Kiến thức lịch sử chung

Một Số Sự Kiện Của Sử Chân Lạp

Trong lịch sử, quan hệ giữa Chân Lạp với chính quyền chúa Nguyễn ở Đàng Trong diễn ra khá phức tạp. Khi thì triều đình Oudong thực hiện chính sách ngoại giao hai mặt, vừa thân Việt vừa hòa hảo với Xiêm. Trong mối tương quan đó, khảo sát sử Chân Lạp đối chiếu với sử Việt có một số sự kiện không đồng nhất. Sự kiện gả hoàng nữ và cho “mượn” Prey Nokor, Kas Probey năm 1623 Theo Niên giám Campuchia, năm 1618, Chey Chetta II lên ngôi. Là người chủ trương thực hiện đường lối “thoát Xiêm”, Quốc vương đã xóa bỏ những ràng buộc của Xiêm triều, từ chối xưng thần và dời kinh đô từ Lovea Em về Oudong. Đồng thời để quân Xiêm không dám quấy nhiễu nữa, “Quốc vương Chey Chetta II cưới một Công Chúa Việt Nam hầu dựa vào thế lực của Triều đình Huế” [2,152]. Cuộc hôn nhân chính trị này đã giúp Chân Lạp đánh bại quân Xiêm ở Bârribaur, Rantei-Meas. Tập Niên giám viết tay ở Thư viện Hoàng gia Chân Lạp triều Chey Chetta II, trang 369 chép: “Năm 2169 Phật lịch, tức là năm 1623 Dương lịch, một Sứ giả của Vua Annam dâng lên cho Vua Cao Miên Chey Chetta một phong thư, trong đó Vua Annam ngỏ ý “mượn” của Cao Miên xứ Prey Nokor và Kas Krobey để đặt làm nơi thâu quan thuế. Vua Chey Chetta sau khi tham khảo ý kiến của đình thần đã chấp thuận lời yêu cầu trên và phúc thư cho Vua Annam biết. Vua An nam bèn ra lệnh cho quan chức đặt Sở quan thuế tại Prey Nokor và Kas Krobey và từ đó bắt đầu thâu quan thuế” [2,154].

Xem chi tiết


Lễ Hội Làm Chay (Thị Trấn Tầm Vu, Huyện Châu Thành) Trong Phát Triển Bền Vững Du Lịch Tỉnh Long An

1. Nguồn gốc lễ hội Làm chay Lễ hội Làm chay là tên gọi hiện nay của lệ Làm chay xưa, vốn được đọc trại âm từ lễ Trai đàn, trong đó “trai đàn” là thiết lập đàn tràng trang nghiêm, thanh tịnh với các khoa nghi ứng phú của Phật giáo cầu âm siêu dương thới. Gắn liền với lễ hội làm chay ở Tầm Vu có hai truyền thuyết được kể trong dân gian. Truyền thuyết đầu kể rằng, trước đây vào buổi trưa học trò ở gần chợ Tầm Vu thường ra chơi ở nhà lồng chợ. Một bữa trưa vào giờ chánh Ngọ, bất thình lình nhà lồng chợ sập đổ. Rất may hôm đó không hiểu sao, học trò lại không ra nhà lồng chợ chơi. Do đó, không bị xảy ra thiệt hại về người. Sau đó, dân làng tổ chức lễ trai đàn để xua đuổi ma quỷ, giải thoát Cô hồn còn lẩn quất tại đây, nguyên nhân kỳ bí tạo ra vụ sập chợ, sau trở thành lệ Làm chay hằng năm duy trì cho đến ngày nay.


Tranh dân gian đồ thế Việt Nam

Tranh dân gian đồ thế là loại tranh được sử dụng nhiều nhất trong tất cả các dòng tranh dân gian, do phục vụ nhu cầu tín ngưỡng. Khi xã hội hiện đại, tranh công nghiệp đã dần thay thế tranh mộc bản nhằm tiết kiệm nguyên liệu, hạ giá thành, nên dòng tranh này dần tàn lụi. Với tình yêu tranh dân gian, Nguyễn Thị Thu Hòa đã thực hiện nhiều chuyến điền dã trong vào ngoài nước, để dựng lại bức tranh về tranh dân gian đồ thế Việt Nam. Mở đầu sách, tác giả cho biết “tranh dân gian đồ thế là tranh dân gian được dùng trong các nghi lễ tôn giáo và tín ngưỡng với chức năng là vật phẩm hiến tế những đối tượng được thờ cúng (thần linh hoặc linh hồn của những người đã chết”.


Vận dụng nghệ thuật múa rối bóng trong dạy học lịch sử

Trong bối cảnh đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, việc vận dụng linh hoạt và đổi mới phương pháp giảng dạy ở các trường phổ thông là một việc làm vô cùng cần thiết. Nó không chỉ góp phần thay đổi cách thức, phương pháp giảng dạy của giáo viên, hoạt động học tập của học sinh mà còn góp phần tạo không gian học tập mới mẻ, hứng thú và sáng tạo… Cùng mối quan tâm đó, bằng các phương pháp nghiên cứu thực tiễn, bài viết hướng đến việc giới thiệu phương pháp dạy học dự án, trong đó tập trung vào việc vận dụng nghệ thuật múa rối bóng trong dạy học môn Lịch sử.


Nâng cao hiệu quả giáo dục truyền thống cho học sinh ở bộ môn lịch sử thông qua sử dụng di sản văn hóa địa phương

Giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ là một nhiệm vụ bức thiết quyết định đến sự tồn vong và phát triển của dân tộc. Trong lĩnh vực giáo dục, nhiệm vụ này muốn hoàn thành tốt cần đến sự tác động tổng thể của tất cả các môn học, trong đó môn lịch sử giữ một vai trò quan trọng. Tuy nhiên những năm gần đây, thực trạng giáo dục truyền thống dân tộc cho học sinh trong môn Lịch sử ở trường phổ thông có rất nhiều bất cập, hiệu quả thấp. Học sinh đa phần ngán và sợ đối với môn Lịch sử bởi sự hàn lâm, khô khan. Trong nội dung bài viết ngắn này, chúng tôi đưa ra một giải pháp để đưa việc giáo dục truyền thống dân tộc nói riêng và việc giảng dạy môn lịch sử nói chung mang tính trực quan sinh động, gần gũi thiết thực với các em học sinh hơn, khiến các em hứng thú hơn với các kiến thức lịch sử, bồi đắp dần cho các em sự tự hào đối với truyền thống của dân tộc. Trong phần ví dụ chúng tôi xin phép được lấy việc dạy học môn Lịch sử ở địa bàn tỉnh Bình Dương để minh họa làm rõ thêm cho luận điểm của mình.


Đọc sách Lễ hội Miếu bà Ngũ hành Long Thượng huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An

Với tính chất “phên dậu” phía nam của vùng Sài Gòn - Chợ Lớn, Cần Giuộc mang trong mình nhiều dấu ấn lịch sử - văn hóa đặc thù, nơi gặp gỡ của nhiều lớp dân cư và nhiều luồng văn hóa do vị thế địa văn hóa. Tác giả Nguyễn Tấn Quốc đã thực hiện một nghiên cứu trường hợp về một cơ sở tín ngưỡng thờ nữ thần có vai trò quan trọng trong khu vực, qua đó thấy được những đặc điểm của tín ngưỡng này ở Nam Bộ, với tác phẩm Lễ hội miếu Bà Ngũ Hành Long Thượng huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An (Nxb Hội Nhà văn, 2022). Đó là góc nhìn sinh thái văn hóa, đặc thù lịch sử, bước đầu nhận diện về lịch sử tín ngưỡng, cơ sở thờ tự, tổ chức và các hoạt động của miếu Bà Ngũ Hành như một thiết chế văn hóa cổ truyền của làng xã ở địa phương. Nghiên cứu này đã tập trung phân tích bản chất, đặc trưng và giá trị miếu thờ và tục thờ Bà Ngũ Hành ở Long Thượng trên các bình diện cấu trúc, sinh hoạt nghi lễ, tầm ảnh hưởng và chức năng cơ bản của nó. Cuốn sách chia làm 3 chương.


Đọc sách NAM KỲ QUAN CHẾ KHẢO LƯỢC (1802-1945)

Khi đọc sách về lịch sử Nam Kỳ, ta hay bắt gặp nhiều thuật ngữ đề cập đến các chức quan trong bộ máy hành chính của triều Nguyễn như: tổng đốc, tuần phủ, bố chánh, lãnh binh, án sát, tri phủ, cai tổng... và quan chế thời Pháp thuộc như: nguyên soái, thống đốc, thống lý, hiệp lý, chưởng lý, thanh tra chánh sự vụ bổn xứ, tham biện, thông ngôn, ký lục, chủ tỉnh, chủ quận, cai tổng, xã trưởng... nhưng không phải ai cũng hiểu hết chức năng, nhiệm vụ của nó với bộ máy đi kèm.


Căn cứ địa Đồng Tháp Mười (1946-1949)

Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ của dân tộc ta, đã ra đời nhiều căn cứ địa trên khắp cả nước với nghệ thuật quân sự ngày càng được nâng cao, để lại nhiều bài học quý trong đường lối chiến tranh nhân dân. Căn cứ địa Đồng Tháp Mười tuy chỉ tồn tại một thời gian ngắn trong lịch sử nhưng đã giữ một vai trò quan trọng trong chiến trường ở Trung Nam Bộ trong thời kỳ chống thực dân Pháp xâm lược (1945-1954). Cuốn sách Căn cứ địa Đồng Tháp Mười (1946-1949) (Nxb Đại học Quốc gia TP.HCM, 2021, 240 trang, giá 120.000 đ) của nhà nghiên cứu Đặng Hoàng Sang, đã cung cấp cho bạn đọc những hiểu biết khá đầy đủ về một loại hình căn cứ địa ở một khu vực có địa hình đặc trưng của Tây Nam Bộ.

Một nét Bình Dương Một nét Bình Dương Một nét Bình Dương Một nét Bình Dương Một nét Bình Dương Một nét Bình Dương Một nét Bình Dương
Thống kê
Lượt truy cập: 23962376