Đời sống và các cuộc đấu tranh của công nhân Nhà máy xe lửa Dĩ An dưới góc nhìn “nhận thức giai cấp”
- 26/07/2012
Sự ra đời của chi bộ Đảng ở Nhà máy xe lửa Dĩ An là một bước ngoặt lớn trong con đường nhận thức của giai cấp công nhân (CN) miền Nam, sự kiện này đánh dấu giai cấp CN đã thấm nhuần lý tưởng về cách mạng vô sản và sứ mệnh của giai cấp mình trên con đường phát triển của nhân loại. Tuy nhiên, hầu hết các bài viết về “đời sống, các cuộc đấu tranh và sự ra đời của chi bộ Đảng ở Nhà máy xe lửa Dĩ An” hầu như không đề cập đến quá trình nhận thức giai cấp, phần lớn chỉ đề cập quá trình đấu tranh là do điều kiện sống quá kham khổ. Cách đề cập này đã phần nào làm cho vấn đề mất đi những giá trị về mặt bản chất, thiếu sự cân đối trong quá trình nhận thức và làm cho người đọc không cảm nhận được giá trị ưu việt của chủ nghĩa Mác -Lênin. Chính vì vậy bài viết này chỉ mong muốn bù đắp những khiếm khuyết đã nêu trên và có thêm một góc nhìn mới để vấn đề này càng trở nên sáng tỏ, đầy đủ hơn.
Trong công cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất (1897-1914) thực dân Pháp đặc biệt chú ý tới việc xây dựng một hệ thống giao thông đường sắt để vận chuyển hàng hóa về chính quốc và đưa binh lính Pháp đến những nơi cần thiết nhằm đàn áp các cuộc đấu tranh của nhân dân ta. Khi thực dân Pháp mở tuyến đường sắt Bắc -Nam thì cũng là lúc nhiều nhà máy xe lửa đã được xây dựng, tính riêng ở khu vực miền Nam có Nhà máy xe lửa Dĩ An với nhiệm vụ phục vụ cho việc bảo trì và sửa chữa các đoàn tàu thuộc tuyến đường sắt Sài Gòn - Biên Hòa - Nha Trang, Sài Gòn - Lộc Ninh, Sài Gòn - Mỹ Tho, Tháp Chàm - Đà Lạt...
Nhà máy có tên chính thức trên văn bản hành chính là “Grand Atelier des Chemins de Fer de Di An” (Cơ xưởng lớn của ngành đường sắt tại Dĩ An). Dân địa phương và CN nơi đây quen gọi là Cơ xưởng hỏa xa Dĩ An, hoặc gọi tắt là Đề pô Dĩ An.
Tổng diện tích khu làm việc của nhà máy khoảng 4.000m2, thuộc xã An Bình (lúc đó còn là quận Thủ Đức - Gia Định), phía Đông giáp xã Tân Đông Hiệp, phía Tây giáp Khu công nghiệp Sóng Thần, phía Nam giáp xã Linh Xuân, Tam Hà (Thủ Đức), phía Bắc giáp xã An Phú và Bình Hòa, cách chợ Dĩ An khoảng 1,5km.
Nhà máy xe lửa Dĩ An ra đời cách đây khoảng 100 năm vào khoảng thập niên đầu của thế kỷ XX, bắt đầu xây dựng vào khoảng năm 1902 và chính thức đi vào hoạt động vào năm 1912. Trong khoảng 10 năm xây dựng đã có không ít người lao động phải đổ mồ hôi công sức vì đồng tiền bát gạo, vì cuộc sống quá cơ hàn họ buộc phải chấp nhận việc lao động nặng nhọc, khổ sai và họ cũng mong mỏi sau khi nhà máy hoàn thành thì họ sẽ được nhận vào làm việc trong nhà máy, nhưng mấy ai trong số họ có thể thực hiện được mong ước vì việc tuyển chọn công nhân nhà máy rất chặt chẽ, phụ thuộc vào nhiều yếu tố:
Việc tuyển chọn CN
Muốn trở thành CN nhà máy ít nhất phải đáp ứng được 2 tiêu chuẩn về sức khỏe và tay nghề.
Vì đây là nhà máy công nghiệp cho nên khi khởi công xây dựng, thực dân Pháp chỉ chọn những thanh niên khỏe mạnh, theo nhiều tài liệu cho biết thì đội ngũ những người tuyển chọn nằm trong độ tuổi từ 18 - 45 tuổi. Ngoài ra muốn trở thành CN của nhà máy, người lao động còn phải trải qua giai đoạn tuyển chọn và kiểm tra tay nghề hết sức nghiêm ngặt.
Trước hết họ phải qua cuộc thi sát hạch ở phân xưởng do một đốc công điều khiển. Tiếp đó CN phải trải qua thời gian thử việc, rồi thi tay nghề ở tổ sản xuất do cai tổ chức. Sau khi kiểm tra tay nghề cai đề nghị lên giám đốc xếp bậc lương cho CN, tùy thuộc tay nghề cao hay thấp sẽ nhận mức lương tương ứng. Nhìn chung muốn trở thành công nhân của nhà máy người CN phải có một tay nghề tương đối vững chắc.
Mặc dù ban đầu thực dân Pháp có sử dụng những CN chưa có tay nghề rồi đào tạo họ, trường dạy nghề của nhà máy mở khóa học đầu tiên vào năm 1938, do một người Pháp tên Lơ-bạc, Phó Giám đốc của nhà máy phụ trách. Thời gian học nghề là 3 năm, sau đó mỗi năm trường nhận thêm 25 học viên để đào tạo. Số học viên khi ra trường sẽ phân bố làm việc tại nhà máy. Thế nhưng số lượng CN chưa có tay nghề này là rất hạn chế, càng về sau số lượng càng ít đi.
Số lượng và công việc của công nhân nhà máy
Về số lượng công nhân của nhà máy theo các nguồn tài liệu cho biết khởi đầu nhà máy có khoảng hơn 300 CN, về sau phát triển lên tới 500 công nhân được chia thành nhiều hạng thợ khác nhau:
- Thợ chuyên nghiệp (ouvrier Spécialisé) là thợ có tay nghề và kỹ thuật cao.
- Thợ không chuyên nghiệp (ouvrier non Spécialisé).
- Thợ phụ (aide).
- Lao động phổ thông.
Về công việc của CN cũng rất khác nhau, tùy thuộc vào phân xưởng nơi mình làm việc:
Phân xưởng 1: Được phân bổ khoảng 100 CN, nhiệm vụ chính của CN nơi công xưởng này là sửa chữa đầu máy, là phân xưởng chính của nhà máy, nên đa số những người làm việc nơi đây là những người đã có tay nghề, kinh nghiệm và kỹ thuật cao.
Phân xuởng 2: Có khoảng 100 CN làm việc, công việc chính của họ là tiện, nguội, phay, bào, rèn, đúc có chức năng gia công những phụ tùng cao cấp cho phân xưởng 1 và 3.
Phân xưởng 3: Có số lượng CN làm việc ít hơn phân xưởng 1 và 3, chỉ với khoảng vài chục CN, họ chuyên sửa chữa đầu máy, sửa chữa và đóng các toa xe.
Phân xưởng 4: Cũng chỉ có vài chục CN làm việc, công việc chính của họ là chuyên chế biến đồ gỗ, làm mộc, sửa chữa, gia công, sơn những chi tiết bằng gỗ của những toa xe như khung cửa, ghế ngồi, kệ hành lý.
Việc đi lại và nơi ở của CN
Số lượng CN trong Nhà máy xe lửa Dĩ An có khoảng 70% là dân địa phương Dĩ An và các xã phụ cận nhà máy, 30% còn lại đến từ các địa phương khác như Sài Gòn, Thủ Đức, Biên Hòa.
Nhân viên và CN của nhà máy mỗi ngày đi làm hay trở về nhà đều có xe đưa rước, từ Sài Gòn, Thủ Đức nhân viên và CN nhà máy đi bằng chuyến xe lửa chở hành khách Sài Gòn - Biên Hòa, đến ga Dĩ An lúc 7 giờ sáng, sau đó cùng nhân viên và CN tại địa phương đến nhà máy bằng chuyến xe lửa dành riêng cho CN từ ga Dĩ An vào nhà máy.
CN và nhân viên vào nhà máy bằng bất cứ phương tiện nào khác đều không được chấp nhận, một khi không vào nhà máy coi như nghỉ việc không lý do và vi phạm nhiều lần sẽ bị sa thải.
Trường hợp đối với những CN ở xa mà không muốn về mỗi ngày, có thể xin nhà máy cấp nhà cho ở cùng với gia đình. Có khoảng 30 căn hộ, trong đó có 15 căn hộ đôi, dãy nhà dành cho CN ở lại này gọi là phố Tây (vì dãy nhà do giám đốc của nhà máy là người Pháp, mà nguời dân quen gọi là Tây xây dựng nên gọi là phố Tây, người miền Nam gọi phố tức chỉ nhà cho thuê để ở). Dãy nhà xây trên đất của nhà máy, nằm bên ngoài khuôn viên của nhà máy, dọc theo chân tuờng bao quanh nhà máy (gần đình Dĩ An). Chân tường bao quanh nhà máy cũng là nơi sau đó dùng để xử bắn những nguời yêu nước của Dĩ An đứng lên lật đổ ách thống trị của thực dân Pháp tại Dĩ An, có không ít người đã ngã xuống dưới chân tường Đề pô Dĩ An, xác bị vùi sâu trong lòng đất.
Về mức lương của CN nhà máy
Mức lương chính của CN Nhà máy xe lửa Dĩ An cũng rất rẻ mạt: Đối với những CN có tay nghề giỏi họ chỉ được nhận 1,5 đồng/ngày, còn đối với thợ hạng nhất được 1,2 đồng/ngày, thợ phụ chỉ được 0,8 đồng/ngày, mặc dù ngoài mức lương chính CN còn có thêm phụ cấp vợ con, nếu nhà máy cử đi công tác ở xa, họ còn có thêm phụ cấp đi đường tính theo số lượng ngày được cử đi, số ngày làm việc được tính theo chế độ 5 ngày rưỡi (CN được nghỉ chiều thứ bảy và chủ nhật), mỗi ngày làm 8 tiếng, mỗi năm CN còn được nghỉ lễ và nghỉ phép, nghỉ vì lý do đau ốm nếu có chứng nhận của bác sĩ thì đều được trả lương. Song cuộc sống của họ vẫn vô cùng khó khăn.
Nhìn chung so với tầng lớp bần, cố nông lúc bấy giờ thì CN có mức lương ổn định hơn, thế nhưng những đồng lương của CN nhà máy nhận được lúc bấy giờ cũng chỉ là những đồng lương chết đói, đời sống của CN Nhà máy xe lửa Dĩ An cũng chẳng khá hơn gì CN cả nước, họ đều bị bóc lột nặng nề, vắt kiệt sức lao động và trí óc, làm việc hết sức nặng nhọc, chính vì vậy nên phong trào đấu tranh của CN cũng diễn ra mạnh mẽ ở đây.
Phong trào đấu tranh của CN Nhà máy xe lửa Dĩ An
CN Nhà máy xe lửa Dĩ An nổi dậy đấu tranh dưới sự lãnh đạo của chi bộ dự bị đặc biệt Đề pô xe lửa Dĩ An, thành lập vào tháng 1-1930, do đồng chí Nguyễn Đức Thiệu làm Bí thư. Chi bộ giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong việc tổ chức, tập hợp, giác ngộ về ý thức giai cấp và lãnh đạo CN đứng dậy đấu tranh.
Một số cuộc đấu tranh nổi bật của CN Nhà máy xe lửa Dĩ An có thể kể đến như sau:
Hòa chung vào không khí cách mạng đang dâng cao lên trong cả nước sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (3-2-1930), phong trào đấu tranh của CN trong cả nước đã có sự chuyển biến về chất từ tự phát sang tự giác, các cuộc đấu tranh của CN diễn ra mạnh mẽ, đồng loạt trong cả nước, nêu cao các khẩu hiệu đòi tăng lương, giảm giờ làm, cải thiện đời sống, cao hơn là giành chính quyền trong cả nước. CN Nhà máy xe lửa Dĩ An với khoảng 400 CN cũng hăng hái xuống đường bãi công, biểu tình vào tháng 4-1926 nêu cao các khẩu hiệu: tăng lương từ 20 - 40%, giảm giờ làm xuống còn 8 giờ/ngày... Cuộc bãi công chỉ diễn ra trong vòng 2 ngày thì bị thực dân Pháp đàn áp và dập tắt.
Thế nhưng ngọn lửa đấu tranh của CN Nhà máy xe lửa Dĩ An vẫn bùng cháy, sau đó họ còn nổi dậy đấu tranh vào ngày 1-5-1930 kéo dài trong vòng 5 ngày cũng khiến thực dân Pháp cũng hoang mang và tìm cách đối phó. Đặc biệt hơn cả là cuộc bãi công nổ ra sau đó 2 năm vào ngày 12-7-1937, toàn bộ CN nhà máy đồng loạt nổi dậy bãi công được sự ủng hộ rất lớn của nhân dân địa phương và cũng gây ảnh hưởng nhất định tới phong tràoCN ở Nam kỳ. Cuộc bãi công kéo dài hơn 1 tháng (khoảng 33 ngày) thì bị dập tắt. Mặc dù thất bại nhưng phong trào đấu tranh của CN Nhà máy xe lửa Dĩ An đã gây được những tiếng vang nhất định trong phong trào CN cả nước, tạo ra cho Pháp nhiều thiệt hại, sau cuộc bãi công lần thứ ba các công xưởng và nhà ga đều bị đóng cửa.
Nhìn chung CN Nhà máy xe lửa Dĩ An cũng như giai cấp CN trong cả nước chính là sản phẩm của công cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của Pháp ở Đông Dương. Chính sự áp bức bóc lột của thực dân Pháp là nguyên nhân dẫn đến các phong trào đấu tranh của CN chống Pháp trên phạm vi cả nước. Giai cấp CN chính là giai cấp đảm đương sứ mệnh lịch sử lãnh đạo cách mạng đi đến vinh quang, CN Nhà máy xe lửa Dĩ An là một bộ phận không thể thiếu góp phần vào thắng lợi vĩ đại của cách mạng Việt Nam, đánh Pháp, đuổi Mỹ, giành thắng lợi vẻ vang cho dân tộc.
Phong trào đấu tranh của CN và sự ra đời của chi bộ Đảng Nhà máy xe lửa Dĩ An phải chăng là yếu tố tất yếu của lịch sử ?
Sự ra đời của Đảng Cộng sản theo Lênin đó là sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác và phong trào CN. Tất nhiên, chúng ta cũng cần phải nói rõ rằng: chỉ có 2 yếu tố này thôi thì chưa thể bảo đảm cho sự ra đời của Đảng Cộng sản. Đảng Cộng sản chỉ ra đời khi giai cấp CN đã thấm nhuần tư tưởng của chủ nghĩa Mác, lấy chủ nghĩa Mác làm hệ tư tương cho quá trình đấu tranh của mình.
Mặt khác, chủ nghĩa Mác cũng phải thông qua giai cấp CN để thể hiện đầy đủ những giá trị ưu việt và tinh túy của nó. Song đó là đối với những nước tư bản độc lập. Với những nước thuộc địa, Hồ Chủ tịch nhận thức được rằng: ngoài chủ nghĩa Mác, phong trào đấu tranh của CN, để cho Đảng ra đời còn phải dựa trên những phong trào yêu nước, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc. Vì chỉ có phong trào đấu tranh của CN thôi thì chưa đủ, thực dân - đế quốc là những lực lượng xảo trá và bạo động, với tiềm lực của mình chúng có thể dễ dàng dập tắt những phong trào CN riêng rẽ. Nhưng nếu phong trào CN được kết hợp với phong trào yêu nước thì luôn tạo ra một sức mạnh tổng lực rất đáng kể. Và chỉ có sức mạnh tổng lực đó mới bảo đảm sự ra đời và hoạt động của Đảng.
Trở lại với vấn đề: Phong trào đấu tranh của CN và sự ra đời của chi bộ Đảng Nhà máy xe lửa Dĩ An phải chăng là yếu tố tất yếu của lịch sử? Hiển nhiên « có áp bức thì có đấu tranh », song chúng ta cần đặt vấn đề trong thời điểm năm 1930, với thân phận là một nước thuộc địa của Pháp.
Rõ ràng, nguyên nhân và cũng là động lực của phong CN xuất phát từ 2 tiền đề:
- Thứ nhất: Đời sống công nhân khổ cực, giai cấp thống trị bóc lột, áp bức thậm tệ.
- Thứ hai: Giai cấp CN thấm nhuần nhận thức về vị trí, vai trò và sứ mệnh của mình.
Tất nhiên, những phong trào CN giai đoạn này nguyên nhân đều là sự kết hợp cả 2 yếu tố đời sống và nhận thức, nhưng phần lớn là xuất phát từ điều kiện làm viêc quá khắc nghiệt, mức lương không đủ sống.
Với CN Nhà máy xe lửa Dĩ An chúng tôi lại có một sự nhìn nhận khác. Nói như vậy không có nghĩa là CN ở đây không bị bóc lột, không phải chịu đói khổ, họ cũng chịu cảnh dân nô lệ như bao CN khác, phải làm việc vất vả, lương bổng ít ỏi... Song thực tế cho thấy rằng: So với CN trên toàn cõi Đông Dương nói riêng và CN của thực dân Pháp ở thuộc địa nói chung thì họ đang được « hưởng » những điều kiện « dễ thở » nhất so với những người cùng giai cấp với họ.
Thực dân Pháp luôn ý thức được vai trò quan trọng của hệ thống giao thông nhất là giao thông đường sắt, chính vì thế ngay trong cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất, thực dân Pháp đã tiến hành xây dựng hàng ngàn km đường sắt tại Đông Dương chủ yếu tập trung tại Việt Nam. Tầm quan trọng đặc biệt của đường sắt đã khiến nhà cầm quyền Pháp chú ý hơn đến CN làm việc trong lĩnh vực này. Nếu so sánh giữa CN đường sắt và CN cao su chúng ta sẽ dễ dàng nhận ra sự khác biệt. CN đường sắt phần lớn phải tuyển trạch nghiêm, được đào tạo khá bài bản. Cuộc sống của bản thân và gia đình phần nào có sự quan tâm về mức lương, phương tiện đi lại và chỗ ở. Chế độ làm việc của CN đường sắt cũng nhẹ nhàng hơn, ngày làm việc 8 giờ, được nghỉ chủ nhật, đau ốm vẫn được hưởng lương. Trái lại, CN đồn điền cao su và các ngành khai thác khác không khác gì những cỗ máy biết nói, ngày làm việc quần quật 12 – 13 giờ, không có chủ nhật, không được ốm đau, ốm - phạt, chậm - phạt... ngay cả tính mạng CN cũng hoàn toàn bị xem rẻ.
Như vậy, xét nguyên nhân và động lực thứ nhất về đời sống và chế độ làm việc của CN chúng ta nhận thấy chừng đó là chưa đủ để phát động lên những phong trào đấu tranh mạnh mẽ và đặc biệt là tạo điều kiện cho sự ra đời chi bộ Đảng đầu tiên ở Nam bộ.
Nhận thức của giai cấp CN Việt Nam nói chung và CN Nhà máy xe lửa Dĩ An nói riêng không chỉ được đánh dấu bằng mốc son, mà nó được thể hiện qua từng giai đoạn lịch sử. Ở mỗi giai đoạn đều có những đặc trưng riêng phản ánh đúng thực trạng đời sống cũng như những tư tưởng mà họ đang có. Tư tưởng cách mạng vô sản, tư tưởng Mác - Lênin được truyền thành công vào Việt Nam trong giai đoạn từ 1928-1930. Điểm đầu của quá trình này là việc đồng chí Nguyễn Aí Quốc mở các lớp huấn luyện cho các hội viên của tổ chức Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội. Thông qua tổ chức này nhiều tài liệu quan trọng đã được truyền về Việt Nam, cao hơn nữa là quá trình vô sản hóa (1928-1929), đưa hội viên của mình thâm nhập vào đời sống CN, giác ngộ cho các tầng lớp lao động.
Năm 1929, Kỳ bộ Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội cử đồng chí Nguyễn Văn Lợi (tức Lợi đen) đi« vô sản hóa » ở Nhà máy xe lửa Dĩ An. Đồng chí Lợi đã tích cực tuyên truyền vận động CN chống lại sự áp bức, bóc lột của bọn tư bản. Cùng thời gian này vào mùa thu, một số chi bộ được thành lập ở các tỉnh Nam bộ. Đồng chí Châu Văn Liêm (tức Việt - Bí thư Trung ương lâm thời An Nam Cộng sản Đảng cử đồng chí Nguyễn Đức Thiệu (tức Tích) đến Nhà máy xe lửa Dĩ An xây dựng cơ sở, để thành lập một chi bộ và Công hội đỏ tại đây. Để thực hiện nhiệm vụ được giao, đồng chí Thiệu xin vào làm cu li trong nhà máy nhằm gần gũi, tiếp xúc với CN để tuyên truyền, vận động và thông qua một số CN tốt để hoạt động. Thời gian này, đồng chí Phạm Hữu Lầu (tức Lộ) được đề cử vào An Nam Cộng sản Đảng, cũng đến Dĩ An công tác, đồng chí đã tuyên truyền cách mạng rộng rãi và bí mật chuyền tay nhau đọc những sách báo tiến bộ đã phần nào giác ngộ được họ. Mặt khác, đồng chí còn bí mật liên lạc với đồng chí Thiệu vận động CN đấu tranh, xây dựng cơ sở và tổ chức lập chi bộ tại nhà máy. Sau quá trình chuẩn bị, tháng 1-1930 Chi bộ đề-pô xe lửa Dĩ An ra đời, đồng chí Nguyễn Đức Thiệu làm bí thư theo sự chỉ định của cấp trên.[1]
Nhìn vào quá trình nhận thức của CN Nhà máy xe lửa Dĩ An chúng ta thấy có rất nhiều điều kiện khách quan thuận lợi.
- Thứ nhất: Do tính chất công việc, CN tại đây được đi nhiều nơi. Tiếp xúc với nhiều người, nhiều luồng thông tin. Chính vì vậy, Dĩ An vừa là đầu nút giao thông đường sắt quan trọng vừa là đầu mối chính trị, nơi tiếp nhận các mối liên lạc và cũng là nơi rất thuận tiện cho việc trao đổi thông tin. Với môi trường này, người CN trở nên hiểu biết sâu rộng về tình hình trong nước cũng như thế giới hơn. Thực tế lịch sử cho thấy: ngay từ rất sớm CNNhà máy xe lửa Dĩ An đã biết phát động những phong trào đấu tranh có tính chất vô sản quốc tế như phong trào đấu tranh ủng hộ Cách mạng Tháng Mười, kỷ niệm ngày Quốc tế Lao động 1-5, hay hưởng ứng lễ truy điệu nhà yêu nước Phan Châu Trinh...
- Thứ hai: Do nhận thức được tầm quan trọng của vị trí chiến lược Nhà máy xe lửa Dĩ An, An Nam Cộng sản Đảng đã sớm cử cán bộ tới nhà máy để xây dựng phong trào. Trong thời gian này tại nhà máy thường xuyên tổ chức các buổi nói chuyện chính trị, các buổi diễn thuyết công khai và bán công khai. Các sách báo và tài liệu quan trọng của cách mạng cũng được tuyên truyền tới tay CN. Với môi trường thuận lợi đó sự nhận thức về giai cấp của CN tại đây đã có sự tiến bộ vượt bậc. Chi bộ Đảng đề-pô xe lửa Dĩ An ra đời trở thành cột mốc quan trọng đối với phong trào cách mạng của nhân dân Dĩ An nói riêng và có sự tác động mạnh mẽ đến phong trào yêu nước ở Thủ Dầu Một nói chung.
Đã gần một thế kỷ trôi qua, bài học về nhận thức giai cấp vẫn còn nguyên giá trị. Song, trên thực tế vẫn còn một phần nhỏ đảng viên ngày nay chưa nhận thức hết vai trò và sứ mệnh của giai cấp mình. Chính vì vậy, việc phát triển nhận thức cho đảng viên là việc làm rất quan trọng và cấp thiết vì: « Nhận thức phản chiếu những giá trị quá khứ, hé mở bối cảnh tương lai ».
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bình Dương (1930-1975), BCH Đảng bộ tỉnh Bình Dương, NXB Chính trị Quốc gia.
2. Lịch sử phong trào CN Nhà máy xe lửa Dĩ An - Bộ Giao thông - Vận tải, Liên hiệp Đường sắt Việt Nam, 1999.
3. Lịch sử Đảng bộ huyện Dĩ An (1930-2005), BCH Đảng bộ huyện Dĩ An, tỉnh Bình Dương, NXB Chính trị Quốc gia.
4. Tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh - NXB Lý luận chính trị.
5. Lênin nói về nền kinh tế XHCN - NXB Thông tấn xã Nô-vô-xti Mát-xcơ-va, 1983.
6. Tài liệu điền dã cá nhân. Tài liệu điền dã huyện Dĩ An tháng 6-2010.
[1] Nguyễn Thị Ngọc Minh - Tại sao một trong ba chi bộ Đảng đầu tiên ở Nam bộ được thành lập tại Nhà máy xe lửa Dĩ An? Trích dẫn từ website: http://www.sugia.vn
- TIỂU ĐOÀN PHÚ LỢI CHIẾN ĐẤU CHỐNG CUỘC PHẢN CÔNG CHIẾN LƯỢC MÙA KHÔ LẦN THỨ NHẤT (1965-1966)
- HOẠT ĐỘNG YÊU NƯỚC CỦA NGUYỄN SINH SẮC Ở THỦ DẦU MỘT - BÌNH DƯƠNG (1923-1926)
- THẦY NĂM NHỊ - VỊ VÕ SƯ ĐÃ ĐEM MÔN VÕ LÂM TÂN KHÁNH BÀ TRÀ RA TỨ PHƯƠNG
- MỘT SỐ HOẠT ĐỘNG YÊU NƯỚC TIÊU BIỂU CỦA LINH MỤC VÀ GIÁO DÂN Ở BÌNH DƯƠNG TRONG THỜI KỲ CHIẾN TRANH...
- NGỌN ROI CỦA THẦY NĂM NHỊ ĐẤT VÕ TÂN KHÁNH BÀ TRÀ KHUẤT PHỤC TƯỚNG CƯỚP TRÊN SÔNG NƯỚC MIỀN TÂY NAM...
- DI TÍCH MỘ ÔNG CẢ TRƯỞNG TRẦN VĂN LONG (THÀNH PHỐ THỦ DẦU MỘT, TỈNH BÌNH DƯƠNG)
- LÀNG CÔNG GIÁO LẠC AN - THÁI HƯNG TRONG 20 NĂM HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN (1954 - 1974)
- VÕ ĐƯỜNG ĐẦU TIÊN TRUYỀN DẠY MÔN VÕ LÂM TÂN KHÁNH BÀ TRÀ Ở SÀI GÒN
- DẤU ẤN TÍN NGƯỠNG CỦA CƯ DÂN TIỀN SỬ ĐÔNG NAM BỘ
- THIẾT GIÁP M113 - CHỨNG TÍCH CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC CỦA QUÂN DÂN TỈNH BÌNH DƯƠNG