất tương đối phát triển. Ngoài các điều kiện do trời phú ra, còn có một nhân tố hết sức quan trọng đã khiến Tề Hằng Công được làm bá chủ, đó là nhờ sự trợ giúp của hiền tướng Quản Trọng, do Bào Thúc Nha tiến cử cho Tề Hằng Công.

Quản Trọng đã từng nói rằng: "Người sinh ra tôi là cha mẹ, còn người hiểu biết về tôi là Bào Thúc Nha". Quản Trọng và Bào Thúc Nha là đôi bạn tri kỷ, ban đầu họ cùng nhau làm ăn buôn bán, khi chia tiền lãi thì bao giờ Quản Trọng cũng được nhiều hơn, nhưng Bào Thúc Nha không cho rằng Quản Trọng tham của, vì ông biết rất rõ gia đình Quản Trọng tương đối khó khăn. Một hôm, nhà Bào Thúc Nha gặp việc khó xử, liền mời Quản Trọng đến giải quyết hộ, Quản Trọng đã vạch ra mấy cách giải quyết, nhưng Bào Thúc Nha làm theo đều bị thất bại, Bào Thúc Nha không cho rằng mấy cách làm này không đúng, mà là do mình vận dụng thời cơ chưa đúng mà thôi. Quản Trọng đã từng dẫn quân đi đánh giặc, nhưng khi đến nửa đường thì lại trốn về nhà, nhưng Bào Thúc Nha không cho Quản Trọng là người ham sống sợ chết, mà cho rằng đây là Quản Trọng tự biết bảo vệ mình để phụng dưỡng cha mẹ. Bào Thúc Nha luôn luôn che chở cho Quản Trọng, bởi lẽ ông biết rất rõ Quản Trọng là một nhân tài trị nước rất hiếm có.

Năm 686 công nguyên, nước Tề xảy ra nội loạn, Tề Tương Công u mê vô đạo bị đại thần Công Tôn Vô Chi giết chết, hai người anh em của Tề Tương Công, một là công tử Củ học trò của Quản Trọng, bấy giờ đang sống ở nước Lỗ, còn một là công tử Bạch học trò của Bào Thúc Nha đang ở nước Cự, hai người được tin Tề Tương Công bị giết, đều vội vàng về nước để chiếm đoạt ngôi vua.

Lỗ Trang Công vua nước Lỗ quyết định đích thân hộ tống công tử Củ về nước, Quản Trọng mới hiến kế cho Lỗ Trang Công rằng: "Nước Cự rất gần với nước Tề, nếu để công tử Bạch về nước trước thì rắc rối to, không bằng đợi tôi đi đón đường giết chết hắn đi". Sự việc quả đúng như dự đoán, Quản Trọng dẫn quân chặn ngang đoàn người đang dẫn công tử Bạch về nước, rồi dương cung đặt tên bắn sang, chỉ nghe công tử Bạch rú lên một tiếng, miệng phun ra máu rồi gục chết trong xe.

Quản Trọng thấy vậy vội sai người về báo với Lỗ Trang Công. Lỗ Trang Công được tin bèn thong thả hộ tống công tử Củ tiến về Tề đô Lâm Truy, đoàn người sáu ngày sau mới đến nơi, nhưng nào ngờ công tử Bạch đã về nước trước và lên làm vua, tức Tề Hằng Công.

Thực ra thì công tử Bạch chưa chết, mũi tên chỉ bắn trúng tà áo, nhưng công tử sợ Quản Trọng lại bắn tiếp, nên vội cắn lưỡi cho chảy máu ra, rú lên một tiếng rồi ngã vật xuống giả vờ chết, sau đó mới cùng Bào Thúc Nha đi đường tắt về Lâm Truy lên làm vua.

Lỗ Trang Công thấy vậy vô cùng tức giận, liền khởi binh tiến đánh nước Tề, nhưng bị quân Tề đánh cho đại bại, đuổi đến gần biên giới Tề Lỗ, dưới sức ép to lớn của nước Tề, Lỗ Trang Công buộc phải đáp ứng điều kiện, giết chết công tử Củ, bắt giam Quản Trọng rồi đem giải về nước Tề.

Bào Thúc Nha đón Quản Trọng về nhà mình rồi lập tức vào cung nói với Tề Hằng Công rằng: "Quản Trọng là một nhân tài trụ cột, dù là việc trị nước an bang, hay dùng binh bố trận, tôi thực kém xa ông ta bội phần, nếu chúa công trọng dụng ông ta, thì việc bá nghiệp của chúa công tất thành công". Tề Hằng Công nghe xong bèn lạnh lùng nói: "Mũi tên của Quản Trọng xuýt nữa cướp mất mạng ta, ta làm sao lại có thể trọng dụng hắn được?". Bào Thúc Nha lại nói: "Hai bên đối trận, mỗi bên đều lo vì chủ mình. Lúc bấy giờ Quản Trọng là sư phụ của công tử Củ, ông ta bắn chúa công chính là ông ta trung thành với công tử Củ. Nay nếu chúa công tha thứ, để ông ta làm thần tử của chúa công, thì ông ta cũng sẽ trung thành với chúa công như vậy".

Tề Hằng Công nghe theo, liền thân hành đi đón Quản Trọng, khiêm tốn thỉnh giáo sách lược trị quốc an bang, xưng bá chư hầu. Tề Hằng Công phong Quản Trọng làm khanh, coi quản việc quốc chính.

Nhờ sự trợ giúp của Quản Trọng, Tề Hằng Công đã tiến hành chỉnh đốn nội chính và cải cách, khiến nước Tề ngày một lớn mạnh, đặt nền tảng vững chắc cho nhà vua xưng bá.

________________________________________

Phong hỏa hí chư hầu

 

Khi tuổi về già, Chu Tuyên Vương bắt đầu đắm chìm trong tửu sắc, không chăm lo tới công việc triều chính, giết hại người vô tội, can thiệp thô bạo vào công việc nội bộ của các chư hầu, nên cuối cùng bị thù địch bắn chết.

Sau khi Chu Tuyên Vương chết, con trai là Cung Niết lên nối ngôi (Tức U Vương). U Vương lại càng là một tên hôn quân vô đạo, suốt ngày đắm mình trong tửu sắc, thường mấy tháng trời không trông coi việc triều chính. Đại thần Bao Tượng thấy Thiên Tử u mê hoang đường như vậy, đã nhiều lần khuyên ngăn, nhưng U Vương chẳng những không chịu nghe theo, ngược lại còn bắt Bao Tượng giam vào nhà lao đến ba năm trời, bị dày vò vô cùng khổ nhục. Nhằm cứu Bao Tượng ra khỏi nhà lao, người nhà ông đã tìm đủ mọi cách, nhưng vẫn chẳng có kết quả gì, sau nghe nói U Vương đang cho người đi các nơi tìm kiếm mỹ nữ, họ liền về nông thôn tìm mua một cô gái nhan sắc, biết múa lại biết hát, sau đó trang điểm và ăn mặc rất sang trọng, đặt tên là Bao Tự, đem dâng cho U Vương để chuộc tội cho Bao Tượng.

U Vương thấy Bao Tự đẹp như tiên thì tâm hồn mê mẩn, bèn lập tức ra lệnh thả Bao Tượng ra. Nhà vua bội phần say mê và chiều chuộng Bao tự, nàng muốn gì được nấy, muốn sao được vậy, nhưng vì nàng là gái thôn dã, sau khi vào cung chỉ nhớ quê hương và người thân, nên suốt ngày âm thầm chẳng cười nói gì. Nhằm khiến Bao Tự vui lòng, U Vương đã tặng cho nàng rất nhiều ngọc ngà châu báu, tìm đủ mọi cách và bày ra nhiều trò vui, duy chỉ thiếu có mỗi việc là hái trăng trên trời xuống cho nàng mà thôi. Dù vậy Bao Tự vẫn chẳng hé nở nụ cười, U Vương chẳng còn cách nào khác, bèn ra cáo thị cho bàn dân thiên hạ, là nếu ai có cách nào khiến vương phi cười thì sẽ thưởng cho ngàn lạng vàng.

Thời bấy giờ, nhằm phòng bị quân Khuyển Nhung phương tây xâm lấn, triều nhà Chu đã xây hơn 20 phong hỏa đài ở vùng núi Ly Sơn, để đề phòng một khi bị quân Khuyển Nhung tấn công thì đốt lửa làm hiệu, để các nước chư hầu ở xung quanh thấy lửa hiệu thì đem quân đến cứu ứng.

Bấy giờ, có một tên nịnh thần tên là Quắc Thạch Phụ, nghĩ ra một trò chơi ma mãnh, hắn đến nói với U Vương rằng: "Nay thiên hạ đang thái bình, phong hỏa đài đã lâu không sử dụng, nay thần muốn mời đại vương và nương nương cùng lên Ly Sơn chơi mấy ngày, đến đêm ta cho đốt lửa hiệu lên, để các chư hầu đều kéo quân đến, bấy giờ nhìn thấy nhiều người bị mắc lừa, thì nương nương tất cười cho mà xem". U Vương nghe xong cảm thấy rất thú vị liền cười nói: "Tốt lắm, tốt lắm, người hãy lo mà chuẩn bị đi".

________________________________________

Quốc nhân bạo loạn

 

 

Do được Chu Công Đán nhiều năm dạy bảo, Thành Vương sau khi lên nắm chính quyền, trên cơ bản vẫn kế thừa truyền thống nhân từ đối với dân của hai vị vua trước, nên xã hội ổn định, nhân dân an cư lạc nghiệp. Đến khi con vua là Khang Vương lên nối ngôi, thì cũng trên cơ bản giữ nguyên cục diện này, nên thời kỳ này là thời kỳ phồn vinh và hưng thịnh nhất của vương triều nhà Chu, mà lịch sử gọi là "Thành Khang chi trị". Nhưng đáng tiếc là không được bền lâu, đến khi con của Khang Vương là Chiêu Vương lên kế vị, thì triều nhà Chu đã bắt đầu dần dần suy thoái.

Các quý tộc chủ nô lòng tham vô đáy, ngày càng áp bức bóc lột dân, thêm vào đó chiến tranh xảy ra liên miên càng tăng thêm gánh nặng cho dân, khiến cuộc sống của dân chúng và nô lệ càng thêm cơ cực, sự phản kháng của họ đối với triều đình và tầng lớp chủ nô ngày một dâng cao. Nhằm trấn áp sự bất bình và phản đối của dân chúng, Chu Mục Vương đã đặt ra hơn 3000 đạo luật, áp dụng nhiều cực hình vô nhân đạo, nhưng hình phạt dù có tàn bạo đến mấy, cũng không thể ngăn chặn được làn sóng phản kháng của nhân dân.

Khi đến đời vua thứ 10 là Lệ Vương, thì sự mâu thuẫn trong nước lại càng trở nên sâu sắc và phức tạp. Lệ Vương là một tên hôn quân vô cùng bạo ngược, thường tin dùng tên đại thần Vinh Dĩ Công gian ngoan quỷ quyệt, tên này đã bày cho Lệ Vương nhiều mánh lới hại dân, như thi hành "Chuyên lợi", chiếm đoạt hết hồ ao, sông ngòi, đồi núi và đồng ruộng, không cho phép dân chúng sinh sống bằng tài nguyên thiên nhiên, phàm những ai lên rừng hái thuốc, chặt củi, săn bắn, hay xuống sông bắt cá tôm, thậm trí đến uống nước, đi đường cũng phải nộp sưu thuế, tiền của. Thời bấy giờ, nông phu ở ngoài đồng gọi là "Dã nhân", còn dân thành thị gọi là "Quốc nhân". Những quốc nhân sinh sống trong thủ đô Cảo Kinh đều rất căm tức đối với chế độ bạo ngược của Lệ Vương.

Đại thần Triệu Công Hổ nghe được lời oán trách của quốc dân, liền tức tốc vào kinh dâng sớ tâu lên Lệ Vương rằng: "Tâu đại Vương, trăm họ nay đã phẫn nộ cùng cực, nếu không phế bỏ luật chuyên lợi, thì nhà nước sẽ không có ngày yên ổn, không thể dẹp yên loạn lớn sắp xảy ra". Nhưng Lệ Vương cơ bản không nghe theo, chỉ buột miệng nói rằng: "Vội gì, vội gì? Trẫm đã có biện pháp để đối phó". Tức thì, nhà vua ra lệnh cấm quốc nhân bàn luận việc triều chính, và cử nhiều thám tử đi theo dõi, nếu phát hiện ai bàn tán luật "Chuyên Lợi", chửi rủa quốc vương thì bắt về chém chết. Những tên thám tử kia lại nhân cơ hội này hà hiếp của dân, khiến dân chúng kinh hoàng không ai dám tụ họp bàn tán, đi đường gặp mặt cũng không dám chào hỏi nhau.

Lệ Vương thấy không ai dám bàn tán việc triều chính, thì vô cùng đắc ý, mới gọi Triệu Công Hổ đến nói rằng: "Bây giờ khanh thấy thế nào? Không ai dám nghị luận việc triều chính nữa chứ?". Triệu Công Hổ điềm tĩnh nói: "Việc đó chắc gì đã yên được, bịt miệng ngươi ta không cho nói, thì mối nguy hiểm ấy có khác nào như ngăn một dòng sông, muốn trị nước thì phải khơi dòng, dẫn nước chảy ra biển, việc trị quốc an bang cũng vậy, phải hướng dẫn nhân dân biết cách ăn nói. Ngăn dòng thì tất vỡ đê, bịt miệng thiên hạ thì tất sinh loạn". Lệ Vương nghe xong chỉ dửng dưng chẳng nói chẳng rằng, Triệu Công Hổ thấy vậy đành cúi đầu ra về.

Đến năm 841 công nguyên, quốc nhân không thể nào chịu đựng được nữa, họ đã tổ chức cuộc bạo động rầm rộ có hàng chục nghìn dân chúng và nô lệ tham gia. Dòng người xông vào hoàng cung tìm giết Lệ Vương, Lệ Vương sợ kinh hồn bạt vía, đám vệ sĩ trong hoàng cung vốn đã chán ghét chính sách bạo ngược của Lệ Vương, nên họ đều bảo nhau giải tán cả. Lệ Vương cuống cuồng chỉ đem theo mấy tên tuỳ tùng chạy trốn một mạch qua sông Hoàng Hà, đến Phệ Ấp (Tức huyện Hoắc tỉnh Sơn Tây ngày nay) mới bảo toàn được tính mạng.

Dòng người phẫn nộ không tìm thấy Lệ Vương, nào có chịu thôi, sau khi được biết Thái tử Tịnh hiện đang trốn trong nhà Triệu Công Hổ, họ liền kéo nhau đến vây chặt phủ ông, bắt phải đem thái tử Tịnh ra nộp. Triệu Công Hổ không còn cách nào khác, đành phải bảo con trai của mình ra mạo nhận và chết thay cho Thái tử.

Nhưng một nước không thể một ngày không có vua, lúc này Lệ Vương thì đã bỏ trốn, còn "Thái tử" kia đã bị giết chết, các quốc nhân bèn đề cử Cộng Hòa Bá là người kiêm đủ đức tài lên thay Thái tử, ngay năm đó gọi là năm thứ nhất cộng hòa, mà lịch sử gọi là "Cộng hòa hành chính" cũng là bắt đầu từ năm này.

Năm thứ 14 cộng hòa, Lệ Vương chết ở Phệ Ấp, bấy giờ Triệu Công Hổ mới đem việc thái tử còn sống ra công bố trước thiên hạ. Cộng Hòa Bá và Triệu Công Hổ, cùng nhiều đại thần khác đã thuyết phục được các chư hầu, rồi đưa thái tử Tịnh lên nối ngôi vua, xưng là Chu Tuyên Vương. Nhà vua thấy vương triều nhà Chu đã suy tàn, bèn quyết chí phục hưng đất nước, được sự trợ giúp của các trung thần mẫn cán như Triệu Công Hổ v v, nhà vua đã từng một thời " Trung hưng". Nhưng vì sự ảnh hưởng của cuộc bạo loạn quốc nhân lần này, nguyên khí của vương triều nhà Chu bị tổn thương quá nặng, đã không thể nào hưng vượng lên được nữa.

________________________________________

Chu Công phụThành Vương

 

Sau khi diệt xong nhà Thương, Chu Vũ Vương dời đô từ Phong về Cảo Kinh, lập nên triều nhà Chu. Nhằm củng cố thiên hạ của nhà Chu, nhà vua đã phong thân quyến và các công thần làm chư hầu. Thái Công Vọng là người có công danh lớn nhất, nên được phong tại Tề, con của Chu Công Đán thì phong tại Lỗ, còn người con cả của Triệu Công Soảng được phong tại Yến. Nghe nói khi con của Chu Vũ Vương thành vương, thì cả thảy đã chia phong thành hơn 70 nước chư hầu.

Một ông vua dựng nước thường phải lo toan trăm bề, ghi nhớ công lao sáng nghiệp dựng nước gian khổ của tổ tiên, phải ngày đêm quan sát tình hình của thế lực chống đối, để bảo vệ giang sơn đã giành được, phải cảnh giác trước những âm mưu phục quốc của kẻ địch, khiến đất nước bền vững, lâu dài và chuyền từ đời này sang đời khác. Chu vũ Vương chính là một con người như vậy, ông hàng ngày lo toan việc nước đến ăn không ngon, ngủ không yên.

Do quá lo nghĩ vất vả, sức khoẻ của Chu Vũ Vương ngày một suy yếu, bước sang năm thứ hai thì ông lâm bệnh, rồi ngày càng nặng thêm. Chu Vũ Vương biết mình chẳng sống được bao lâu nữa, con trai thì còn nhỏ dại, không thể gánh vác được việc lớn nhà nước. Vì cơ nghiệp của Đại Chu, ông có ý muốn để người em trai của mình là Chu Công Đán lên nối ngôi vua. Chu Công Đán nghe được tin này vô cùng cảm động, một mặt tỏ ý từ chốt, mặt khác cung kính cầu khấn tổ tiên rằng : "Vũ Vương bị bệnh nặng, nhưng việc thiên hạ đang cần người đi lo toan, hãy để tôi chịu bệnh và chết thay người". Khi cầu niệm xong, ông bèn ghi lại lời cầu nguyện, bỏ vào trong tráp dùng đai chỉ vàng buộc lại, rồi dặn người coi giữ tráp không được nói cho ai biết. Tuy Chu Công Đán và các đại thần đều mong mỏi Chu Vũ Vương chóng hồi phục sức khỏe, song bệnh tìn của nhà vua đã quá nặng, chẳng bao lâu thìa lìa đời.

Bấy giờ người con cả của vua là Tụng mới chỉ có 13 tuổi, được các đại thần như Chu Công, Thái Công, Triệu Công nâng đỡ lên nối ngôi vua và đặt hiệu là Thành Vương. Nhưng thiên hại lúc bấy giờ còn chưa ổn định, các thế lực cũ của Ân Thương đang ngóc đầu dậy âm mưu làm phản. Xét vì Thành Vương còn nhỏ dại, không thể đối phó với tình hình hiểm ác lúc bấy giờ, nên Chu Công Đán đã quyết định đứng ra làm thay cho Thành Vương, gánh vác việc lớn nhà nước.

Quyết định này của ông đã gây nên làn sóng phản đối trong triều. Quản Thúc và Sái Thúc vốn đã có lòng ghen tỵ với Chu Công Đán, bèn nhân cơ hội này phao tin rằng: "Chu Công toan nhiếp chính, là có ý chờ dịp sau này lên thay thế nhà vua". Lời nói này nhanh chónh đồn đại khắp nơi và có khá đông người bị mê hoặc. Triệu Công ,Thái Công thậm trí đến cả Thành Vương cũng sinh lòng hoài nghi Chu Công Đán.

Chu Công Đán được biết tin này, bèn đến nói với Triều Công và Thái Công rằng: "Tôi sở dĩ né tránh lời đồn đại để gánh vác việc lớn nhà nước, cũng là vì thiên hạ hiện còn chưa thái bình, chúa công thì còn nhỏ thiếu kinh nghiệm, một khi xảy ra phiến loạn, giang sơn bị mất, thì chúng ta còn mặt mũi nào ăn nói với tiên đế? Tôi làm như vậy cũng là vì xã tắc Đại Chu, chứ không có ý gì khác". Qua đó đã xóa bỏ được mối nghi kỵ của Triệu Công và Thái Công, khiến mâu thuẫn không khoét sâu thêm. Sau đó, Chu Công Đán mượn cớ thăm viếng rồi đi sang nước Sở.

Bấy giờ, Vũ Canh khi nghe nói trong triều xảy ra lục đục, cho rằng thời cơ đã tới, bèn cùng tập đoàn Quản Thúc và Sái Thúc vốn có âm mưu cướp ngôi, cùng một số nước chư hầu Đông Di, mượn danh nghĩa phản Chu Công rồi khởi binh làm loạn. Đứng trước tình hình nghiêm trọng này, Thành Vương cũng như Triệu Công và Thái Công đầu óc đã tỉnh táo.Nhất là sau khi họ phát hiện tờ giấy để trong tráp, lại càng thấy rõ được đức tính cao thượng và lòng dạ son sắt của Chu Công Đán, họ tỏ ra rất hối hận, liền cử người sang nước Sở đón Chu Công Đán về.

Nhằm trấn áp quân phiến loạn, bảo vệ giang sơn Đại Chu, Chu Công Đán đã áp dụng biện pháp quả quyết, lập tức tổ chức quân đội đông trinh. Trước lúc xuất phát, Chu Công Đán đã viết một bài văn thảo phạt quân phiến loạn, sau đó dẫn quần rầm rộ tiến về hướng đông. Trải qua 3 năm trinh chiến gian khổ, trước sau trải qua các chiến dịch: Bình định được Quản Thúc và Sái Thúc; Thắng Ân, Phạt Hổ Phương, Bình Hoài Di, Đạp bằng Am và Phổ Cô; Bắc trinh tiêu diệt được nhà Đường v v. Cuối cùng bình định được toàn bộ thế lực phiến loạn ở phía đông. Quản Thúc bị thua phải tự sát, Vũ Canh bị bắt rồi giết chết, Sái Thúc bị bắt rồi cách chức sung quân. Chu Công Đán lại phong cho em ở đất Ân, lập nên nước Vệ.

Chu Công Đán trở về lại tận tụy phò tá Thành Vương. Trong 7 năm chấp chính, ông lại tiếp tục chia phong chư hầu, đặt ra một loạt quyết sách quan trọng, khiến giang sơn vương triều nhà Chu được củng cố. Đến khi Thành vương 20 tuổi, Chu Công Đán mới bàn giao chính quyền cho nhà vua, rồi ít lâu sau thì mất.

________________________________________

Chu Vũ Vương phạt Trụ

 

Sau khi Chu Văn Vương qua đời, con trai là Cơ Phát lên nối ngôi, xưng hiệu là Vũ Vương. Nhà vua tôn Khương Thượng làm cha, rồi mời các anh em của mình là Chu Công Đán, Triệu Công Soảng, Hoa Công Cao v v đến làm trợ thủ của mình, tiếp tục thi hành chính sách nước giàu binh mạnh của Chu Văn Vương, chuẩn bị cho sự nghiệp thảo phạt Thương Trụ Vương mà cha còn chưa hoàn thành.

Trải qua hơn một năm chuẩn bị, Vũ Vương nhận thấy lực lượng quân sự của nhà Chu đã rất lớn mạnh, sau khi bàn bạc với Khương Thượng, bèn quyết định tổ chức một cuộc diễn tập quân sự. Nhà vua và Khương Thượng dẫn quân ra bến nước Minh Tân để thao diễn. Trong khi kiểm duyệt quân đội sắp hoàn tất, thì bỗng nghe từ bốn mặt tám hướng có tiếng ầm ầm như sóng dậy, thì ra các nước chư hầu được tin Chu Vũ Vương đến Minh Tân chuẩn bị thảo phạt Trụ Vương, họ đều nô nức hưởng ứng kéo quân đến trợ uy. Chu Vũ Vương thấy vậy vô cùng cảm động, bèn lập tức cùng các nước chư hầu lập bang ước, hẹn cùng nhau phối hợp chặt chẽ và liên hợp hành động. Trong khi hội thảo, các nước chư hầu đều chi rằng: "Chúng ta nay binh hùng tướng mạnh, thì nên nhân cơ hội này nhanh chóng thảo phạt vua Trụ ". Nhưng Chu Vũ Vương lại cho rằng thời cơ còn chưa chín muồi, nhà Thương còn có thực lực nhất định, hơn nữa trong nội bộ còn có các đại thần tài cán như Tỷ Can, Cơ Tử, Vi Tử v v, chúng ta không thể manh động. Mặt khác, hiện còn chưa chuẩn bị được chu đáo. Các chư hầu nghe xong, đành phải dẫn quân ra về.

Sau lần thao diễn ở Minh Tân, Chu Vũ Vương một mặt tăng cường luyện binh, mặt khác bí mật sai người đi thám thính tình hình nhà Thương. Qua ba lần thám tử về báo, được điệt nhà Thương đã thối nát đến cực độ, nhà vua nghe lời đồn nhảm, ám hại trung lương, Tỷ Can bị mổ bụng moi gan; Cơ Tử giả ngây giả dại bi ̣phạt làm nô lệ. Vi Tử nhận thấy vô vọng đã trốn đi sống ẩn cư. Còn nhân dân thì không dám mở miệng trách oán. Chu Vũ Vương nhận thấy nhà nước Ân Thương đã đổ vỡ chìa lìa, lòng dân phấn uất, thời cơ thảo phạt vua Trụ đã chính muồi, bèn lập tức phong KHương Thượng làm đại soái, dẫn 50 nghìn quân vượt qua sông Hoàng Hà tiến về phía đông. Khi đai quân đến Minh Tân, tám trăm chư hầu cũng dẫn quân đến trợ chiến, Chu Vũ Vương bèn tổ chức đại hội ăn thề tại đây, vạch tội vua Trụ hoang dâm vô đạo, gây nhiều tội ác, khích lệ mọi người cùng đồng tâm hiệp sức, không tiêu diệt được vua Trụ quyết không lùi binh.

Sau khi thề nguyện xong, Chu Vũ Vương dẫn quân rầm rộ đánh sang Triều Ca đô thành của nhà Thương, đoàn quân xông pha mạnh như thế chẻ tre. Khi tiến đến Mục Dã còn cách Triều Ca khoảng 70 dặm, Chu Vũ Vương và Khương Thượng quyết định đóng quân tại đây chỉnh đốn quân mã.

Vua Trụ nghe được tin này bèn điều động quân mã phòng bị, các nước chư hầu nhỏ cũng dẫn quân đến cứu ứng, cộng cả thảy 700 nghìn người, rồi thân trinh dẫn đại quân ra Mục Dã bày trận, quyết một trận tử chiến với Chu Vũ Vương.

Vua Trụ nghĩ bụng, mình có 700 nghìn quân mã, còn nhà Chu chỉ có 50 nghìn người, đây quả thực là đem trứng đi chọi với đá. Nhưng ông nào có biết quân đội của Chu Vũ Vương là một đạo quân tinh nhuệ được huấn luyện rất nghiêm khắc, chiến đấu dũng cảm ngoan cường. Còn trong số 700 nghìn quân mã của ông phần lớn đều là nộ lệ mới được vũ trang và những tù binh từ Đông Di đưa sang, họ hàng ngày bị vua Trụ áp bức và ngược đãi, họ căm giận vua Trụ đến xương tủy, thì còn ai chịu chết thay cho vua Trụ. Cho nên khi hai đạo quân xông vào chém giết, các nô lệ đều tới tấp vứt bỏ khí giới xin đầu hàng, rồi phối hợp với quân nhà Chu quay lại đánh vào trận quân nhà Thương, 700 nghìn quân của vua Trụ bị đánh tan dã. Vua Trụ thấy vậy vội tìm đường chạy trốn. Khương Thượng chỉ huy quân thừa thắng đuối một mạch đến Triều Ca. Vua Trụ trốn vào Triều Ca, biết thời vận mình đã hết, bèn ra lệnh đem vàng bạc châu báu trong cung chất đống trên Lộc Đài phóng lửa đốt, rồi tự thiêu mà chết. Dân chúng Triều Ca nghe tin vua Trụ đã chết, bèn ra nghênh đón quân nhà Chu vào thành. Chu Vũ Vương vào đến Lộc Đài, liền nhằm thi thể vua Trụ bắn ba phát tên, rồi cắt đầu vua Trụ và đầu Đát Kỷ đem treo ở dưới lá cờ trắng ngoài cung đình. Còn hai ái phi nữa của vua Trụ là Ác Lai và Phí Trọng cũng bị chém đầu.

Từ đó, triều nhà Thương trị vì trong hơn 600 năm đã bị diệt vong bởi tội ác tày trời của vua Trụ. Triều nhà Chu- một vương triều mới đã ra đời tại Trung Nguyên.

________________________________________

Chu Văn Vương phỏng hiền

 

Hành vi bạo ngược của vua Trụ đã tăng nhanh sự chia lìa trong vương triều nhà Thương, khiến nhà Thương nhanh chóng suy vong. Trong khi đó ở lưu vực sông Vị Thủy có một bộ lạc họ Chungày càng trở nên lớn mạnh.

Bộ lạc này là một bộ lạc cổ xưa, nguyên sinh sống ở miền cao nguyên Thiểm Tây và Cam Túc. Sau vì bị các bộ lạc du mục như Nhung, Cảnh v v xâm nhiễu. Thủ lĩnh bộ lạc là Cổ Công Đàn Phụ đã dẫn dắt cả bộ lạc di rời đến định cư tại vùng đồng bằng phía nam núi Kỳ Sơn.

Đến thời Cơ Xương cháu của Cổ Công Đàn Phụ lên nối ngôi thì nhà Chu đã trở nên rất lớn mạnh. Cơ Xương sau gọi là Chu Văn Vương, là một bậc minh quân cần kiệm, chất phác, khác hẳn với vua Trụ. Vua Trụ thích săn bắn, uống rượu, bạo ngược hà hiếp thần dân, còn Chu Văn Vương thì cấm uống rượu, không cho phép quý tộc lấy săn bắn là nghề nghiệp, ông còn ra sức khuyến nông, tích cực chăn nuôi gia súc v v. Các nhân tài trong thiên hạ như Thái Điên, Thân Giáp, Hoằng Yêu, Tán Nghi Sinh v v tới tấp đến theo ông, ngay đến các nước chư hầu nhỏ cũng phải thần phục.

Nhà Chu ngày càng lớn mạnh đã tạo thành mối uy hiếp đối với vương triều nhà Thương. Sùng Hầu Hổ nguyên có thành kiến với Cơ Xương đã nhân cơ hội nói xấu trước vua Trụ rằng: "Sức ảnh hưởng của Cơ Xương quá lớn, điều này thật bất lợi đối với cơ nghiệp của đại vương ". Lời nói này chính hợp với ý của vua Trụ, nhà vua liền sai người đi bắt Cơ Xương giam vào nhà lao. Khi các thần hạ đến thăm Chu Văn Vương trong nhà lao, Văn Vương bèn ám thị cho họ sang nước Hữu Độc Thị tìm kiếm mỹ nhân, đến nước Khuyển Nhung mua tuấn mã và thú lạ, cùng nhiều của cải như vàng bạc, bạch ngọc v v, thông qua tên gian thần Phí Trọng dâng lên vua Trụ để chuộc mình ra. Vua Trụ là một tuồng hiếu sắc, khi nhìn thấy mỹ nữ và nhiều của cải như vậy, thì cười híp mắt nói: "Một loại tặng vật nào cũng đủ để xá tội cho Cơ Xương". Tức thì liền ra lệnh thả Cơ Xương ra.

Văn Vương Cơ Xương sau khi trở về đô thành nhà Chu, bèn nuôi chí lớn tiêu diệt nhà Thương. Ông cân nhắc kỹ thì cảm thấy bên mình tuy đã có khá nhiều nhân tài, nhưng còn thiếu một nhân tài biết bày mưu tính kế, bèn đi khắp nơi để tìm kiếm.

Khương Thượng, tự Tử Nha là con cháu của bộ tộc Viêm Đế, sinh tại Đông Di, do ông tổ phong quốc tại Lã, nên còn gọi là Lã Thượng. Ông đi học ở các nơi nhiều năm, tuy đầy bụng kinh luân, tinh thông tam thao lục lược. Nhưng triều nhà Thương lúc bấy giờ đã quá ư đồi bại, Khương Thượng thì nhà nghèo rớt mùng tơi, anh hùng không đất dụng võ. Khi nghe nói Chu Văn Vương là bậc hiền minh, bèn rời đến sống ẩn cư ở Xương Khê bên bờ sông Vị Thủy, để chờ đợi thời cơ.

Một đêm, Chu Văn Vương nằm mơ thấy một con gấu đang phóng đến vồ mình, sau khi tỉnh dậy biết là điềm lành, bèn đem theo đội vệ binh lên xe ra đi. Lần ra đi này mang tiếng là đi săn bắn, nhưng kỳ thực là đi tìm kiếm nhân tài. Khi đoàn người đến bên bờ sông Vị Thủy, thì thấy một cụ già bảy tám mươi tuổi, râu tóc bạc phơ đang ngồi câu cá. Cụ không có phản ứng gì trước đoàn ngựa xe đang đi qua, mà vẫn cặm cụi ngồi câu, miệng lẩm bẩm nói gì đó nghe không rõ. Chu Văn Vương cảm thấy kỳ lạ, bèn xuống xe đến gần thì chỉ nghe cụ già nói rằng: "Nào hãy mau cắn câu đi, cắn câu đi, có ý muốn thì hãy cắn câu đi". Khi Văn Vương nhìn kỹ thì thấy lưỡi câu chỉ treo lơ lửng trên mặt nước, lưỡi câu là lưỡi câu thẳng, mà lại không mắc mồi. Chu Văn Vương thấy người này không phải là tầm thường, liền ngồi xuống bắt chuyện mới biết cụ tên là Khương Thượng, Chu Văn Vương thấy Khương Thượng ăn nói phi thường, học thức uyên bác, tinh thông binh pháp chiến sách, liền phấn khởi nói: "Tổ phụ tôi khi còn sống từng nói với tôi rằng: Sau này sẽ có một nhân tài trụ cột giúp cháu hưng thịnh nhà Chu. Cụ chính là nhân tài mà tổ phụ tôi hằng mong ước". Chu Văn Vương nói xong liền mời Khương Thượng lên xe cùng về cung, hoạch định cơ đồ trị quốc an bang.

Khương Thượng quả là một nhân tài tướng soái, không phụ lòng mong mỏi, đã giúp Văn Vương một mặt tăng nhanh sản xuất, một mặt huấn luyện binh mã, trước sau tiêu diệt được các nước chư hầu vào hùa với vua Trụ như Mật Tuy, Sùng Đẳng, khiến biên giới nhà Chu càng thêm mở rộng, đặt cơ sở vững chắc cho việc tiêu diệt nhà Thương sau này..

Trong lúc Chu Văn Vương đang chuẩn bị mở mang đại nghiệp, trinh phạt vua Tru, thì chẳng may bị lâm bệnh nặng, ít lâu sau thì mất, rất đáng tiếc chưa hoàn thành được sự nghiệp tiêu diệt nhà Thương.

________________________________________

Sự tàn bạo vô đạo của vua Trụ

 

 

Thương Thang dựng nên vương triều nhà Thương, giữa thời có sự "Trung hưng" của các đấng minh quân như Bàn Canh, Võ Đinh v v, Nhưng cuối cùng do một số vua chúa đần độn vô đạo, nhà nước dần dần suy đồi. Đến khi Trụ lên ngôi thì đã là ông vua đời thứ 30, vương triều nhà Thương nguy cơ chồng chất, xã hội rối ren. Trong sách cổ người ta đã gán ghép tên của Trụ và Hạ Kiệt lại với nhau, gọi tắt là Kiệt Trụ, hai người cùng bị coi là những tên bạo chúa điển hình. Nhưng trong quá khứ, vua Trụ từng là một ông vua sáng suốt, ông có thân hình vạm vỡ, gương mặt khôi ngô tuấn tú, túc trí đa mưu và dũng cảm phi thường, đã từng dẫn quân chiến đấu trường kỳ tại khu vực Đông Di, cuối cùng san bằng được Đông Di, mở mang ra khu vực đông nam, nhân dân ở đây đã hấp thu nền văn hóa và kỹ thuật sản xuất tiên tiến của Trung Nguyên, kinh tế xã hội rất phát triển. Nhưng chiến tranh đồng thời cũng đã tiêu hao quá nhiêu nguồn nhân lực và tài lực của vương triều nhà Thương, trút thêm gánh nặng và nỗi thống khổ cho nhân dân. Ách thống trị của vua Trụ trong thời kỳ cuối lại càng trở nên bạo ngược hơn. Nhằm hưởng lạc thú với ái phi Đát Kỷ, nhà vua không đếm xỉa đến sự sống chết của dân, dốc sức vào việc xây dựng cung điện, hao phí biết bao tiền của và sức người, trong 7 năm trời mới xây nên một tòa cung điện mới đặt tên là Lộc Đài, quy mô và sự hào hoa tráng lệ của nó còn trội hơn cả Dao Đài do Hạ Kiệt để lại.

Đát Kỷ ái phi của vua Trụ tuy là người có nhan sắc, nhưng lòng dạ cay nghiệt, hoang dâm và quỷ quyệt đa đoan, mụ thường xuyên xui vua Trụ bày trò hại người để mua vui. Tội ác của họ đã bị các chư hầu, đại thần, cũng như nhân dân phản đối. Vua Trụ nghe lời Đát Kỷ đã bày ra một hình phạt, bắt những người phản đối mình bước đi trên cây trụ đồng đã nung nóng, họ bước đi được mấy bước bị cháy da nát thịt, đau đớn quằn quại. Nhà vua và Đát Kỷ không những không thương hại, mà còn vỗ tay cười nói rất thích thú.

Mọi người căm thù trước hành động dã man này, họ phỉ nhổ và nguyền rủa nhà vua. Đát Kỷ nghe được tỏ ra rất khó chịu mới hỏi vua Trụ rằng: "Nay có khá đông người phản đối đại vương, vậy đai vương có đối sách gì?". Vua Trụ nói: "Trẫm đã cho người đào một cái bể cạn, bên trong thả đến hàng vạn con rắn độc và các loài độc trùng như rết, bọ cạp v v. Ai dám phản đối thì trẫm quăng chúng xuống nuôi đám độc trùng này". Đát Kỷ nghe xong phấn khởi nói: "Đại vương cứ nói suông làm gì, không bằng làm thử xem sao". Vua Trụ liền sai người bắt mấy chục thường dân quăng xuống bể. Khi nhìn thấy những người này đau đớn kêu gào, nhà vua và Đát Kỷ đều khua chân múa tay cười nói như không.

Các đại thần trong triều thấy nhà vua và Đát Kỷ quá ư tàn nhẫn, coi mạng người như cỏ rác, liền tới tấp dâng sớ khuyên ngăn, nhưng vua Trụ không những không nghe, ngược lại còn bắt các vị đại thần này hoặc bước qua cây trụ đồng nung nóng, hoặc thả xuống bể độc trùng cho đau đớn đến chết.

Vui Trụ còn ngang nhiên vơ vét của dân đem về cất giữ trong Lộc Đài, lương thực cướp bóc được thì cất đống trong "Củ Kiều". Ngoài ra, họ còn cho đào một cái bể trong cung, rồi đổ loại rượu ngon vào đầy bể, đem các loại thịt nướng treo xung quanh trông chẳng khác nào một cánh rừng, gọi là "Tửu trì nhục lâm" rồi cùng nhau hưởng lạc. Họ bòn mút xương máu của nệ lệ, sống cuộc đời dâm ô trụy lạc, còn nhân dân thì đang rên siết trong cảnh nước sôi lửa bỏng.

Vua Trụ còn bắt các mỹ nữ trong thiên hạ vào nuôi trong cung để hưởng lạc thú. Khi nghe nói người con gái của Cửu Hầu là bậc tuyệt sắc giai nhân, nhà vua liền cử người đi cướp về nhốt trong cung, rồi cưỡng bức nàng làm phi, nàng thà chết không chịu liền bị giết chết. Cửu Hầu và bạn là Ngạc Hầu nghe được tin buồn này vô cùng đau đớn, liền cùng nhau đến trách vua Trụ rằng: "Đại vương bức hại người vô tội, tất bị trời hận người oán, thiên hạ ai cũng muốn hỏi tội đại vương, sự diệt vong của triều nhà Thương không còn bao xa nữa". Vua Trụ nghe xong tức đến thất khiếu bốc khói, liền thét đem một người ra băm nát như tương, còn một người bị cát ra từng miếng thịt đem phơi thành thịt khô. Sự tàn bạo của Vua Trụ đã tăng nhanh thêm ngày tận số của vương triều nhà Thương.

________________________________________

Đệ nhất hiền tướng Y Doãn

 

 

Việc chiêu hiền nạp sĩ, tuyển lựa nhân tài, là một đường lối thành công của vua chúa các triều đại. Thương Thang sở dĩ lật đổ được vương triều nhà Hạ, là không thể tách rời với sự trợ giúp đắc lực của Y Doãn. Y Doãn là vị thừa tướng đầu tiên của TQ, luôn luôn là một tấm gương sáng chói trong lịch sử.

Y Doãn có tên là Chí, là một nô lệ theo vợ của Thương Thang từ nước Hữu Sằn Thị sang nước Thương. Về thân thế của ông còn có một huyền thoại như sau. Bấy giờ, có một nước nhỏ gọi là nước Hữu Sằn Thị. Một hôm, có một cô gái vào rừng cây dâu để hái dâu, thì chợt nghe có tiếng trẻ khóc, nàng vội vàng tìm tới thì thấy một bé trai bụ bẫm nằm trong hốc cây dâu, nàng bèn ẵm về dâng cho vua Hữu Sằn Thị, nhà vua không hiểu cha mẹ đứa bé là ai, bèn sai người đi tìm hỏi. Ít lâu sau người đi trở về báo rằng: Mẹ đứa trẻ này nguyên sống ở bên bờ sông Y, khi đang chửa đứa bé thì một đêm nằm mơ thấy thần tiên đến nói rằng: " Khi đến mùa cốm thì hãy báo cho cả dân làng chạy thẳng về hướng đông, không được ngoảnh cổ nhìn lại, phải nhớ kỹ". Ít lâu sau thì đến mùa cốm, bà vội vàng báo cho cả dân làng theo mình chạy về hướng đông, có người tin thì chạy theo, người không tin thì đều ở lại. Đoàn người dắt dìu nhau đi được mười mấy dặm đường, vì bà ta không nỡ bỏ mặc hàng xóm, liền ngoái cổ nhìn lại thì thấy nước sông Y dâng cao ngập cả thôn xóm. Bà hoảng hốt kêu lên, nhưng không kêu thành tiếng, rồi biến thành một cây dâu già rỗng ruột. Ít lâu sau, cô gái đi hái dâu phát hiện đứa bé trong hốc cây, vì mẹ đứa bé sống bên bờ sông Y, nên mới đặt là họ Y, về sau ông ta làm quan đến chức Doãn, nên người đời sau mới gọi ông là Y Doãn.

Vua Hữu Sằn Thị trao đức bé cho một thầy bếp nuôi nấng. Y Doãn khôn lớn rất thông minh hiếu học, đã thạo nghề nấu nướng, lại nắm vững mưu lược trị nước an bang.

Khi Thương Thang đi thị sát ở miền đông, nghe nói vua Hữu Sằn Thị có một con gái nết na xinh đẹp, bèn đến cầu hôn, nhà vua vốn biết tiếng Thương Thang là một ông vua hiền minh, liền vui vẻ nhận lời ngay. Y Doãn không cam chịu số phận làm người thầy bếp, bèn xin với nhà vua cho mình làm nô bộc theo hầu công chúa sang nước Thương.

Khi tới nước Thương, Y Doãn vẫn bị sắp xếp đi nấu nướng trong nhà bếp của nhà vua. Nhằm gây nên sự chú ý của Thương Thang, trong khi nấu ăn, Y Doãn cố ý làm lúc mặn lúc nhạt, khiến Thương Thang rất tức giận liền thét lôi Y Doãn lên mắng nhiếc. Y Doãn thấy thời cơ đã đến, mới bình tĩnh nói: "Muối cho vừa phải thì cơm canh mới ngon, việc trị nước an bang cũng vậy, vừa không thể quá nóng vội, cũng không thể lơ là buông lỏng, phải nhận rõ chủ thứ trước sau, có mức độ thì mới chính thông nhân hòa". Thương Thang nghe xong vô cùng kinh ngạc, thấy Y Doãn tuy người ngượm xấu xí, thận phận thấp hèn, mà lại là một nhân tài khó kiếm. Thế mới thật là "Nhân bất khả mạo tướng, hải thủy bất khả đấu lượng". Tức thì, bèn xóa bỏ thân phận nô lệ của Y Doãn, cho tham gia bàn việc lớn nhà nước, một thời gian sau lại nâng Y Doãn lên làm Hữu Thừa Tướng.

Thương Thang thấy nước nhà ngày một lớn mạnh, những muốn trinh phạt Hạ Kiệt đã gây ra quá nhiều tội ác, mới hỏi Y Doãn có sách lược gì? Y Doãn nói: " Hạ Kiệt còn có thế lực nhất định, chúng ta hãy thử không đi tiến cống hắn, xem hắn sẽ phản ứng ra sao?". Thương Thang nghe theo. Hạ Kiệt biết được việc này vô cùng tức giận, bèn lệnh cho Cửu Di tiến đánh nước Thương. Y Doãn thấy Cửu Di vẫn còn nghe lời sai khiến của Hạ Kiệt, thì lập tức bảo Thương Thang sang xin lỗi, rồi vẫn tiếp tục tiến cống như trước. Một năm sau, vì Hạ Kiệt áp bức dân quá thậm tệ, bộ tộc Cửu Di lần lượt xa lánh Hạ Kiệt. Y Doãn thấy thời cơ đã chính muồi, liền bảo Thương Thang dãy binh tiến đánh và tiêu diệt được triều nhà Hạ, lập nên triều nhà Thương.

________________________________________

Hạ Kiệt và Thương Thang

 

 

 Khởi đã phế bỏ chế độ nhường ngôi và thiết lập nên vương triều nhà Hạ. Đến hơn 400 năm trước công nguyên, Kiệt lên làm vua đã là triều vua đời thứ 16, lúc này trong cung đình bắt đầu dấy lên lối sống dâm ô trụy lạc. Hạ Kiệt là một tên bạo chúa khét tiếng trong lịch sử. Câu thành ngữ "Kiệt khuyển phệ Nghiêu" đã đủ chứng minh cho sự tàn bạo này. Hạ Kiệt và một số quý tộc chủ nô bóc lột nhân dân, tầng lớp nô lệ lại càng bị áp bức thậm tệ. Hạ Kiệt còn hao phí nhiều tiền của vào việc xây dựng cung đình, rồi cùng với ái phi Muội Hỷ sống cuộc đời dâm ô trụy lạc.

Hạ Kiệt còn là người rất kiểu cách trong việc ăn uống, rượu tất phải là rượu thuần khiết, không có chút pha tạp. Còn rau, cá , thịt, cùng các đồ gia vị thì đặt một khu sản xuất riêng, có tới hàng nghìn người vất vả vì việc này, mà nhỡ ai có sai sót gì là giết. Hạ Kiệt còn có một thói xấu là sau khi uống rượu say, hắn bắt người làm ngựa cho mình cưỡi, có những đại thần mệt không thể bò được nữa phải xin hắn tha thứ, thì đều bị giết chết.

Trong triều có một vị đại thần tính tình cương trực tên là Quan Long Phùng, khi thấy Hạ Kiệt làm việc càn bậy và coi mạng người như cỏ rác, mới vào cung khuyên rằng: "Từ xưa đến nay, vua nhân hiền thì phải thương yêu dân, chăm lo việc triều chính, phải quan tâm cấp dưới và sống cần kiệm chất phác, như vậy thiện hạ mới được yên ổn. Còn như bệ hạ sống xa hoa dâm đãng, tùy ý giết người như vậy thì thiên hạ tất sinh loạn, bệ hạ làm mất lòng dân, thì giang sơn Đại Hạ tất không được dài lâu". Hạ Kiệt không những không nghe, mà nổi cơn lôi đình mắng nhiếc, rồi thét bảo vệ sĩ lôi Quan Long Phùng ra chém chết.

Từ đó về sau, những người chính trực không ai dám khuyên can gì nữa, bên tai Hạ Kiệt chỉ còn nghe thấy tiếng nịnh hót bợ đỡ của các đại thần nhỏ nhen, Hại Kiệt còn cho mình là đấng siêu phàm, tự ví mình là mặt trời, dân chúng vô cùng căm giận liền chỉ lên mặt trời nguyền rủa rằng: "Đến bao giờ ngươi bị diệt vong, chúng tôi nguyện cùng ngươi bị diệt vong". Ách thống trị của triều đình nhà Hạ đang lung lay trong cơn mưa bão.

Bấy giờ, vùng hạ du sông Hoàng Hà có một bộ lạc họ Tử dần dần trở nên lớn mạnh. Nghe nói họ là con cháu của Khế. Trong thời đại Nghiêu Thuấn, Khế từng cùng Vũ đi trị thủy, vì ông có công nên Vũ phong đất cho ông ở Thương, về sau Khế dựng nên nước Thương. Do ngành chăn nuôi và thương mại v v phát triển tương đối nhanh, đến cuối thời nhà Hạ thì nước Thương đã trở thành một bộ lạc lớn mạnh.

Thương Thang thấy Hạ Kiệt quá tàn bạo, vương triều nhà Hạ ngày một suy thoái, nhân dân khổ cực đều sôi sục căm thù, bèn quyết định lật đổ triều nhà Hạ, bề ngoài ông tỏ ra rất cung kính đối với Hạ Kiệt, nhưng bên trong thì ngấm ngầm lôi kéo các lực lượng, không ngừng mở rộng thế lực của mình.

Song song với việc làm khiến dân giàu nước mạnh, Thương Thang còn để ý từng cử chỉ và lời nói của mình để lung lạc lòng dân, tạo dựng sự hiền minh nhân nghĩa của mình. Câu thành ngữ "Võng khai nhất diện" đã thuật lại một truyện kể về Thương Thang như sau: Một hôm, khi Thương Thang đi tuần du ở ngoại ô, thấy một người đang giăng lưới bẫy chim. Chim từ các nơi bay về đều bị mắc lưới, Thương Thang thấy vậy mới nói với người kia rằng: "Anh làm như vậy chẳng phải là đuổi tận giết tiệt sao? Thực là tàn nhẫn quá. Anh chỉ nên bủa lưới ba mặt thôi, để trống một mặt mới phải". Người kia tỏ ra khó hiểu bèn hỏi lại: "Để trống một mặt thì làm sao bắt được chim?". Thương Thang cảm khái nói: "Chim tự do bay lượn, muốn bay sang phải thì sang phải, muốn bay sang trái thì sang trái, chỉ có những con chim chán đời rồi mới đâm đầu vào lưới mà thôi ".

Những lời nói này của Thương Thang đã nhanh chóng lưu truyền trong dân chúng, họ đều kháo nhau rằng: "Thương Thang đối với loài chim thú còn nhân từ như vậy, quả là một người lương thiện, bậc nhân nghĩa, chúng ta nên hết lòng ủng hộ ông ta". Bấy giờ có 40 nước nhỏ thường bị Hạ Kiệt ức hiếp, khi thấy Thương Thang là người nhân nghĩa, đều tới tấp theo ông.

Thương Thang thấy thời cơ đã chín muồi, liền mượn ý chỉ của trời để động viên các tướng sĩ, rồi mở một trận quyết chiến với Hạ Kiệt ở Minh Điều. Do Hạ Kiệt đã gây ra nhiều tội ác, các tướng sĩ không chịu ra sức, nên Hạ Kiệt bị thua to. Quân của Thương Thang nhanh chóng đánh chiếm được đô thành triều nhà Hạ, Hạ Kiệt phải chạy trốn sang Nam Sào, ít lâu sau thì ốm chết.

Vương triều nhà Thương thay thế cho triều nhà Hạ, sau khi lên làm vua, Thương Thang đối xử khoan dung với nhân dân, khuyến khích họ phát triển sản xuất, giảm sưu thuế, do đó triều nhà Thương trong thời kỳ đầu là một nhà nước rất phồn vinh cường thịnh.

________________________________________

Đại Vũ trị thủy

 

 

Hoàng Hà là dòng sông mẹ của dân tộc Trung Hoa, đã thai nghén lịch sử và văn hóa hơn 5000 năm và là cái nôi của nền văn minh cổ đại TQ. Nhưng do nguyên nhân địa lý, nên nó còn là dòng sông đã gây ra nhiều tác hại lớn, nạn lũ lụt thường xuyên xảy ra, đã tạo thành một mối nguy hại lớn đối với tính mạng và tài sản của con người.

Tương truyền, khi Nghiêu còn làm đại tù trưởng, lưu vực sông Hoàng Hà đã xảy ra nạn lũ lụt lớn, cuốn trôi đi rất nhiều người, cùng nhiều gia cầm gia súc, dân chúng khổ cực hết chỗ nói.

Nghiêu nhìn những cảnh tượng này vô cùng đau lòng, liền triệu tập cuộc họp liên minh bộ lạc để bàn cách trị thủy. Mọi người đều nhất trí tiến cử Cổn đảm đương công việc này.

Cổn đã phí mất 9 năm trời vào việc trị thủy, nhưng ông ta chỉ biết mỗi việc đắp đất ngăn dòng, sửa đê điều vây lũ, rút cuộc nước lũ không thoát ra được, mực nước cứ dâng cao thì đê điều cũng đắp cao lên, nước lũ bị vây hãm khác nào một con mãnh thú đang lồng lộn trong chuồng, đến lúc vỡ đê thì hậu quả càng thêm nghiêm trọng.

 

Đến thời Thuấn làm thủ lĩnh liên minh bộ lạc, ông đã thân hành đi thị sát hiện trường, thấy Cổn không thạo việc trị thủy liền xử phạt ông, rồi trao việc trị thủy cho Vũ con trai ông.

Vũ là một người thông minh tài giỏi, chàng ta đã đúc rút bài học thất bại của cha, trước tiên đi khảo sát các vùng bị lũ lụt. Sau đó mới đặt ra nhiều biện pháp để dẫn nước lũ ra biển. Nhưng muốn dẫn nước lũ ra biển, thì tất phải tìm ra đầu nguồn sông và nơi thoát lũ. Tức thì, ông liền cùng người giúp việc vượt suối băng ngàn, trải qua muôn vàn khó khăn, tìm hiểu rõ về dòng sông, rồi mới thiết kế quy hoạch trị thủy.

Vũ đầu đội nón, mình mặc áo vải thô, tay cầm mai dẫn đầu các sĩ tốt cùng lao động với dân chúng, nào gánh đất khuân đá, đào mương xẻ lũ, nạo vét lòng sông, dẫn nước chảy về xuôi. Ông bôn ba trên công trường trị thủy trong 13 năm, quanh năm suốt tháng ngâm mình trong bùn nước, đến nỗi móng chân và lông chân bị long rụng, nhưng ông vẫn mặc. Trong 13 năm trời, có ba lần ông đi qua trước cửa nhà mình, mà vẫn chẳng lần nào ghé thăm nhà, đã trở thành một giai thoại trong suốt mấy nghìn năm nay.

Vợ của Vũ là Đồ Sơn Thị, hai vợ chồng lấy nhau mới được bốn ngày thì Vũ đã phải ra đi trị thủy. Trước khi ra đi Vũ đã dặn vợ rằng: "Nếu sau này mình sinh được con trai thì hãy đặt tên con là Khởi, để kỷ niệm ngày tôi khởi hành đi trị thủy".Về sau, cũng chính vào lúc Vũ đi qua trước cửa nhà mình thì người vợ sinh được một mụn con trai, Vũ nghe tiếng con khóc trong nhà rất muốn vào xem, nhưng lại nghĩ đến việc trị lũ còn chưa xong, biết bao nạn dân đang phải lánh nạn trên đồi cao, nên đành dằn lòng quay gót vội vã đi ngay.

Lao động không phụ lòng người, trải qua 13 năm lặn lội vất vả, lòng sông đã được khơi thông, dòng lũ ngoan ngoãn chảy ra biển, dân chúng vui vẻ trở về xây dựng cơ ngơi và cầy cấy trên đồng ruộng của mình, cuộc sống lại yên lành như xưa. Nhằm kỷ niệm công lao trị thủy của Vũ, người đời sau đã tôn xưng ông là "Đại Vũ".

Khi tuổi về già, Thuấn cũng như Nghiêu muốn tìm người nối ngôi mình. Vì Vũ có công trong việc trị thủy, nên mọi người đều nhất trí tiến cử ông. Bấy giờ, sức sản xuất xã hội đã phát triển mạnh, từ đó đã nảy sinh từng lớp thị tộc quý tộc, thêm vào đó Vũ lại có công trong việc trị thủy, nên trong thực tế Vũ đã từ ngôi vị thủ lĩnh liên minh bộ lạc trở thành một quốc vương.

Khi tuổi về già, Vũ cũng triệu các thủ lĩnh bộ lạc đến để bầu ngưởi kế vị, mọi người đều nhất trí đề cử Bá Ích. Sau khi Vũ mất, Khởi người con trai của Vũ đã dựa vào thế lực của bộ lạc người Hạ, xua đuổi Bá Ích đi, rồi tự mình tuyên bố kế vị xưng vương và lập nên chính quyền nhà nước, bức các bộ lạc phải chịu sự lãnh đạo của mình. Từ đó về sau, chế độ cha truyền con nối đã thay thế cho chế độ nhường ngôi, triều nhà Hạ - một vương triều chế độ nô lệ đầu tiên của TQ ra đời.

________________________________________

Nghiêu Thuấn nhường ngôi

 

Các triều đại TQ đều tôn Nghiêu Thuấn là bậc minh quân thánh hiền, hành động nhường ngôi của họ luôn luôn là giai thoại được lưu truyền trong sử sách.

Sau thời Hoàng Đế, một số thủ lĩnh liên minh bộ lạc nổi tiếng lần lượt ra đời. Thí dụ như Nghiêu, Thuấn v v, họ ban đầu chỉ là tù trưởng bộ lạc thị tộc, sau mới được bầu làm đại tù trưởng liên minh bộ lạc.

Trong cuốn "Thượng Thư" có truyện "Nghiêu Điển" do người viết sử triều nhà Chu sưu tầm và biên soạn, đã tường thuật lại truyện Nghiêu, Thuấn nhường ngôi.

Bấy giờ, vì có việc hệ trọng, nên đại tù trưởng liên minh bộ lạc đã triệu tập tù trưởng các bộ lạc lại cùng bàn đối sách. Lúc này Nghiêu đã tuổi già sức yếu, ông bắt đầu nghĩ tới việc do ai kế thừa chức vụ của mình. Tức thì, ông liền hỏi ý của bốn tù trưởng của bộ lạc thị tộc Viêm Đế. Khi ông vừa nêu ra thuyết tưởng này thì có một người tên là Phóng Tề nói: "Con trai ông là một người sáng suốt, có thể đảm nhận chức vụ này". Nghiêu nghe vậy liền nghiêm nghị nói: "Không được, thằng này đạo đức còn rất kém, không có hàm dưỡng, lại hay cãi cọ với người khác ". Có một người lại đề cử rằng: "Cộng Công phụ trách về thủy lợi cũng là một người tốt chứ sao". Nghiêu lắc đầu nói: "Cộng Công là một người khéo ăn khéo nói, bề ngoài rất khiêm nhường, hòa nhã. Nhưng bên trong thì lại khác, tôi không thể tin được." Mọi người bàn luận mãi mà vẫn chưa tìm được người nào xứng đáng, đành phải tan cuộc để bàn sau.

Mấy hôm sau, Nghiêu lại triệu tập bốn tù trưởng lại bàn tiếp, các tù trưởng đều nhất trí tiến cử Thuấn. Nghiêu nghe xong liền gật gật đầu nói: "Tôi cũng từng nghe nói Thuấn là một người tốt, vậy các ông hãy giới thiệu tỉ mỉ về anh ta".

Tức thì, bốn người liền tranh nhau kể về tình hình của Thuấn. Thuấn người Đông Di, cha Cổ Tầu là một ông già hồ đồ, mẹ đẻ mất sớm, người mẹ kế cay nghiệt và đanh đá sinh được một con trai đặt tên là Tượng, anh này là một người ngông cuồng làm càn, rất là vô lễ, nhưng lại được Cổ Tầu rất cưng chiều. Cả nhà đều coi Thuấn là cái gai trước mắt. Nhưng Thuấn tuy sống trong một hoàn cảnh như vậy, mà vẫn một mực kính hiếu đối với cha mẹ, thương yêu chăm sóc em, chứ không hề oán trách gì, quả là một người đạo đức cao thượng.

Nghiêu nghe xong vô cùng phấn khởi, bèn quyết định đem hai người con gái của mình là Nga Hoàng và Nữ Anh gả cho Thuấn, chia cho Thuấn rất nhiều lương thực và bò cừu. Đồng thời quyết định tìm hiểu thêm về Thuấn. Người mẹ kế và em của Thuấn biết được việc này tỏ ra vô cùng ghen tỵ, họ liền bàn với Cổ Tầu tìm cách hại Thuấn bằng được mới thôi.

Một hôm, Cổ Tầu bảo Thuấn trèo lên sửa nóc nhà kho, trong khi Thuấn đang mải sửa nóc nhà, Cổ Tầu liền cất thang đi rồi châm lửa đốt. Thuấn thấy lửa bốc cháy vội vàng tìm thang để xuống, nhưng chẳng thấy thang đâu. Trong lúc nguy cấp, Thuấn liền bỏ nón trên đầu xuống, rồi hai tay cầm vành nón nhảy xuống mới thoát nạn.

Cổ Tầu và Tượng thấy Thuấn chưa chết, thì thua keo này lại bày keo khác. Một hôm, họ bảo Thuấn đi đào giếng, khi Thuấn đang hì hục đào ở phía dưới, thì họ ở bên trên liền đổ đất đá xuống rồi lèn chặt, những tưởng phen này Thuấn tất chết, nhưng dè đâu dưới giếng có một ngách có lỗ thông lên trên, Thuấn an toàn chui ra khỏi giếng, mà tuyệt nhiên không hề oán trách ai, cứ thản nhiên như không có việc gì xảy ra.

Nghiêu quan sát thấy Thuấn quả là một con người thông minh nhanh trí, rất khoan dung đại lượng, kiêm đủ đức tài, bèn nhường ngôi Đại Tù Trưởng cho Thuấn. Sau khi kế vị, Thuấn không phụ lòng mong mỏi của mọi người, ông sống rất cần kiệm, cùng lao động và đồng cam cộng khổ với dân, nên được mọi người yêu mến. Mấy năm sau Thuấn qua đời, trước khi qua đời, Thuấn từng muốn nhường ngôi cho Đan Chu con trai của Nghiêu, nhưng vì mọi người không đồng ý, nên đành thôi.

________________________________________

Hoàng Đế chiến Suy Vưu

 

 

Trong thời đại viễn cổ vào hơn 5000 năm trước, có khá nhiều thị tộc và bộ lạc cư trú tại TQ, giữa họ có sự ảnh hưởng và đấu tranh với nhau trong một thời gian dài, sau có một số đi đến hòa hợp với nhau và dần dần phát triển lên. Trong đó có một bộ lạc đứng đầu là Viêm Đế, cư trú tại vùng lân cận Khương Thủy miền tây bắc TQ, do đó mới đặt là họ Khương ( jiang), họ là một chi của dân tộc Khương (qiang)Tây Nhung, đã trước tiên từ phương tây du mục vào miền trung. Nghe nói họ có quan hệ họ hàng với bộ lạc Hoàng Đế sau đó cũng di nhập vào miền trung.

Bộ lạc của Hoàng Đế ban đầu cư trú tại vùng lân cận Cơ Thủy, nên mới đặt là họ Cơ, Hoàng Đế đặt hiệu Hiên Viên Thị, còn gọi là Hùng Thị. sau đó mới di dời đến Trác Lộc của tỉnh Hà Bắc ngày nay, họ sống bằng nghề chăn nuôi và làm ruộng, rồi dần dần trở nên lớn mạnh.

Bấy giờ tại khu vực miền nam TQ có dân tộc Cửu Lê cũng rất lớn mạnh, dân tộc này do 9 bộ lạc liên hợp lại với nhau, mỗi bộ lạc lại có 9 thị tộc anh em, tổng cộng là 81 thị tộc, do Suy Vưu là thủ lĩnh. Trong truyền thuyết có nói Suy Vưu vai hổ lưng gấu, các thành viên trong thị tộc đều có thân hình như dã thú, hàng ngày chỉ ăn sỏi đá, đầu đồng trán sắt, tai mọc lông sắc như kiếm, bộ tộc Cửu Lê dũng mãnh thiện chiến, vẫn thường cướp bóc các bộ tộc khác, những người bị áp bức không đủ sức chống cự, nên cuộc sống rất khổ cực.

Suy Vưu thường thường dẫn đầu dân tộc Cửu Lê xâm lấn bộ lạc của Viêm Đế, Viêm Đế bị thua phải chạy sang Trác Lộc cầu cứu với bộ lạc Hoàng Đế. Hoàng Đế vì suy xét tới lợi ích của mình, bèn cùng Viêm Đế liên kết với nhiều thị tộc khác, rồi mở một trận kịch chiến với bộ tộc Suy Vưu ở đồng nội Trác Lộc.

Về cuộc chiến tranh này đã có khá nhiều truyền thuyết. Hoàng Đế cùng Viêm Đế không những liên hợp các bộ lạc cùng chiến đấu, mà còn thả 6 loài mãnh thú được thuần dưỡng như gấu, hổ, báo v v vào trận đánh, binh sĩ của Suy Vưu tuy dũng mãnh, nhưng vẫn không sao chống đỡ nổi, phải bỏ chạy tán loạn.

Trên đường chạy trốn, Suy Vưu đành phải mời "Phong bá vũ sư" đến trợ giúp. Trời đất bỗng chốc tối tăm, mây mù che phủ, cát sỏi bay mù mịt, mưa dồn chớp giật. Hoàng Đế cũng không chịu thua kém, một mặt dùng xe chỉ nam do bộ lạc phát minh ra, hướng dẫn quân sĩ đuổi giết tàn quân của Suy Vưu trong mù mưa, một mặt mời thiên nữ "Bạt" xuống trần gian xua tan mưa gió, tức thì trời quang mây tạnh, bộ tộc Cửu Lê bị đánh bại, Suy Vưu bị bắt rồi bị giết chết. Truyện thần thoại tuy hoang đường, nhưng qua đó đã phần nào phản ánh được sự tàn khốc của cuộc chiến tranh này.

Bộ tộc Cửu Lê bị thất bại, những người còn lại một số chạy xuống phía nam, một số khác thì bị bắt làm tù binh lưu lại ở miền bắc trở thành "Lê Dân". Còn Hoàng Đế được nhiều bộ lạc ở khu vực miền trung ủng hộ, uy tín ngày càng cao. Ít lâu sau, giữa Hoàng Đế và Viêm Đế xảy ra xung đột, rồi qua ba lần kịch chiến ở Bản Tuyền, bộ tộc Viêm Đế bị thất bại, Hoàng Đế trở thành thủ lĩnh thống trị Trung Nguyên.

Trong truyền thuyết có kể về thời đại Hoàng Đế có khá nhiều phát minh. Luy Tổ người vợ cả của Hoàng Đế rất giỏi về nghề nuôi tằm, xe tơ, dệt vải. Xương Quyết sáng tạo ra văn tự. Đại Nhiễu sáng tạo ra can chi. Lang Luân chế ra nhạc cụ, cũng như dân chúng biết dùng ngọc làm binh khí, biết dựng cung điện, đóng thuyền, đóng xe, nhuộm trang phục v v. Những truyền thuyết này chứng tỏ sức sản xuất của thời đại Hoàng Đế đã có sự phát triển nhất định.

Trong các cuốn sách của hậu thế ghi chép về thế hệ đế vương cổ như "Sơn Hải Kinh", "Đại Đới Lễ Ký" v v cũng đều bắt nguồn từ Hoàng Đế, ngay đến các học giả cổ đại cũng đều phải thừa nhận Hoàng Đế là thủy tổ của dân tộc Hoa Hạ. Do Hoàng Đế và Viêm Đế có quan hệ cận thân, sau lại dung hòa với nhau, nên người Hoa và Hoa Kiều nước ngoài đều tôn sùng hai vua Viêm, Hoàng là thủy tổ của dân tộc Trung Hoa, và tự xưng là "Con cháu Viêm Hoàng."

________________________________________

Thần công quỷ phủ

 

Ý của câu thành ngữ này là chỉ những kiến trúc hay tượng điêu khắc v v có nghệ thuật cao siêu, như có bàn tay của quỷ thần trợ giúp.

Câu thành ngữ này xuất xứ từ "Trang Tử-Đạt Sinh".

Thời Xuân Thu, nước Lỗ có một ông thợ mộc tay nghề cao siêu tên là Khánh, mọi người vẫn thường gọi ông là Tử Khánh. Ông rất khéo tay về làm đồ gỗ, ai nhìn thấy cũng phải khen ngợi. Một hôm, ông dùng gỗ khắc thành một chiếc chuông rất đẹp mắt, nó tinh xảo đến nỗi khiến mọi người đều không tin là do con người làm ra, mà là do bàn tay quỷ thần tạo nên. Ngay đến vua nước Lỗ nhìn thấy cũng không ngớt lời khen ngợi. Nhà vua liền hỏi rằng: "Người dùng pháp thuật gì làm ra vậy?"

Tử Khánh cười đáp: "Tôi chỉ là một người tầm thường, chứ đâu có pháp thuật gì".

Nhà vua nghe vậy vẫn không tin, lại hỏi tiếp: "Vậy ngươi đã làm như thế nào?" Tử Khánh đáp: "Khi làm chiếc chuông này, tôi không hề có chút tạp niệm nào, rất tập trung tinh thần, và cũng không mong dùng nó để được ân thưởng và tiền nong, mà chỉ nghĩ làm sao làm tốt nó, thậm trí quên cả bản thân mình. Sau đó, tôi lên rừng tìm loại gỗ thích hợp, bấy giờ trong thâm tâm tôi đã hình thành hình tượng của một chiếc chuông rất cụ thể, sau đó mới tiến hành gia công, lúc này lòng tôi không nghĩ gì khác, mọi tâm huyết đều dồn vào nó. Trải qua dày công điêu khắc, mới hình thành chiếc chuông này."

Nhà vua nghe xong, đã hiểu được nguyên nhân làm ra chiếc chuông này.

________________________________________

Táng tâm bệnh cuồng

 

Câu thành ngữ này có ý chỉ người mất hết lý trí, ngôn luận sai loạn, như bị điên dại, thường dùng để ví về người tàn nhẫn, độc ác đến cùng cực.

Câu thành ngữ này có xuất xứ từ "Tống Sử-Truyện Phạm Như Khuê".

Tần Cối nguyên là đại thần triều Bắc Tống, đã theo hai nhà vua là Tống Huy Tông và Khâm Tông đến làm tù binh ở phương bắc, nương nhờ vào người Kim. Về sau, hắn bị người Kim thả về Nam Tống làm nội gián. Trong triều đình, hắn đã nêu ra chủ trương bán nước là nghị hòa với người Kim và nam bắc phân để trị. Tống Cao Tông là người luôn có ý định giảng hòa với người Kim, nên rất tán thưởng chủ trương này của Tần Cối, liền nâng hắn lên làm tể tướng, phàm có việc gì đều ngấm ngầm bàn riêng với hắn, không cho phép các đại thần tham gia. Tần Cối một mặt tỏ ra ân cần, khúm núm đối với Tống Cao Tông, mặt khác không ngừng chiêu nạp các quan chức chủ trương đầu hàng, bức hại những quan viên chủ chiến, nên hắn thường bị các đại thần trong triều khiển trách, dân chúng cũng rất căm giận.

Một hôm, triều nhà Kim cử sứ giả đến Nam Tống bàn về điều kiện giảng hòa. Vị sứ giả này dựa vào lực lượng quân sự lớn mạnh của triều nhà Kim, thái độ vô cùng ngạo mạn, hắn nêu ra những điều kiện rất khắt khe, nên bị các quan viên chủ chiến phản đối, riêng chỉ có Tần Cối bày tỏ tiếp nhận. Phạm Như Khuê lúc bấy giờ là Hiệu Thư Lang, kiêm chức Sử Quán Hiệu Thám chủ trương từ chối nghị hòa với người Kim. Ông chuẩn bị cùng một số đồng liêu liên danh viết thư cho Tống Cao Tông, phản đối sự cầu hòa nhục nhã này. Sau khi viết xong tấu chương, những người kia sợ bị Tần Cối báo thù, nên đều co rụt lại cả. Phạm Như Khuê thấy vậy liền viết một bức thư cho Tần Cối, để chỉ trích hành vi bán nước của hắn. Trong thư có đoạn viết: "Tần Cối ông nếu không phải là người mất hết lý trí, lời nói và hành vi sai loạn như người điên rồ, thì làm sao lại có thể làm nên những sự việc nhục nước hại dân như vậy? Ông làm như thế tất bị người đời chê trách và thối tha nghìn năm, mãi mãi bị các đời con cháu phỉ nhổ ".

________________________________________

Tam cố mao lư

 

 

Câu thành ngữ này có xuất xứ từ "Xuất sư biểu" của Gia Cát Lượng thời Tam Quốc.

Cuối thời Đông Hán, Lưu Bị bị Tào Tháo đánh bại, phải chạy sang Kinh Châu với Lưu Biểu. Nhằm gây dựng nghiệp lớn, Lưu Bị đã đi khắp nơi tìm kiếm nhân tài, chiêu mộ hiền sĩ. Sau danh sĩ Kinh Châu Tư Mã Huy đã tiến cử với ông "Ngọa Long tiên sinh" Gia Cát Lượng.

Gia Cát Lượng sống ẩn cư ở Long Trung cách phía tây thành Tương Dương 20 dặm, dưới mái nhà tranh vách nứa và làm nghề đồng áng̣. Ông học thức uyên bác, tinh thông sử sách, là một nhân tài kiệt xuất. Lưu Bị được biết bèn đến Long Trung thăm viếng. Ông trước sau đến Long Trung ba lần, hai lần trước Gia Cát Lượng đều tránh không gặp, đến lần thứ ba mới chịu ra tiếp đón. Gia Cát Lượng đã cùng Lưu Bị phân tích tình hình thời cuộc, thảo luận việc giành chính quyền ra sao, và kế sách thống nhất thiên hạ, khiến Lưu Bị vô cùng khâm phục, nguyện tôn Gia Cát Lượng làm quân sư, gây dựng lại Hán thất. Gia Cát Lượng cảm động trước tấm lòng chân thành của Lưu Bị đã ba lần đến lều tranh mời mình, liền ưng thuận ra giúp Lưu Bị tranh đoạt thiên hạ.

Từ đó Gia Cát Lượng trở thành trợ thủ đắc lực của Lưu Bị, phía đông liên minh với Tôn Quyền, phía bắc đánh Tào Tháo, lần lượt chiếm được Kinh Châu và Ích Châu, lập nên chính quyền Thục Hán, hình thành ba nước thế chân vạc Ngụy, Thục, Ngô.

Trước khi qua đời, Gia Cát Lượng đã viết cho hậu chủ Lưu Thiền tờ "Xuất sư biểu" trong có đoạn viết: "Tiên đế đã không chê thần là kẻ thấp hèn, đã ba lần đến lều tranh mời thần v v". Qua đó đã biểu lộ được sự hoài niệm sâu sắc của Gia Cát Lượng đối với ân chi ngộ của Lưu Bị, tình cảm hết sức chân thành và rung động lòng người.

________________________________________

Như thích trọng phụ

 

 

Chữ "Thích" ở đây là chỉ trút bỏ, còn chữ "Phụ" là chỉ gánh nặng.

Câu thành ngữ này có ý là trút bỏ gánh nặng. Thường dùng để ví về người cảm thấy nhẹ nhàng thoải mái sau khi đã trút bỏ gánh nặng.

Câu thành ngữ này có xuất xứ từ "Truyện Cốc Lương-Chiêu Công nhị thập cửu niên.

Năm 542 trước công nguyên, Lỗ Tương Công lâm bệnh rồi mất, công tử Trù lên nối ngôi, tức Lỗ Chiêu Công. Nhưng Lỗ Chiêu Công chỉ là bù nhìn, mọi quyền hành đều nằm trong tay Quý Tôn Túc, Thúc Tôn Báo và Mạnh Tôn. Lâu ngày rồi Lỗ Chiêu Công mới phát hiện quyền lực của ba người này mỗi ngày một lớn mạnh, đã tạo thành mối uy hiếp to lớn đối với mình, bèn ngấm ngầm liên lạc các đại thần, tìm cơ hội diệt trừ ba người này. Sau khi Quý Tôn Túc mất, Quý Tôn Ý Như tiếp tục chấp chính. Hai vị đại phu là Hậu Tôn và Tạng Tôn có mâu thuẫn với Quý Tôn Ý Như, vốn định diệt trừ dòng họ Quý Thị. Điều này chính hợp với ý của Lỗ Chiêu Công. Mùa thu năm đó, Thúc Tôn Báo có việc rời khỏi đô thành, mọi việc trong phủ đều giao cho quản gia coi giữ. Lỗ Chiêu Công thấy cơ hội đã đến, cho rằng sẽ không có ai ủng hộ dòng họ Quý Tôn, bèn ra lệnh cho Hậu Tôn và Tạng Tôn dẫn quân bao vây phủ đệ của dòng họ Quý Tôn, giết chết Quý Tôn Ý Như. Người quản gia của Thúc Tôn Báo biết được việc này, cho rằng Lỗ Chiêu Công sau khi diệt xong dòng họ Quý Tôn, thì tất chĩa mũi nhọn vào dòng họ Thúc Tôn, tức thì bèn triệu tập binh mã kéo sang cứu giúp dòng họ Quý Tôn. Quân lính của Lỗ Chiêu Công cơ bản không có sức chiến đấu, khi thấy quân của dòng họ Thúc Tôn kéo đến, liền bỏ chạy tán loạn. Bấy giờ, Mạnh Tôn cũng cử quân sang ứng cứu, trên đường vừa vặn gặp Hậu Tôn đang chạy trốn, liền bắt lấy rồi giết chết. Lỗ Chiêu Công buộc phải cùng Tạng Tôn bỏ chạy sang nước Tề. Do Lỗ Chiêu Công đã làm mất lòng dân, nên không được dân ủng hộ, ngược lại đã giảm được gánh nặng cho dân.

________________________________________

Nhân ngôn khả úy

 

 

Ý của câu thành ngữ này là chỉ lời gièm pha của thiên hạ thật đáng sợ.

Câu thành ngữ này có xuất xứ từ "Kinh Thi -Trịnh Phong-Tướng Trọng Tử".

Thời xưa, có một chàng trai tên là Trọng Tử, chàng say mê một cô gái và muốn tìm cách hẹn hò với nàng, nhưng khốn nỗi cuộc tình duyên này không được cha mẹ nàng đồng ý, vì lo bị cha mẹ mắng nhiếc, nên nàng khuyên người yêu chớ nên làm như vậy. Tức thì nàng hát rằng: "Này chàng Trọng Tử ơi, em xin chàng chớ có leo lên cửa lầu nhà em, chớ có leo gẫy cành Kỷ Tử em trồng. Đây chẳng phải vì em không nỡ, cũng chỉ lo cha mẹ nói mãi không thôi. Kỳ thực em cũng rất nhớ chàng, cũng chỉ vì sợ cha mẹ mắng nhiếc mà thôi. "

Cô nàng lại lo mọi người biết việc này sẽ bới móc mình, lại hát rằng: "Này chàng Trọng Tử ơi, em xin chàng chớ có leo lên tường vây nhà em, chớ leo gẫy càng dâu em trồng. Đây chẳng phải vì em không nỡ, cũng chỉ vì miệng đời khó lấp. Kỳ thực em cũng rất nhớ chàng, cũng chỉ sợ người đời lắm kẻ gièm pha. "

________________________________________

Quần sách quần lực

 

 

Câu thành ngữ này có nghĩa là mọi người cùng nghĩ cách, cùng gắng sức.

Câu thành ngữ này có xuất xứ từ "Pháp Ngôn-Trọng Lê".

Dương Hùng là nhà văn và nhà triết học nổi tiếng thời Tây Hán, ông giỏi về văn chương, nhất là về mặt từ vựng, được tất cả cả mọi người khen ngợi. Về sau, ông chuyển sang nghiên cứu triết học, cũng đạt được thành tích xuất sắc. ông đã mô phỏng hình thức "Luận ngữ" của Khổng Tử, viết ra quyển "Pháp Ngôn". Trong đó bài " Pháp Ngôn- Trọng Lê" đã thuật lại đoạn lịch sử nổi tiếng về cuộc giành giật giữa Hán vương Lưu Bang và Tây Sở bá vương Hạng Vũ.

Trong cuộc chiến tranh giữa Sở Hán, Tây Sở bá vương Hạng Vũ có binh lực tương đối hùng mạnh, nhưng lại bị Hán vương Lưu Bang có thực lực tương đối yếu bao vây tại Các Hạ. Hạng Vũ liều chết thoát khỏi vòng vây, khi chạy tới bờ sông Ô Giang, thì bên mình chỉ còn lại có 28 kỵ binh, mà phía sau là hàng nghìn hàng vạn quân Hán đang đuổi sát đến nơi. Hạng Vũ biết mình không thể nào chạy thoát, liền ngửa mặt than rằng: "Đây là ông trời muốn diệt ta", rồi rút kiếm tự sát.

Dương Hùng phản đối Hạng Vũ lấy nguyên nhân thất bại của mình đổ tội cho ông trời. Trong "Pháp Ngôn-Trọng Lê", ông đã bày tỏ quan điểm của mình như sau: "Hán vương Lưu Bang rất giỏi tiếp thu sách lược của mọi người, chính những sách lược này đã khiến lực lượng của ông thêm lớn mạnh. Còn Hạng vũ thì sao, ông ta không chịu tiếp thu ý kiến của người khác, chỉ biết dựa vào sự dũng mãnh thô mãng của mình. Ai giỏi tiếp thu kế sách của mọi người thì tất thắng lợi, còn nếu chỉ dựa vào sự dũng mãnh của cá nhân thôi thì tất bị thất bại. Đây không liên quan gì tới ông trời cả. Sự cảm thán của Hạng Vũ kỳ thực là một điều sai lầm".

________________________________________

Khuyển nha giao thố

 

 

Nguyên ý là chỉ răng chó mọc cao thấp không đều nhau. Nay thường dùng để ví về sự việc rắc rối, đan xen phức tạp.

Câu thành ngữ này có xuất xứ từ "Hán Thư-Truyện Trung Sơn Tĩnh Vương".

Sau khi Hán cao tổ Lưu Bang thành lập chính quyền Tây Hán, nhằm củng cố ách thống trị của gia tộc họ Lưu, Lưu Bang đã phong rất nhiều con cái họ Lưu làm Vương. Nhưng đến thời Hán Cảnh Đế, thì thế lực của các Vương họ Lưu mới dần dần lớn mạnh. Họ mỗi người cát cứ một phương, giữ thế ngang hàng với triều đình. Trong đó có 7 vương chư hầu cùng liên hợp lại, mượn danh "Thanh Quân Tắc", phát động vũ trang phiến loạn, may mà Hán Cảnh Đế kịp thời điều binh trấn áp, mới dẹp yên được cuộc phiến loạn này. Nhưng Hán Cảnh Đế không rút được bài học của "Thất vương chi loạn", lại phong cho 13 con trai của mình làm vương chư hầu. Đến thời Hán Võ Đế thì thế lực của các vương chư hầu càng thêm bành trướng. Hán Võ Đế bèn quyết định tiêu giảm quyền lực của họ. Các vương được tin liền vội vàng đến xin với Hán Võ Đế rằng "Tân hoàng thượng, chúng tôi và Hoàng Thượng đều là anh em ruột thịt. Tiên đế đã chia phong nhiều ruộng đất cho chúng tôi, những ruộng đất này khác nào răng chó đan xen mắc cài nhau, liền thành một dải. Tiên đế những mong qua đó để anh em chúng tôi cùng giúp đỡ và chế ước lẫn nhau, giữ gìn giang sơn bền vững của nhà họ Lưu. Nếu hoàng thượng thu lại đất đã phong cho chúng tôi, như vậy há chẳng phải đi ngược với ý nguyện của tiên đế sao?".

Hán Võ Đế nghe xong, nét mặt chỉ lộ vẻ khoan dung, nhưng sau đó vẫn lệnh cho các vương chư hầu chia đất cho các đệ tử của mình. Do đó, những nước chư hầu lớn đã bị chia thành nhiều nước nhỏ, quyền lực bị phân chia, không còn là mối đe dọa đối với tập đoàn thống trị của chính quyền trung ương nữa.

________________________________________

Cầu chi bất đắc

 

 

Ý của câu thành ngữ này là chỉ niềm mong muốn, nhưng không sao đạt được. cũng có khi dùng để ví về có nguyện vọng như thế, rồi cuối cùng được thực hiện.

Câu thành ngữ này có xuất xứ từ "Kinh Thi-Quốc Phong-Quan Tuy".

Trong "Kinh Thi " có một truyện kể như sau: Có một thiếu nữ xinh đẹp đang hái rau hình bên bờ suối. Một chàng trai trẻ đi qua nhìn thấy nàng bỗng nảy sinh lòng ái mộ. Nét mặt thanh tú và vóc người thon thả của nàng luôn luôn xuất hiện trong giấc mơ của chàng. Nhưng đến khi theo đuổi nàng thì gặp điều trắc trở, chàng trai vô cùng đau khổ, ăn không ngon, ngủ không yên, ngày đêm chỉ tơ tưởng tới cảnh tượng tốt đẹp sau khi cưới được nàng. Bài thơ "Quan Tuy" đã miêu tả về cuộc tình duyên này: Con Cuốc kêu cuốc cuốc, bên bờ suối có một cô nàng rất xinh đẹp, nàng là người bạn đời lý tưởng trong lòng chàng trai. Rau hình mọc cao thấp trên mặt nước, cô nàng thuận theo dòng nước thoăn thoắt hái rau. Ơi người thiếu nữ bóng hình tha thướt, chàng không quản ngày đêm nhớ nhung nàng. Đeo đuổi nàng không kết quả gì, chàng nhắm mắt mở mắt đều nhớ đến nàng. Đêm dài dằng dặc, tương tư không dứt, trăn trở trên giường không sao chợp mắt. Rau hình mọc cao thấp trên mặt nước, cô nàng thuận theo dòng nước thoăn thoắt hái rau. Ơi cô nàng bóng hình tha thướt, anh sẽ gẩy đàn đánh trống rước nàng về thành đôi lứa.

________________________________________

Khiết nhi bất xá

 

 

Chữ "Khiết" ở đây là chỉ dùng dao khắc. Còn chữ "Xá" là chỉ ngừng lại.

Câu thành ngữ này có ý chỉ dùng dao khắc mãi không thôi.

Câu thành ngữ này có xuất xứ từ "Tuân Tử-Khuyến học".

Tuân Tử còn gọi là Tuân Huống, người nước Triệu cuối thời Chiến Quốc, là nhà triết học và nhà giáo dục nổi tiếng thời cổ TQ. Về mặt tư tưởng triết học, ông cho rằng phát triển tự nhiên có quy luật khách quan của nó; Phản đối mệnh trời, không mê tín quỷ thần, con người nhất định thắng trời; Ông còn chủ trương tùy nơi và tùy lúc thích hợp, phát huy đầy đủ tài năng của con người, xúc tiến vạn vật phát triển. Còn về mặt giáo dục, ông đã viết một bài văn rất nổi tiếng tiêu đề "Khuyến Học", trong đó đã trình bày rõ ràng tư tưởng giáo dục của mình.

Trong "Khuyến Học" đã ký thuật lại rất nhiều lý luận về mặt giáo dục và học tập của ông, có ảnh hưởng rất sâu sắc đối với người đời sau. Ông cho rằng, tiếp thụ giáo dục và cố gắng học tập là điều tất yếu, học sinh vượt trội hơn thầy, người đời sau giỏi hơn người đời trước, học tập kiến thức là cả một quá trình tích ít thành nhiều, góp nhặt ngày tháng, học thức yuên bác là sự tích lũy từng ly từng tí. Đó chính là "Bất tích khui bộ, vô dĩ trí thiên lý. Bất tích tiểu lưu, vô dĩ thành giang hải". Đây có nghĩa là không tích từng bước đi, thì khó mà đi được ngàn dặm, không tích từng dòng chảy nhỏ, thì không thể nào trở thành sông biển.

Trong "Khuyến Học" của ông có đoạn viết: "Nếu không kiên trì học tập, thì ngay đến gỗ mục cũng khoét không nổi. Bằng như kiên trì khoét xuống thì có là hòn đá cũng sẽ khoét thủng. Do đó, khi mọi người học tập phải nhất định kiên trì không mệt mỏi, như vậy tất sẽ thành công"

________________________________________

Thiên biến vạn hóa

 

 

Câu thành ngữ này có xuất xứ từ "Liệt Tử-Thang Vấn".

Khi Chu Mục Vương đi thị sát ở miền tây gặp một người thợ rất tài ba tên là Yển Sư. Nhà vua hỏi ông ta rằng: "Ta nghe nói ông rất khéo tay, vậy ông biết làm những gì?" Yển Sư đáp: "Bệ hạ muốn tôi làm gì thì tôi làm việc ấy. Nay tôi đã làm được một vật, ngày mai xin đưa đến cho bệ hạ xem".

Ngày hôm sau, Yển Sư dẫn một người đến ra mắt nhà vua, nhà vua hỏi người đó là ai? Yển Sư đáp rằng: "Đây là người có tài ca múa do tôi chế tạo ra". Nhà vua nghe vậy vô cùng kinh ngạc, vì nhìn mãi mà cũng chẳng nhận ra đó là người giả, bèn lệnh cho Yển Sư diễn giải xem sao. Yển Sư liền đến gần ấn vào cằm người nộm một cái, tức thì nó hát lên lời ca nghe thật du dương trầm bổng, Yển Sư lại ấn vào cánh tay nó một cái, thì nó liền nhảy múa nhịp nhàng theo lời hát, trông thật đẹp mắt. Sau khi biểu diễn kết thúc, Chu Mục Vương liền bảo Yển Sư tháo người nộm ra xem. Khi tháo ra thì thấy bên trong có bì, nhựa cây, sơn , và các cơ quan nội tạng được làm bằng nguyên liệu màu như: gan, mật, tim, phổi, thận, vị, ruột v v. Có đầy đủ gân mạch, xương, tóc, da, răng. Sau đó, Yển Sư lại lắp ghép lại, nó lại trở thành " người" có thể cử động được theo ý muốn.

Chu Mục Công lệnh cho Yển Sư tháo bỏ tim, thì nó không nói năng được. Tháo bỏ gan thì nó không còn nhìn thất gì nữa. Tháo bỏ thận thì nó không đi lại được. Chu Mục Vương thấy vậy sửng sốt thốt lên rằng: "Ôi, con người quả thật là khéo léo, hầu như có thể sánh với thiên đế đã sáng tạo ra muôn vật, thực là thiên biến vạn hóa". Câu nói "Thiên biến vạn hóa" từ đó được lưu chuyền lại, dùng để ví về sự vật biến hóa khôn lường.

________________________________________

Tiền cự hậu cung

 

 

Chữ "Cự" có nghĩa là ngạo mạn. Ý của câu thành ngữ này là chỉ khi trước rất ngạo mạn, sau trở nên cung thuận. Thường dùng để ví về thái độ trước sau khác nhau một trời một vực.

Câu thành ngữ này có xuất xứ từ"Chiến Quốc Sách-Tần Sách".

Thời Chiến Quốc, có một nhà chính trị nổi tiếng tên là Tô Tần.

Khi Tô Tần còn chưa thành danh thì ông đã từng đi du thuyết nhiều năm, nhưng cũng chẳng làm nên trò trống gì. Cha, mẹ, anh, chị dâu, thậm trí ngay đến vợ ông cũng chê ông chẳng có tài cán gì, mọi người đều coi khinh ông, nhất là người chị dâu, ngày nào cũng trợn mắt mắng ông suốt ngày chỉ biết lêu lổng, không làm được việc gì nên hồn, rồi còn nói suốt đời ông đừng có mà mong có ngày mở mày mở mặt.

Tô Tần vô cùng phẫn uất, liền bắt đầu cố gắng học tập, ông bái Quỷ Cốc Tử làm thầy để học thuật "Tung Hoành", cuối cùng ông đã thành công bởi du thuyết thuật "Hợp Tung", được vua Yến Văn Công phong làm tể tướng, về sau còn được Triệu Tiêu Hầu trọng dụng cũng được đeo ấn tể tướng. Ông còn thừa lệnh liên hợp với bốn nước khác, để cùng nhau đối phó với nước Tần một quốc gia lớn mạnh.

Khi ông trên đường đi nước Sở ngang qua Lạc Dương, cha mẹ ông được tin, bèn quét dọn sân nhà rồi làm tiệc, sau đó ra ngoài 30 dặm để nghênh đón. Người vợ và anh em của ông đều không dám ngẩng mặt nhìn ông. Còn bà chị dâu thì phục dưới đất lậy bốn lậy để xin lỗi Tô Tần.

Tô Tần cười nói với chị dâu rằng: "Này chị dâu, trước kia chị ngạo mạn là thế, sao bây giờ lại quá khiêm nhường như vậy?

Người chị dâu vừa sợ vừa xấu hổ nói: "Bấy giờ địa vị chú nào cao như hiện nay, tiền của nhiều rồi mà".

Tô Tần nghe xong than rằng: "Tô Tần tôi vẫn là Tô Tần, khi giàu có lên thì họ hàng đều sợ tôi, khi nghèo túng thì cha mẹ cũng chẳng nhận tôi làm con nữa, trên đời người với người đối xử tốt với nhau không phân biệt sang hèn thực là quá ít".

Hội Khoa Học Lịch Sử Bình Dương


Một nét Bình Dương Một nét Bình Dương Một nét Bình Dương Một nét Bình Dương Một nét Bình Dương Một nét Bình Dương Một nét Bình Dương
Thống kê
Lượt truy cập: 24382855