Đất, Người Bình Dương

Nghệ thuật múa bóng rỗi ở Bình Dương trong không gian văn hoá Nam Bộ

  • Đức Thanh Ngọc
  • 25/07/2012

Kính thưa các độc giả của Tập san KHLS Bình Dương, cùng giới mộ điệu nghệ thuật múa bóng rỗi. Qủa thực, nếu ai đó có may mắn được một lần thưởng ngoạn những tiết mục múa bóng rỗi, ắt hẳn khó có thể quên được cái không khí liêng thiêng, những điệu nhạc huyền bí, những động tác múa điêu luyện pha lẫn những món nghề tạp kỹ khiến người xem không ngớt phải xuýt xoa. Tuy vậy, không nhiều người trong chúng ta biết một cách tường tận về môn nghệ thuật đặc sắc này.

Nhân đọc một số bài nghiên cứu về nghệ thuật hầu đồng – múa bóng rỗi của các tác giả như: GS.TS Ngô Đức Thịnh, PGS.TS Nguyễn Chí Bền. TS. Hoàng Sơn, Ths. Hồ Tường, nhà nghiên cứu Huỳnh Ngọc Trảng, Huỳnh Triều, Trần Triều Quang, Nguyễn Man Nhiên, Nguyễn Từ Đồng…Cộng thêm nguồn tài liệu điền dã cá nhân tại tỉnh Bình Dương, chúng tôi xin đề cập một số đặc điểm của nghệ thuật múa bóng rỗi để những ai quan tâm có thêm một vài tài liệu tham khảo, rất mong nhận được sự trao đổi, chia sẻ của các tác giả.

1.Nguồn gốc, tên gọi và các trường phái biểu diễn.

Hiện nay, vẫn còn nhiều quan điểm đối lập nhau về nguồn gốc hình thành nghệ thuật Múa bóng rỗi ởNam bộ, song nhìn chung có 3 luồng ý kiến cơ bản như sau:

Luống ý kiến thứ nhất cho rằng: nghệ thuật Múa bóng rỗi ở Nam bộ bắt nguồn từ nghi thức lên đồng của đạo mẫu Tam phủ, Tứ phủ của miền Bắc (xuất hiện muộn nhất vào thời hậu Lê thế kỷ XV), tuy có một vài điểm khác biệt song nhìn chung về cách thức không có nhiều thay đổi, đặc biệt là yếu tố nhập đồng – nhập cốt thể hiện một nét chung khó có thể lẫn lộn với một hình thức nghi lễ nào.

Luồng ý kiến thứ hai cho rằng: nghệ thuật Múa bóng rỗi ở Nam bộ là một môn nghệ thuật hoàn toàn mới, nó khác lên đồng ở Bắc bộ từ bản chất lẫn hình thức thể hiện. Nhóm này cho rằng, múa bóng rỗi đã thoát khỏi những yếu tố thần linh (như nhập đồng, phán truyền…) nó chỉ đơn thuần là nghi thức dâng lễ vật trong việc thờ cúng Mẫu thần và các trò tạp kỹ nhằm mục đích phục vụ mua vui.

Luồng ý kiến thứ ba cho rằng: Múa bóng rỗi là một nghi thức quan trọng trong nghi lễ thờ Nữ thần, Mẫu thần của đạo Mẫu xuất phát từ Bắc bộ song đã có quá trình giao lưu và tiếp biến văn hóa với phức hệ văn hóa phía Nam gồm cả văn hóa Chăm (miền Trung), văn hóa người Hoa và văn hóa người Khmer (Nam bộ). Đây là luồng ý kiến nhận được nhiều sự đồng tình trong giới nghiên cứu và có sự ảnh hưởng nhất định về nhận thức của nghệ thuật Múa bóng rỗi nói chung.

Tóm lại, có thể nhận thấy cả 3 luồng ý kiến trên đều có một điểm chung nổi bật là: Múa bóng rỗi xuất phát từ nghi thức thờ cúng Mẫu thần, một tín ngưỡng xuất hiện rộng khắp cả vùng Đông Nam Á (bao gồm cả phần Nam Trung Hoa) nói chung và những vùng miền Việt Nam nói riêng. Với những tộc người khác nhau, việc thờ cùng Nữ thần, Mẫu thần cũng có những điểm khác nhau tương ứng. Sự khác biệt đó thể hiện từ đối tượng được thờ cúng (các bà chúa, bà mụ, nữ thần…) đến các hình thức thực hành nghi lễ mà trong đó Múa bóng rỗi là một nghi thức tiêu biểu của người dân Nam bộ.

Về tên gọi “Múa bóng rỗi” hay còn có một số tên khác như hát bóng rỗi, múa bóng rôi (Theo GS.TS Ngô Đức Thịnh), đây là cách gọi ghép, kết hợp giữa hai hình thức biểu diễn là hát rỗi và múa bóng:

-Hát rỗi: thường diễn ra trước, có ý nghĩa mời chầu, mời các Nữ thần, Mẫu thần về ngự và dự nghi lễ cúng miễu. Chính vì ý nghĩa đó mà nó còn được gọi là hát thỉnh, hát mời chầu. Tùy vào các cô bóng, cậu bóng mà có cách “rỗi” khác nhau: có thể là rỗi theo tuồng tích hoặc chỉ là những điệu thức riêng biệt.

-Múa bóng: Thuật ngữ này có nhiều cách hiểu khác nhau trong dân gian. Cách hiểu phổ quát nhất là múa dâng bông, có thể “múa bóng” là tiếng đọc trại từ múa bông, múa dâng bông. Đây là một điệu thức múa đặc trưng nhất có mặt hầu khắp các nghi thức của Đạo Mẫu nói chung như lên đồng (Bắc bộ), Múa bóng rỗi (Nam bộ), nghi thức cúng thần Pô Inư Nưgar của người Chăm, nghi thức thờ bà chúa Xứ của người Khmer. Múa tạp kỹ chỉ mới xuất hiện sau này và thường chỉ nhằm phục vụ người xem là chính.

Cách hiểu thứ hai về khái niệm “múa bóng” gắn liền với giới tính người thực hiện (cô bóng, cậu bóng). Những năm gần đây, những người múa bóng rỗi ở Nam bộ thường là những người “pêđê”, những người có xu thế hướng nữ từ tính cách, ăn mặc đến những cử chỉ nói năng. Và, những xu thế đó chúng ta vẫn thường gọi là bị “bóng”. Và cũng có thể xuất phát từ lối tính cách này mà người ta gọi múa của những người “pêđê” là múa bóng.

Cách hiểu thứ ba xuất phát từ việc “nhập đồng” của các ông đồng, bà bóng nói chung. Múa bóng – múa đồng bóng là một trạng thái “thăng hoa” khi các “giá đồng” (các bà mẫu, bà chúa, các nữ thần) nhập hồn (nhập bóng) vào thể xác của người hầu đồng để phán truyền hay biểu diễn các điệu múa. Ở hình thức lên đồng ở Bắc bộ, khi nhập động, bà đồng có những biểu hiện rất rõ nét, thường là lắc lư quay cuồng, cười, nói (có khi cả nói tục), nôn, mửa… nhập vào giá nào thì có những biểu hiện như nhân vật giá đồng đó. Các nhân vật nhập đồng dường như không còn là chính mình mà là một người khác hoàn toàn, chính vì điều này mà người ta nói múa đồng bóng – múa bóng được hiểu là những giá đồng (ví dụ: Bà chúa Ngọc, Bà Chúa, Bà Hoả Tinh, Bà Thuỷ Long, Bà chúa Tiên, Bà chúa Ngọc, Bà chúa Xứ, Bà chúa Động…) đang hiển linh và thực hiện nghi thức chứ không phải là các ông đồng, bà bóng đang thực hiện.

            Về các trường phái biểu diễn múa bóng rỗi, trong bài viết “Về hai hình thức hầu đồng trong tín ngưỡng thờ Mẫu ở Nam bộ” của 2 tác giả PGS TS Nguyễn Chí Bền và Ths Hồ Văn Tường[2] đã đưa ra nhận định: “Phần nghi lễ liên quan nhiều hơn cả đến việc hầu đồng chính là hát bóng rỗi…”điều đó có nghĩa là hát bóng rỗi (hay múa bóng rỗi) là phần quan trọng nhất của nghi thức hầu đồng. Các tác giả Huỳnh Ngọc Trảng, Trần Tịnh Của cũng đồng quan điểm như vậy.

            Tuy nhiên, vấn đề chúng ta đang cần đề cập ở đây là từ hai hình thức thờ Mẫu khác nhau thì cho ra đời hai nghi thức hầu đồng riêng biệt. Và, từ hai nghi thức hầu đồng riêng tạo nên 2 trường phái múa bóng rỗi tồn tại khác nhau tại Nam bộ:

            -Trường phái thứ nhất: được truyền vào Nam bộ do những di dân miền Bắc và miền Trung vào miền Namdưới thời Chúa Nguyễn và Triều Nguyễn. Những người Việt thường trú chân ở miền Trung một thời gian khá dài trước khi tiếp tục tiến vào Nam chính vì vậy tín ngưỡng thờ mẫu có sự giao lưu, tiếp biến với nhiều hệ thống tín ngưỡng của các tộc người khác. Và, nó đã có nhiều sự biến đổi.

            -Trường phái thứ hai: được đem nguyên vẹn từ Bắc vào Nam dười thời Pháp thuộc và những cuộc di dân lớn sau đó (1954, 1975). Đặc điểm của trường phái này là tính “phục nguyên” một loại hình tín ngưỡng cũ nơi một mảnh đất mới. Giữa hai trường phái này có những điểm khác biệt từ trang phục, dấu hiệu nhập đồng, cách truyền phán, các điệu múa và cách phân phát lộc…

Tại Bình Dương đã từng tồn tại cả hai trường phái nói trên, song hiện nay chỉ có trường phái thứ nhất là còn thường xuyên hoạt động. Các di tích gắn liền với Múa bóng rỗi ở Bình Dương gồm có: 57 miễu thờ Ngũ hành nương ngương (tập trung ở huyện Tân Uyên: 34 miễu, huyện Thuận An: 20 miễu), (Theo số liệu điều tra không chính thức của Phòng Di sản văn hóa – Bảo tàng Bình Dương hiện nay lên tới 136 miễu), Chúa Xứ Thánh Mẫu (với hai tên gọi khác nữa: Ngung Man nương, chúa Tiên nương nương) có 47 miếu thờ (huyện Tân Uyên có 22 ngôi miễu thờ, huyện Bến Cát 8 ngôi, huyện Thuận An 8 ngôi, thị xã Thủ Dầu Một 8 ngôi miếu thờ).

Toàn tỉnh Bình Dương, có 7 cơ sở tín ngưỡng gắn bó với tín ngưỡng thờ Mẫu. Đó là đền Đức Thánh Trần Hưng Đạo (áp 2A, xã Phước Hoà, huyện Tân Uyên), phủ Minh Sơn (xã Minh Hoà, huyện Bến Cát) thờ Đức Thánh Trần, Sơn Lâm Thánh Mẫu, Liễu Hạnh Thánh Mẫu và phối tự thờ thành hoàng, Hoa Nghiêm Tự (ở khu 4, thị trấn Dầu Tiếng), thờ Đức Thánh Trần, chùa Sơn Lâm, Thánh Mẫu công chúa và phối tự thờ Adiđà; Đông Quân linh tự (khu 2 thị trấn Dầu Tiếng) thờ Đức Thánh Trần Hưng Đạo, nhị vị vương quan, Tam Toà Thánh Mẫu, Cô, Cậu, cùng với thờ Adiđà; Phủ Ứng Linh (khu 3, thị trấn Dầu Tiếng) thờ Đức Thánh Trần hưng Đạo và Liễu Hạnh công chúa; Đền Thánh Mẫu (ấp Lai Khê, xã Lai Hưng, huyện Bến Cát) thờ Liễu Hạnh công chúa, Đức Thánh Trần Hưng Đạo, Sơn Lâm Thánh Mẫu, thờ Ngũ Hành nương nương, Ngũ Hổ, trong khuôn viên còn có am Cô Bơ và Cậu Bé.

 

2.Diễn tiến và bản chất Múa bóng rỗi trong nghi lễ cúng miễu.

Như đã có phần nói ở trên, Múa bóng rỗi chỉ là 1 phần trong nghi thức hầu đồng hay gọi dân dã là nghi thức cúng miễu. Theo nhà nghiên cứu Huỳnh Ngọc Trảng diễn tiến của một nghi thức hầu đồng gồm có 8 phần là: Lễ khai tràng, Chầu mời - thỉnh tổ, mời tiên ra tuồng, Phước lộc, Trạng – Nàng xuống huê viên, Địa – Nàng,Bóng múa, hát chặp. Tuy vậy, ngày nay hiếm có đoàn rỗi nào lại thực hiện đủ 8 phần trên mà thường một nghi lễ cúng miễu chỉ có 4 phần chính: Khai tràng, Chầu mời - thỉnh tổ, Chặp Địa - Nàng, Hát bóng rỗi. Múa bóng rỗi tại Bình Dương cũng thường chỉ có 4 phần cơ bản như trên.

Nghi thức Múa bóng rỗi được chia làm 2 phần chính: phần múa dâng lễ và múa tạp kỹ (hay múa biểu diễn).

 

 

-Múa dâng lễ thường gồm các điệu: múa dâng bông (cúc, huệ), múa dâng mâm (mâm vàng hình tháp, mâm lộc trầu cau). Phần này thường mang nặng tính chất nghi lễ. Múa dâng lễ thông qua những động tác tạo hình biểu hiện sự kính dâng lễ vật lên thần linh. Đây là phần lúc nào cũng được mọi người quan tâm chờ đón. Một số bà bóng chịu khó tập luyện nên trình diễn những động tác múa khá điêu luyện, khéo léo như làm xiếc, khiến người xem lúc nào cũng hồi hộp, tò mò chờ đợi. Mọi người chờ đợi phần múa này còn có một nguyên do khác là để xin lộc bà (hoặc mua), lộc có thể là một nhánh huệ, một quả cau, một lá trầu…

-Múa tạp kỹ thường gồm các tiết mục như múa lu – khạp, múa dao, múa ghế…phần này thường nặng tính biểu diễn hơn là nghi lễ, mục đích chính là “…hầu bà, làm cho bà vui” (Theo Gia Định Thành Thông Chí – Trịnh Hoài Đức). Do phần luyện tập và biểu diễn các tiết mục tạp kỹ thường rất tốn sức và nguy hiểm cho nên khán giả thưởng ngoạn thường “thưởng” cho các cô bóng, cậu bóng một khoản tiền bồi dưỡng, động viên. Và, chính tiền lệ này đã gây ra không ít hệ lụy cho hình thức nghệ thuật này.

 

Về bản chất của nghệ thuật Múa bóng rỗi, có thể nói Múa bóng rỗi gắn liền với tục thờ nữ thần của nhân dân Nam Bộ, người dân Nam bộ còn gắn biểu tượng này cho những nữ nhân vật có công với nhân dân. Hình tượng của các bà còn chứa đựng sự khẳng định vươn lên và giải phóng người phụ nữ trong xã hội phong kiến vốn bị coi là thấp kém. Còn theo nhà ngoại cảm, “cô bóng” Nguyễn Thị Hằng thì “…hầu đồng là để biết ơn các vua chúa ngày xưa, các anh hùng đã có công với dân tộc, các bà thượng ngàn chuyên làm điều thiện…và mình phải biết ơn, phải ca tụng”. Nhiều miễu thờ bà còn thờ di ảnh của Chủ tịch Hồ Chí Minh ở vị trí trang trọng nhất.

Múa bóng rỗi không hẳn đã thoát khỏi yếu tố thần linh một cách hoàn toàn: bên cạnh trường phái thứ 2 (di cư vào nam từ sau năm 1954) được xem là có sự phục nguyên của nghi thức lên đồng Bắc bộ. Trường phái thứ nhất vốn được xem là có nhiều sự biến đổi, đặc biệt từ “bản chất phán truyền” của hầu đồng Bắc bộ sang hình thức “dâng lễ, ca tụng, cầu xin” của bóng rỗi Nam bộ là một bước tiến lớn. Và, có nhiều học giả xem đó là một sự ra đời, một sự biến đổi hoàn toàn. Nhưng, ở đâu đó trong nghi thức múa bóng rỗi Nam bộ vẫn còn chứa đựng lớp tàn dư của lớp nghệ thuật trước, ví dụ như trong việc phát lộc: Cả ông Địa (trong chặp Địa – Nàng), và cô bóng ( trong Múa bóng rỗi) đều sử dụng yếu tố thần linh, làm phép (giải hạn, chữa bệnh…bằng vẩy nước) hay làm chước (lấy hoa huệ đã được làm phép về nấu nước tắm, hay cúng cho chùa bằng dầu hỏa, lập bàn thờ địa…vv), các ông đồng, bà bóng đều lấy danh nghĩa các giá đồng (Mẫu thần, Nữ thần) để thực hiện những nghi lễ này.

 

3.Nghệ thuật Múa bóng rỗi ở Bình Dương trong không gian văn hóa Nam bộ.

Có lẽ không chỉ ở Bình Dương mà ở khắp Nam bộ, Múa bóng rỗi đã và đang chịu nhiều sự phán xét, nhiều cách nhìn, nhiều cách suy nghĩ khác nhau từ cả những người làm quản lý văn hóa đến một bộ phận dân chúng. Người ta vẫn cho rằng: múa bóng rỗi là mê tín dị đoan, là lợi dụng tín ngưỡng để thu lợi…nhiều năm trước loại hình nghệ thuật dân gian này đã bị cấm thực hiện. Mấy năm gần đây, xu thế bảo tồn và phát huy di sản văn hóa dân tộc đang lên cao vì vậy múa bóng rỗi mới có đủ điều kiện để hoạt động trở lại.

Trong bài viết này người viết xin không bàn luận gì thêm về cách quản lý và bảo tồn văn hóa của chúng ta. Song, yếu tố “…là mê tín dị đoan, là lợi dụng tín ngưỡng để thu lợi…” thì chúng ta cần phải làm rõ chủ thể của từng hành động.

Trước hết, chúng ta cần phải phân định rạch ròi 2 đối tượng: di sản văn hóa và người thực hiện di sản (là cá nhân hoặc cộng đồng). Trong trường hợp này múa bóng rỗi là di sản văn hóa chúng ta đang nói đến, còn đối tượng thực hiện di sản chính là ông đồng, bà bóng. Và, chính ông đồng, bà bóng mới là người quyết định đem múa bóng rỗi ra để thực hiện mục đích gì? Trong đó ít nhiều có hiện tượng bói toán, bán bông, ban lộc, bán ngọc bà…vv

Rõ ràng múa bóng rỗi với tư cách là một di sản văn hóa không mang bất kỳ một yếu tố mê tín hay vụ lợi nào. Nó đơn thuần là một hành vi tín ngưỡng trong sáng, có tính nhân văn (đề cao và biết ơn người phụ nữ, người có công với nhân dân), có tính giáo dục (khuyên nhủ mọi người hướng về cội nguồn, làm nhiều việc thiện), chỉ có sự vụ lợi cá nhân mới làm vẩn đục đi lớp nghĩa trong sáng đó. Nhiệm vụ của các nhà quản lý văn hóa là phải uốn nắn hành vi không đúng của người thực hiện văn hóa chứ không phải cấm đoán di sản văn hóa đó không được phép hoạt động.

Phải có mặt tại một lễ cúng miễu mới thấy bà con háo hức chờ đợi đến tiết mục múa bóng rỗi như thế nào. Đó có thể là tâm trạng háo hức chờ đợi chút lộc bà ban, cũng có thể là giây phút giải bày những lo toan bấy lâu dồn nén, hay chỉ đơn thuần là ngóng chờ những tiết mục múa tạp kỹ công phu – điêu luyện mà họ chưa có cơ hội vào rạp xiếc…

Thật sự, cũng không cần phải quá tinh ý mới nhận thấy rằng: Hội khai ấn đền Trần mỗi năm đều tổ chức rầm rộ với hàng trăm nghìn người tham gia, có 15 đến 20 điểm “bán” ấn với giá cả được quy định rõ ràng, người dân phải sắp hàng từ lúc nửa đêm - chen lấn – dẫm đạp lên nhau tranh mua cho được tờ ấn với niềm tin sẽ nhanh chóng thăng quan, tiến chức, ăn nên làm ra thì không sao ! trong khi đó múa bóng rỗi ở Nam bộ người dân xin bà phù hộ, thỉnh lộc bà với vài ba ngìn tùy lòng hảo tâm thì lại được cho là mê tín. Hay, các quan anh, liền chị của nghệ thuật quan họ miền kinh Bắc ở ao nào, hội nào cũng ngửa nón quai thao xin tiền du khách, báo chí, đài mạng dù có phản ảnh liên tục song cũng chẳng thay đổi được gì, trong khi đó ở múa bóng rỗi miền Nam, những tiết mục múa tạp kỹ phải bỏ nhiều công sức luyện tập, có tính nguy hiểm và hấp dẫn như múa lu, múa dao, múa ghế… bà con thường tự nguyện, thấy mếm phục mà động viên ít nhiều thì lại cho là lợi dụng tín ngưỡng để thu lợi…Thực tế đang tồn tại một sự “chênh” về cách nhìn nhận và quản lý di sản văn hóa giữa các vùng miền. Và nguy hại hơn, một số di sản đang bị nhìn nhận một cách thiếu khách quan dưới sự biểu đạt méo mó của người thực hành di sản.

Trở lại vấn đề “Múa bóng rỗi trong không gian văn hóa Nam bộ”, có thể thấy khi nói đến văn hóa Nam bộ người ta vẫn thường nhắc nhiều hơn đến Đờn ca tài tử, cải lương, các điệu lý – điệu hò, cũng không quá khó hiểu vì những loài hình nghệ thuật dân gian này thể hiện rất rõ nét đặc trưng của văn hóa Nam bộ đó là sự phóng khóang, bao dung, tính bình dị - dân dã. Song khi phải đối mặt với những thử thách to lớn, những giới hạn mà bản thân không thể vượt qua thì những lời ca tiếng hát đó khó có thể đem lại niềm tin và động lực thực sự, chỉ có tôn giáo, tín ngưỡng  mới là những giá đỡ tin thần, những động lực giúp con người ta vượt qua những thử thách trong cơn tuyệt vọng. Và, đạo Mẫu là một trong những nền tảng tâm linh mà người dân vẫn thường gửi gắm. Đặc biệt, trong những đợt cúng miễu, dưới sự “hiện diện” của bà, và qua sự “kết nối” của ông địa, cô bóng, người dân có dịp cầu mong sự an lành, cầu mong cho tai qua - nạn khỏi, cuộc sống gặp nhiều may mắn, làm ăn thuận lợi trong năm…

 

Có lẽ sẽ còn rất lâu nữa Múa bóng rỗi ở Bình Dương và ở Nam bộ mới có thể lấy lại được hình ảnh và vị trí vốn có của mình. Và, cũng chưa biết khi nào nhận thức của các nhà quản lý văn hóa về múa bóng rỗi mới thay đổi. Nhưng có một điều chắc chắn rằng: Múa bóng rỗi đã, đang và sẽ tồn tại với tư cách là một nghi lễ tín ngưỡng, một hiện thực lịch sử …tồn tại hay không ? có ý nghĩa – giá trị hay không ? không phụ thuộc vào cách suy nghĩ, cách quản lý của bất kỳ tổ chức nào mà nó được khẳng định trong giá trị cộng đồng mà nó tồn tại…/…

Bình Dương, ngày 29/6/2011

Trần Đức Thuận – Tel: 0977.328.132



[1] Đức Thuận – Thanh Hòe – Ngọc Hằng  Chi đoàn Bảo tàng Bình Dương.

[2]Ths. Hồ Văn Tường tên thường gọi là Hồ Tường võ sư chân truyền của môn võ Tân Khánh – Bà Trà, người Tân Phước Khánh – Bình Dương. Hiện đang nghiên cứu và truyền bá môn võ Tân Khánh – Bà Trà tại TP. HCM

Đức Thanh Ngọc


Một nét Bình Dương Một nét Bình Dương Một nét Bình Dương Một nét Bình Dương Một nét Bình Dương Một nét Bình Dương Một nét Bình Dương
Thống kê
Lượt truy cập: 25654233