Cuộc đảo chính tháng 11-1960 và việc tranh thủ các lực lượng tham gia Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam
- 24/07/2012
“Nước Mỹ ở đâu trong cuộc đảo chính tháng 11-1960?”, thực ra đây không phải là một câu hỏi quá khó, song cho tới nay vẫn còn nhiều tình tiết khiến giới quan tâm không khỏi băn khoăn, suy nghĩ. Rõ ràng nước Mỹ vẫn dành sự ủng hộ cho nền cộng hòa miền Nam, nhưng ắt hẳn sự quan tâm này đã thay đổi rất nhiều so với trước. “Chúng tôi ủng hộ chính phủ này cho đến khi nó thất bại”, ngài Đại sứ Durbrow quá khôn ngoan khi đem ra một câu trả lời nước đôi cho phe đảo chính: Họ không bỏ rơi ông Diệm, cũng không ủng hộ đến cùng, sự ủng hộ sẽ dừng lại lúc chính quyền ông Diệm thất bại. Câu trả lời của Durbrow không khác nào mở ra cho phe đảo chính một cơ hội tự quyết. Và, hiển nhiên nếu phe đảo chính may mắn thành công thì bằng cách này hoặc cách khác, trước sau gì họ cũng trở thành phiên bản mới của một dạng chính quyền tay sai. Người Mỹ là vậy, “không có những người bạn hay kẻ thù vĩnh viễn, chỉ có lợi ích mới là vĩnh viễn”, không vì bất cứ một nhân vật nào, mọi sự có mặt, can thiệp của Mỹ cuối cùng cũng chỉ xoay quanh vấn đề lợi ích. Vậy chuyện gì đang xảy ra với quan hệ Mỹ - Diệm, Mỹ đang gắn lợi ích của mình vào bên nào?
10 năm trước, những năm 1950 Mỹ có những can thiệp tài chính đầu tiên vào chiến tranh Đông Dương, khi đó Pháp vẫn là nước nắm quyền ảnh hưởng. Tuy nhiên, càng ngày Pháp càng sa lầy trong cuộc chiến và Mỹ hiểu rằng: nước Pháp già nua khó có thể gượng dậy bằng những đồng dollar “nặng như chì” của mình. Mỹ đã hoàn toàn hình dung ra được sự sụp đổ của Pháp trong nay mai và tự mình có những bước chạy đà để thay thế Pháp. Và, cũng không ai khác Ngô Đình Diệm là nhân vật đầu tiên được Mỹ nhắm đến.
Thời gian Ngô Đình Diệm sống ở Mỹ (1951-1952), ông đã được hồng y Spellman giới thiệu với một số quan chức cao cấp của CIA và nhóm này đã có công rất lớn trong việc gửi Ngô Đình Diệm vào các chủng viện như Maryknall, Lakewood rồi vào trường Đại học Michigan tham gia một số khóa huấn luyện đặc biệt. Như vậy, Mỹ đã chuẩn bị rất kỹ càng cho cuộc thay máu ở Việt Nam từ mặt con người cho đến lộ trình thực hiện.
Năm 1955, Mỹ - Diệm bày ra trò trưng cầu ý dân để phế truất Quốc trưởng Bảo Đại, lập nên nền cộng hòa do chính Ngô Đình Diệm làm tổng thống. Có thể nói kế hoạch của liên minh Mỹ - Diệm đến đây đã hoàn thành một phần, ảnh hưởng của Mỹ và chính quyền thân Mỹ được xác định một cách rõ rệt.
Vậy mà, chỉ sau 5 năm thiết lập nền cộng hòa, giữa Mỹ và Diệm đã nổi lên những mâu thuẫn lớn. Mỹ hoàn toàn không đồng ý đến cách lãnh đạo độc tài - gia đình trị của dòng họ Ngô, bên cạnh cặp đôi quyền lực bậc nhất “Diệm - Nhu” còn có thêm những bậc cận thân như Ngô Đình Cẩn, Trần Lệ Xuân cũng thường xuyên can dự vào các vấn đề chính trị. Mỹ thấy rõ sự chi phối của vợ chồng “ông cố vấn” là quá lớn và đã nhiều lần muốn gạt cặp đôi này ra khỏi chính trường nhưng mỗi lần như vậy đều vấp phải sự phản đối mãnh liệt của dòng họ Ngô, đặc biệt những phát biểu của bà cố vấn chẳng nể nả gì ai kể cả chính phủ Mỹ.
Không chỉ có người Mỹ không hài lòng, ngay cả những tướng tá của nền cộng hòa cũng có nhiều người không vừa lòng với cách lãnh đạo của gia đình Diệm như: Nguyễn Chánh Thi, Vương Văn Đông, Phạm Văn Liễu...
Tuy nhiên, rõ ràng những lý do như vậy chưa đủ thuyết phục để Mỹ có thể “làm ngơ” trước cuộc đảo chính. Nhiều người cho rằng: cuộc đảo chính này như là lời nhắc nhở cho chính quyền Diệm “hãy cẩn thận đấy”, nhưng chính xác hơn đó phải là sự “dằn mặt” đáng kể của Chính phủ Mỹ, rõ ràng Mỹ có thể đưa Diệm lên thì cũng có thể đạp Diệm xuống. Ngay từ đầu việc Ngô Đình Diệm sát nhập các nhóm quân sự Bình Xuyên, Cao Đài, Hòa Hảo đã khiến cho người Mỹ phải “nhột gáy”, Mỹ không muốn một sự “thống nhất hoàn toàn” về quân sự tại miền Nam, nhất thiết phải có những lực lượng khác làm đối trọng với quân Diệm, có như thế chính quyền Diệm mới phải dựa dẫm và nghe theo sự điều khiển của Mỹ. Việc chính quyền họ Ngô ngày càng tỏ ý “ly khai” những ảnh hưởng của Mỹ thực sự là vấn đề mà người Mỹ quan tâm nhất và nó là yếu tố quyết định thái độ của Mỹ trong mọi tình huống.
Cổ nhân người Việt có câu “ăn lộc chúa phải múa suốt ngày”, chắc chắn chính quyền họ Ngô phải là người hiểu hơn ai hết. Nước Mỹ đổ tiền của, vũ khí vào miền Nam Việt Nam chắc chắn không phải để giúp Ngô Đình Diệm gây dựng giang sơn, hoặc ít nhất cũng không phải để biến miền Nam Việt Nam thành một quốc gia hoàn toàn độc lập, không phụ thuộc. Mục đích sâu xa của Mỹ là muốn biến miền Nam thành một căn cứ chống cộng và thực hiện các chiến lược toàn cầu.
Trong lúc đó, một mặt nền cộng hòa miền Nam phải dựa vào những viện trợ của Mỹ để sống, mặt khác lại cố tình phớt lờ những yêu cầu, ảnh hưởng của Mỹ. Bên cạnh đó, đệ nhất phu nhân nền cộng hòa Trần Lệ Xuân cũng góp phần làm tăng thêm mâu thuẫn trong quan hệ liên minh Mỹ - Diệm, trước báo giới bà Nhu luôn kêu ca rằng: Mỹ bỏ bạn - phản bội đồng minh, Mỹ đang đánh rơi chiến thắng trong tầm tay, Chính phủ Mỹ không hiểu gì tình hình Việt Nam, Mỹ muốn gạt bỏ chính quyền Ngô Đình Diệm...
Cho tới thời điểm này, có thể chưa có một kế hoạch đảo chính nằm trên bàn Bộ chiến tranh, song nhiều khả năng việc “thay ngựa giữa đường” đã xuất hiện trong suy nghĩ một vài chính khách Mỹ. Chiêu thức bầu cử, tố cáo gian lận, đảo chính, lật đổ vốn là sở trường của người Mỹ. Vả lại, với một chính phủ tay sai có “dấu hiệu” bất hợp tác thì việc “nuông chiều” và nhẫn nại khó có thể kéo dài được. Một cuộc đảo chính lúc này không chừng lại đem đến cho Mỹ một bối cảnh dễ dàng hơn, hoặc chí ít cũng dạy cho chính phủ họ Ngô một bài học.
Noi đến cuộc đảo chính ngày 11-11-1960, người ta chỉ nhớ tới những thất bại chóng vánh, sự kêu gọi không được đáp lại và cả một thời điểm không thích hợp.
Nguyễn Chánh Thi, Vương Văn Đông, Phạm Văn Liễu được xem là 3 nhân vật chủ chốt điều hành cuộc chính biến, tuy vậy cũng có nhiều tư liệu cho rằng: Nguyễn Chánh Thi chỉ là một nhân vật bị cưỡng bức tham gia.
Theo như kế hoạch của phe đảo chính lực lượng tham gia sẽ có Trung đoàn 1 Thiết Giáp Binh, 3 tiểu đoàn nhảy dù. Thời gian tiến hành vào lúc 5 giờ sáng ngày 11-11-1960. Quân đảo chính sẽ bao vây, cắt mọi liên lạc Dinh Độc Lập, phong tỏa mọi con đường vào thành phố, chiếm đài phát thanh... Trên thực tế, với sự chuẩn bị sơ sài về mặt lực lượng, khâu tổ chức không tốt, lực lượng đảo chính hầu như không đạt những kết quả như mong đợi.
Sở dĩ Vương Văn Đông nhắm tới Trung đoàn 1 là vì trong 4 Trung đoàn Tăng Giáp Binh chỉ có Trung đoàn 1 là đóng ở khu vực Sài Gòn, còn các trung đoàn khác đóng ở Mỹ Tho, Buôn Mê Thuật, Đà Nẵng. Chính vì vậy, có được lực lượng này xem như giành lợi thế trong cuộc giao tranh chớp nhoáng sắp tới. Mặt khác, có thể Vương Văn Đông cho rằng với sự quen biết của mình, ông sẽ lôi kéo được Nguyễn Duy Hinh. Với vai trò là Chỉ huy phó Bộ Chỉ huy Tăng Thiết Binh, Nguyễn Duy Hinh sẽ điều động được Trung đoàn 1 và đây là lực lượng quyết định trong việc chiếm đoạt và trấn áp các lực lượng của Diệm. Tuy nhiên, Nguyễn Duy Hinh đã khéo léo từ chối vì cho rằng: việc điều động lực lượng đặt trực thuộc quân khu không nằm trong quyền quyết định của Bộ Chỉ huy, ông xem như “chưa biết gì, chưa nghe thấy gì” từ phe đảo chính.
Vương Văn Đông lại cầu cứu đến Tướng Lê Văn Tỵ, dù thoái thác tuổi già nhưng Tướng Tỵ vẫn theo Vương Văn Đông đi gặp Nguyên Duy Hinh cầu binh. Song, Nguyễn Duy Hinh, Thẩm Nghĩa Bối vẫn tiếp tục từ chối. Không chiếm được thiết giáp để yểm trợ bộ binh tấn công Dinh Độc Lập, lại bị chính Trung đoàn 1 Thiết Giáp chặn phía trước và bọc phía sau, nhóm đảo chánh không còn cách gì khác hơn là thương thuyết.
Việc không cô lập được khu đầu não Dinh Độc Lập đã tạo nên sự bất lợi lớn của phe đảo chính. Ngô Đình Diệm khôn khéo vờ thương thảo để hoãn binh, gấp rút soạn thảo và cho phát thanh bài luận văn với hứa hẹn sẽ bầu cử tự do và tiến hành nhiều hoạt động tự do - dân chủ khác. Mặt khác, ông cho điều các lực lượng thân cận về giải vây cho khu đầu não.
Khi hai bên chưa thỏa thuận được điểm nào thì Đại tá Trần Thiện Khiên đã đem Trung đoàn 2 Thiết Giáp và 2 tiểu đoàn của Sư đoàn 21 tiến về Phú Lâm, còn Trung tá Huỳnh Văn Cao đưa Sư đoàn 5 về cầu Bình Lợi và cầu xa lộ. Thiếu tá Lữ Đình Sơn dẫn một Tiểu đoàn Biệt động quân từ Tây Ninh tiến về Sài Gòn giả vờ ủng hộ đảo chánh. Nhưng sau khi bố trí xong quân ở vườn Tao Đàn theo thế cài răng lược, Thiếu tá Sơn đã ra lệnh bắt Thiếu tá Phan Trọng Chinh và đem quân bao vây 3 đại đội của Tiểu đoàn Dù.
Cuộc giao tranh chớp nhoáng của 2 bên đã nhanh chóng kết thúc, phe đảo chính thất bại hoàn toàn. Nhóm cầm đầu như Vương Văn Đông, Nguyễn Chánh Thi, Phạm Văn Liễu, Nguyễn Văn Lộc phải cướp máy bay để tẩu thoát.
Qua cuộc đảo chính ngày 11-11-1960 chúng ta thấy nổi lên 3 vấn đề cốt yếu:
- Thứ nhất: Sự mâu thuẫn nội khối trong chính quyền Ngô Đình Diệm đã nảy nở lên một mức không thể điều hòa, các tướng, tá dưới quyền thể hiện sự bất đồng bằng hành động đảo chính - lật đổ. Chính phủ Mỹ chắc chắn vẫn chưa thể từ bỏ một chính quyền tay sai mà mình đã phải dày công gây dựng và tiêu tốn hết nhiều tiền của, nhưng Mỹ muốn dạy cho Diệm một bài học sau những hành động và thái độ của mình.
- Thứ hai: Cuộc đảo chính của Vương Văn Đông không “hổ danh” là cuộc đảo chính quân sự đầu tiên trong nền cộng hòa miền Nam: việc chuẩn bị quá sơ sài, cách lôi kéo lực lượng hoàn toàn thất bại, quá trình tiến hành không đồng bộ và không theo đúng kế hoạch đã dự kiến. Tính bất ngờ, yếu tố quan trọng bậc nhất trong mỗi cuộc đảo chính, lật đổ chưa được tận dụng. Việc giành thắng lợi khó có thể diễn ra cho dù lúc đầu phe đảo chính có gây ra được ít nhiều khó khăn cho Chính quyền Ngô Đình Diệm.
- Thứ ba: Qua cuộc giải vây Dinh Độc Lập cho ta thấy, bên cạnh Ngô Đình Diệm vẫn còn nhiều lực lượng mạnh, trung thành và đáng tin cậy. Song, điều đó không bảo đảm cho sự tồn tại vững chắc của nền Cộng hòa miền Nam Việt Nam, vì đứng sau nó vẫn là nước Mỹ vốn “lắm chiêu nhiều kế” và họ có thể làm nhiều điều nằm ngoài tầm kiểm soát của Chính quyền Ngô Đình Diệm.
Sau thắng lợi của phong trào Đồng khởi, sự thành lập các UBND tự quản trên khắp miền Nam[1] và trước sự mất ổn định tạm thời của Chính quyền Ngô Đình Diệm do cuộc đảo chính ngày 11-11-1960, Đảng Lao động Việt Nam, Trung ương Cục miền Nam đã quyết định thành lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam với chủ trương: “Đoàn kết tất cả các tầng lớp nhân dân, các giai cấp, các dân tộc, các đảng phái, các đoàn thể, các tôn giáo và thân sĩ yêu nước không phân biệt xu hướng chính trị, để đấu tranh lật đổ ách thống trị của đế quốc Mỹ và tập đoàn Ngô Đình Diệm tay sai Mỹ, thực hiện độc lập, dân chủ, hòa bình, trung lập, tiến tới hòa bình thống nhất Tổ quốc”. Sứ mệnh của Mặt trận Giải phóng là tập hợp hết thảy các lực lượng nhân dân miền Nam “chung một bóng cờ” thực hiện phần còn lại của cuộc Cách mạng Dân tộc, Dân chủ.
Trên bối cảnh hiện tại, tên gọi của mặt trận cũng thể hiện nhiều điều: “Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam”. Một mặt, mặt trận có thể lôi kéo được nhiều tầng lớp, giai cấp, nhiều thành phần trong quần chúng miền Nam tham gia với mục đích tiên quyết là đánh đổ quân Mỹ và chính quyền tay sai. Mặt khác, chúng ta luôn tôn trọng và làm theo tinh thần hiệp định Giơnevơ, con đường cách mạng miền Nam phải do được chính nhân dân miền Nam lựa chọn. Vả lại, điều quan trọng hơn chúng ta muốn cả thế giới hiểu thêm và dành sự ủng hộ cho Cách mạng miền Nam nhiều hơn. Và thực tế chúng ta đã làm được điều đó: “Có lẽ rất ít phong trào giải phóng dân tộc trong thời đại chúng ta lại được sự đồng tình, hỗ trợ rộng rãi, mạnh mẽ của nhân dân thế giới như phong trào giải phóng miền Nam, nhất là sự đồng tình, hỗ trợ ngay tại sào huyệt của kẻ gây chiến. Không chỉ nhân dân thế giới đoàn kết với nhân dân miền Nam, nhân dân Việt Nam mà một số chính phủ, một số giới chính trị ở một số nước chưa phải xã hội chủ nghĩa đã có thái độ thiện cảm với Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam hoặc dè dặt trước chính sách của Mỹ”.
Các tổ chức chính trị của mặt trận đã nhanh chóng được thành lập và phát triển nhanh như: Hội Liên hiệp các sinh viên học sinh, Hội Nhà giáo yêu nước, Hội Nhà báo yêu nước và dân chủ, Hội Phụ nữ giải phóng, Hội Những người Công giáo kính Chúa yêu nước, Hội Lục Hòa Phật tử miền Nam, Hội Nông dân giải phóng miền Nam, Đảng Xã hội cấp tiến của tri thức yêu nước, Đảng Dân chủ miền Nam của giai cấp tư sản dân tộc, Quân giải phóng miền Nam... Một Ủy ban Trung ương Mặt trận được bầu ra với nhiều các nhân vật có uy tín, đại diện cho nhiều tầng lớp trong xã hội.
Ngay khi vừa thành lập, mặt trận đã làm nhiệm vụ quản lý chính quyền với hệ thống từ xã ấp, buôn làng lên huyện, tỉnh và Trung ương. Mặt trận đã kiểm soát nhiều vùng nông thôn, rừng núi rộng lớn với nhiều triệu dân. Ủy ban Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam thực sự là một Chính phủ ở miền Nam, song song tồn tại với chính quyền Sài Gòn[2].
Tuy vậy, việc tranh thủ các lực lượng, việc tập hợp quần chúng chưa bao giờ là công việc dễ dàng. Có được một tên gọi thích hợp, có được nhiều tổ chức trực thuộc không đồng nghĩa với có được sự ủng hộ của đại đa số quần chúng nhân dân. Quần chúng nhân dân chỉ tập trung dưới cờ của mặt trận khi lợi ích của họ được bảo đảm và gắn liền đường lối đấu tranh của mặt trận. Sở dĩ Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam thành công là do có được đường lối và chính sách thích hợp. Sau khi thành lập mặt trận đã nhanh chóng đề ra Tuyên ngôn và Chương trình 10 điểm với nội dung:[3]
- Đánh đổ chế độ thuộc địa trá hình của đế quốc Mỹ và chính quyền độc tài Ngô Đình Diệm, tay sai của Mỹ, thành lập chính quyền liên minh dân tộc, dân chủ.
- Thực hiện chế độ dân chủ và tiến bộ.
- Thực hiện nền kinh tế độc lập, tự chủ, thực hiện cải thiện dân sinh.
- Thực hiện giảm tô, tiến tới giải quyết các vấn đề ruộng đất cho nông dân, làm cho người cày có ruộng.
- Xây dựng nền văn hóa, giáo dục, dân tộc, dân chủ.
- Xây dựng một quân đội bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ nhân dân.
- Thực hiện dân tộc bình đẳng, nam nữ bình quyền, bảo hộ quyền lợi chính đáng của ngoại kiều và kiều bào.
- Thực hiện chính sách ngoại giao hòa bình, trung lập.
- Lập lại quan hệ hòa bình giữa hai miền, tiến tới hòa bình thống nhất Tổ quốc.
- Chống chiến tranh xâm lược tiến tới hòa bình thế giới.
Có thể thấy cương lĩnh của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam là một lời hiệu triệu, thôi thúc mọi lớp người trong quần chúng cùng đứng lên lật đổ bè lũ cướp nước và bán nước. Cương lĩnh của mặt trận không chỉ là những mục đích của nhân dân miền Nam mà còn là mục đích phấn đấu của đại bộ phận các quốc gia trên thế giới, đặc biệt là những nước đang chịu cảnh thuộc địa, phụ thuộc. Độc lập, tự chủ, tự do dân quyền, bình đẳng tộc người, tôn giáo, giới tính... luôn và mãi cần thiết với bất cứ quốc gia, dân tộc nào. Và, trên thực tế không ít xương máu của nhân loại đã đổ xuống vì những quyền xem chừng như bất khả xâm phạm.
Trong chính sách của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam gần như hết thảy các giai cấp, tầng lớp đều tìm thấy vị trí, vai trò và quyền lợi của mình trong mặt trận, chính vì vậy họ liên kết với nhau để cùng đấu tranh giành lại những quyền lợi chính đáng của dân tộc mình, giai cấp mình. Việc Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam hội đủ các đại diện trong quần chúng một lần nữa khẳng định tính đại diện hợp pháp, tính quần chúng rộng lớn của mặt trận.
Cơ cấu của Ủy ban Trung ương MTDTGPMN
|
TT |
Đại diện cho các tầng lớp, giai cấp, tổ chức |
Số lượng |
|
1 |
Đại diện tri thức miền Nam (luật sư, bác sĩ, giáo viên...) |
8 |
|
2 |
Đại diện những người Phật giáo yêu nước miền Nam VN |
2 |
|
3 |
Đại diện những người Cao Đài yêu nước miền Nam VN |
2 |
|
4 |
Đại diện những người Hòa Hảo yêu nước miền Nam VN |
1 |
|
5 |
Đại diện những người Công giáo kính Chúa yêu nước VN |
2 |
|
6 |
Đại diện dân tộc Chăm |
2 |
|
7 |
Đại diện Việt kiều yêu nước |
2 |
|
8 |
Đại diện các lực lượng vũ trang giải phóng MNVN |
1 |
|
9 |
Đảng Dân chủ miền Nam Việt Nam |
2 |
|
10 |
Đảng Nhân dân Cách mạng miền Nam |
1 |
|
11 |
Đảng Xã hội cấp tiến miền Nam Việt Nam |
2 |
|
12 |
Hội Liên hiệp các Công đoàn giải phóng miền Nam VN |
2 |
|
13 |
Hội Liên hiệp Thanh niên giải phóng miền Nam VN |
1 |
|
14 |
Hội Liên hiệp Phụ nữ giải phóng miền Nam VN |
3 |
|
15 |
Hội Liên hiệp Sinh viên giải phóng miền Nam VN |
1 |
|
16 |
Hội Nhà báo yêu nước và dân chủ miền Nam VN |
2 |
|
17 |
Hội Văn nghệ giải phóng miền Nam VN |
3 |
|
18 |
Ủy ban Phong trào tự trị các dân tộc Tây nguyên |
3 |
Trong suốt quá trình hoạt động của mình, Mặt trận Dân tộc Giải phóng luôn đề cao công tác tranh thủ các thành phần, xây dựng lực lượng. Ngoài những chính sách hợp lý, cụ thể, mặt trận cùng với các hiệp hội thành viên luôn theo sát những bước đi của phong trào quần chúng nhân dân, bám địa bàn, cùng lao động, cùng chiến đấu.
Với giai cấp nông dân miền Nam, Đảng, mặt trận luôn xác định nông dân là lực lượng hùng hậu, là nòng cốt của phong trào cách mạng của nông thôn. Mỹ - Diệm cũng thấy được tầm quan trọng đó, chính quyền Ngô Đình Diệm đã có nhiều chính sách nhằm chia rẽ, tách biệt lực lượng nòng cốt cách mạng với lực lượng nông dân. Ngô Đình Diệm cho lập các khu trù mật, ấp chiến lược, thực hiện các phong trào tố cộng, diệt cộng ráo riết.
Ngày 21-4-1961, Hội Nông dân Giải phóng miền Nam chính thức ra đời và trở thành thành viên của Mặt trận Dân tộc Giải phóng. Sau khi ra đời, hội đã tuyên bố tán thành nội dung Tuyên ngôn và chương trình hành động 10 điểm của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, nhằm thực hiện các mục tiêu giải phóng dân tộc, hòa bình, thống nhất đất nước và thực hiện các quyền dân sinh, dân chủ. Đồng thời, hội nhấn mạnh vai trò nòng cốt của nông dân miền Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Chỉ trong thời gian ngắn sau khi thành lập tổ chức hội đã phát triển nhanh chóng. Nông dân đứng dậy đốt phá “ấp chiến lược” tự giải phóng nông thôn. Đòn tấn công mạnh mẽ như Ấp bắc - Ba Giai - Đồng Xoài đã làm cho kế hoạch “bình định của địch bị phá sản, “chiến tranh đặc biệt” bị thất bại, Hội Nông dân Giải phóng miền Nam thực hiện việc chuyển ruộng đất cho nông dân.
Tháng 1-1965, Đại hội lần thứ nhất của Hội Nông dân Giải phóng miền Nam, phong trào hội tiếp tục phát triển mạnh hơn về số lượng và chất lượng. Bộ máy tổ chức của Hội Nông dân Giải phóng đã hình thành theo 5 cấp: miền, khu, tỉnh, huyện và xã. Xã là tổ chức cơ sở của hội, có Ban chấp hành xã, dưới có Ban cán sự thôn, ấp và tiểu tổ hội.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự hướng dẫn của Hội Nông dân Giải phóng, nông dân miền Nam đã vượt qua mọi khó khăn gian khổ, bám đất giữ làng, “một tấc không đi, một li không rời”, giữ vững sản xuất, thực hiện khẩu hiệu “Hầm tốt hơn nhà tốt”, “Biến nhà thành công sự, biến đồng ruộng thành trận địa”...
Mặt trận Dân tộc Giải phóng đa chia hơn 2,1 triệu ha đất sản xuất cho nông dân, chiếm 70% diện tích canh tác toàn miền. Mức tô trong vùng giải phóng đã giảm xuống còn từ 3 - 20% sản lượng, trung bình là 10%[4], có nơi nông dân không nộp cho địa chủ nữa. Có thể nói chính sách ruộng đất của cách mạng do Hội Nông dân Giải phóng đứng ra thực hiện kể từ sau Đồng khởi đã có tác dụng tích cực động viên hội viên và nông dân miền Nam luôn trung thành với Đảng với cách mạng, sẵn sàng cống hiến, hy sinh cho cách mạng để giải phóng dân tộc, giải phóng đất nước.
Với giai cấp công nhân, việc Hội Liên hiệp các Công đoàn giải phóng miền Nam được thành lập tiếp tục khẳng định thêm vai trò của giai cấp công nhân trong sự nghiệp Cách mạng miền Nam. Dưới sự chỉ đạo của Mặt trận Dân tộc và Hội Liên hiệp các Công đoàn các phong trào đấu tranh của công nhân có sự liên kết với nhau rõ ràng hơn. Ngoài những cuộc đấu tranh đòi những quyền lợi cơ bản như tăng lương, giảm giờ làm, cấm đánh đập, cúp - phạt, công nhân miền Nam còn đấu tranh để đòi quyền lợi cho dân tộc như: đòi hòa bình thống nhất, đòi thực hiện hiệp định Giơnevơ, chống bắt lính, đấu tranh để ủng hộ lẫn nhau như các phong trào công nhân dệt Vinatexco, Vimytex, công nhân khuân vác Sài Gòn, công nhân Nhà máy xe lửa Dĩ An - Thủ Dầu Một... Đặc biệt, mặt trận còn kêu gọi quần chúng cùng biểu tình để ủng hộ các phong trào đấu tranh của công nhân. Và, trên thực tế mỗi cuộc biểu tình hay bãi công của công nhân diễn ra lại có hàng vạn đồng bào quần chúng cùng tham gia, trong đó hầu như có mặt đầy đủ các tầng lớp như tiểu thương, tri thức, sinh viên - học sinh...
Lực lượng công nhân miền Nam đã trở thành một phần quan trọng trong Mặt trận Dân tộc Giải phóng. Nếu như nông dân là nòng cốt cho phong trào cách mạng ở nông thôn thì công nhân đóng vai trò nòng cốt phong trào cách mạng ở thành thị.
Trong sự lớn mạnh về lực lượng của mặt trận chúng ta không thể không nhắc tới sự đóng góp to lớn của phụ nữ miền Nam, Đảng đã ta nhận thức sâu sắc rằng: “...người phụ nữ Việt Nam có bản sắc phong cách riêng: họ là những chiến sĩ chống ngoại xâm kiên cường dũng cảm; là người lao động cần cù, sáng tạo, thông minh; là người giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong việc giữ gìn, phát triển bản sắc và tinh hoa văn hóa dân tộc; là những người mẹ dịu hiền, đảm đang, trung hậu và đã sản sinh ra những thế hệ anh hùng...”[5].
Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của mặt trận và Hội Liên hiệp Phụ nữ Giải phóng miền Nam (thành lập 8-3-1961), “Đội quân tóc dài” trở thành một lực lượng cách mạng vững mạnh. Sự ra đời của “Đội quân tóc dài” là sự sáng tạo độc đáo của đường lối đấu tranh chính trị kết hợp vũ trang trong Cách mạng miền Nam, làm cho sức mạnh của phong trào phụ nữ được tăng lên nhiều lần, đủ sức bảo đảm cho phong trào đấu tranh thắng lợi.
Người phụ nữ với bản năng đặc biệt của mình, các chị, các mẹ đã vận động, lôi kéo chồng con rời xa hàng ngũ địch đi theo cách mạng, có nhiều anh em được giác ngộ trở thành cơ sở của ta ngay trong hang ổ của địch. Phụ nữ miền Nam giữ nhiều nhiệm vụ âm thầm nhưng vô cùng quan trọng trong cuộc kháng chiến như: che giấu, nuôi dưỡng cán bộ, phục vụ chiến trường, chăm lo công tác hậu phương. Ở vị trí nào họ cũng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Việc Đảng, mặt trận nhìn nhận và xây dựng lực lượng phụ nữ miền Nam thành một đội quân cách mạng vững mạnh là một sự nhìn nhận hợp lý. Và, thực tế đã cho thấy rằng “Đội quân tóc dài” đóng một vai trò đáng kể trong hệ thống lực lượng cách mạng dân tộc.
Với lực lượng thanh niên, từ lâu Đảng ta luôn xem đây là lực lượng nòng cốt của cách mạng, cánh tay phải đắc lực của tổ chức. Khi thành lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng, Đảng và mặt trận lại tiếp tục khẳng định vai trò xung kích của lực lượng thanh niên trên nhiều chiến tuyến.
Ngày 24-4-1962, đại hội thành lập Hội Liên hiệp Thanh niên Giải phóng miền Nam do Đoàn Thanh niên Nhân dân cách mạng làm nòng cốt đã chính thức khai mạc. Đồng chí Trần Bạch Đằng được bầu làm Chủ tịch hội. Từ đó, hệ thống tổ chức cơ sở của hội được phát triển mạnh mẽ, nhất là trong các đô thị, Hội Liên hiệp Sinh viên giải phóng (9-1-1961), Hội Học sinh giải phóng lần lượt ra đời và các tổ chức thanh niên khác như đoàn sinh viên phật tử, đoàn học sinh công tác xã hội, Đội vũ trang quyết tử (26-3-1961)... được Hội Liên hiệp Thanh niên giải phóng cử cán bộ nắm tổ chức và hướng dẫn hoạt động. Từ năm 1962-1965 hàng vạn thanh niên trong các đô thị đã bí mật tham gia hội.
Năm 1965, Hội Liên hiệp Thanh niên Giải phóng phát động trên toàn miền Nam phong trào “Năm xung phong”. Trong 10 năm, từ 1965-1975, có trên 2 triệu lượt thanh niên miền Nam đăng ký tham gia phong trào này, trong đó có hàng chục vạn đoàn viên, hội viên gia nhập quân giải phóng và các đơn vị thanh niên xung phong.
Hội Liên hiệp Thanh niên giải phóng miền Nam đã tập hợp được hàng chục vạn thanh niên, học sinh, sinh viên tham gia các phong trào chống địch khủng bố, cứu trợ đồng bào bảo vệ quyền lợi thanh niên, nhất là tuyên truyền giác ngộ các bạn thanh niên hướng về cách mạng, đấu tranh chính trị và một bộ phận không nhỏ đã tự nguyện ra vùng giải phóng tham gia quân đội, tham gia lực lượng thanh niên xung phong.
Ngoài ra, trong lực lượng của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam còn phải kể đến các thành phần trí thức như: bác sĩ, luật sư, nhà báo, nhà giáo, các văn nghệ sĩ, các thành phần người Hoa, người Chăm, các dân tộc thiểu số Tây nguyên cũng góp phần không nhỏ vào sự lớn mạnh của mặt trận. Như Hồ Chủ tịch đã từng nói: “...Một mặt trận của nhân dân đoàn kết chặt chẽ rộng rãi là một lực lượg tất thắng. Hiện nay trong cuộc đấu tranh anh dũng chống chế độ tàn bạo của Mỹ - Diệm, đồng bào ta ở miền Nam cũng có “Mặt trận Dân tộc Giải phóng” với chương trình hoạt động thiết thực và phù hợp với nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Do đó, có thể đoán rằng đồng bào miền Nam nhất định sẽ thắng lợi, nước nhà nhất định sẽ thống nhất, Nam - Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà...”[6].
Như vậy, qua 17 năm tồn tại với tư cách là lá cờ đầu trong công cuộc giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Mặt trận Dân tộc Giải phóng đã hoàn thành sứ mệnh to lớn của mình là tập hợp lực lượng nhân dân miền Nam thành một dòng chảy thống nhất, vượt qua muôn trùng khó khăn để đi đến mục đích cuối cùng dù trên quãng đường dài đầy chông gai đó, đã có không ít xương máu của dân tộc ta đã rơi. Song, chưa bao giờ người ta thấy đồng bào miền Nam, dân tộc Việt Nam lùi bước.
- 240 NĂM NHÌN LẠI CUỘC TIẾN QUÂN CỦA NGUYỄN HUỆ VÀO NAM BỘ NĂM 1785
- NGHIÊN CỨU ĐIỀN CHỦ Ở VÙNG TỨ GIÁC LONG XUYÊN TRONG “ÉCONOMIE AGRICOLE DE L’INDOCHINE”
- TÌNH HÌNH BIỂN ĐẢO VIỆT NAM ĐẦU THẾ KỶ XIX QUA HẢI TRÌNH CHÍ LƯỢC CỦA PHAN HUY CHÚ
- QUÁ TRÌNH XÁC LẬP CHỦ QUYỀN VÀ KHAI THÁC KINH TẾ Ở CÔN LÔN VÀ PHÚ QUỐC THỜI CHÚA NGUYỄN
- ÁN SÁT SỨ NGUYỄN XUÂN ÔN VÀ VÙNG ĐẤT TAM PHAN
- BÀN THÊM VỀ QUỐC HIỆU NHÀ NƯỚC QUÂN CHỦ THỜI NGUYỄN QUA CUỘC KHỞI NGHĨA VÕ TRỨ - TRẦN CAO VÂN Ở PHÚ...
- THỦY CHIẾN VÀM NAO - CỔ HỖ (1833 - 1834) ĐÔI ĐIỀU CẢM NHẬN
- BA KÊNH ĐÀO Ở TÂY NAM BỘ THỜI NGUYỄN
- TÔN THẤT THUYẾT - NGUYỄN VĂN TƯỜNG CÒN NHỮNG BĂN KHOĂN
- NƯỚC PHÁP SAU TẤN THẢM KỊCH ĐIỆN BIÊN PHỦ



