Kiến thức lịch sử chung

Các ngày lễ kỷ niệm và lịch sử

6-1-1946 Tổng tuyển cử quốc hội khóa đầu tiên của nước Việt Nam

 

Ngày 6 tháng 1 năm 1946, báo chí xuất bản hôm đó đều dành vị trí trang trọng nhất, giới thiệu cuộc tổng tuyển cử đầu tiên trong lịch sử dân tộc. Báo Sự Thật ghi lên đầu trang nhất dòng chữ đậm nét: "Tất cả hãy đến thùng phiếu". Báo Quốc hội in hình Hồ Chủ tịch với lời khuyên của Người: "Khuyên đồng bào nam nữ 18 tuổi trở lên, hôm nay tất cả đều đi bỏ phiếu để bầu những đại biểu xứng đáng vào hội đầu tiên của nước ta

Chỉ hơn 4 tháng sau ngày Độc Lập, toàn thể nhân dân ta đón chào ngày hội lớn - ngày Tổng tuyển cử. Dưới ách thống trị tàn bạo của đế quốc và phong kiến, người dân Việt Nam bị tước đoạt mọi quyền dân chủ. Cách mạng tháng Tám đã thổi một luồng gió mới vào mọi mặt của đời sống xã hội, đem lại quyền làm chủ cho mỗi công dân. Lần đầu tiên, mọi người được tự do thảo luận, bàn bạc và chọn lựa những đại biểu xứng đáng vào Quốc hội của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Nhưng cuộc bầu cử diễn ra trong một hoàn cảnh chính trị rất phức tạp. ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ, thực dân Pháp đã mở rộng cuộc chiến tranh xâm lược. Chúng âm mưu chia cắt lâu dài đất nước ta, dựng lên chế độ "Nam Kỳ tự trị" với một chính phủ bù nhìn tay sai. ở phía Bắc, 18 vạn quân Tưởng lấy danh nghĩa đồng minh tràn vào tước vũ khí quân Nhật. Chúng kéo theo bè lũ tay sai Việt Nam quốc dân đảng, Việt Nam cách mệnh đồng minh hội... về nước, hòng chiếm lấy chính quyền. ỷ thế bọn Tưởng, những tên Việt gian hoành hành dữ dội, nói xấu chính phủ lâm thời, phá hoại tổng tuyển cử và gây ra nhiều vụ cướp của, giết người rất dã man. Mặc dầu bọn chúng dùng nhiều thủ đoạn bỉ ổi để đe dọa và xuyên tạc, nhân dân các nơi vẫn phân biệt được trắng đen, bày tỏ niềm tin tưởng vào những đại biểu Việt Minh và những người yêu nước chân chính. Nhân dân Hà Nội rất phấn khởi khi được tin Hồ Chủ tịch ứng cử ở Thủ đô; 118 vị đại biểu các tầng lớp ở ngoại thành Hoàng Diệu (tức là Hà Nội) đã gửi thư "đề nghị cụ Hồ Chí Minh không phải ứng cử trong cuộc tổng tuyển cử này và suy tôn cụ là Chủ tịch vĩnh viễn của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa". Hồ Chủ tịch đã gửi lời cảm tạ và nói: "Tôi là một công dân nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nên không thể vượt qua thể lệ tổng tuyển cử đã định". Trong lời phát biểu ngày 5 tháng 1, Người kêu gọi "Ngày mai là một ngày sẽ đưa quốc dân ta đến con đường mới mẻ. Ngày mai là một ngày vui sướng của đồng bào ta, vì ngày mai là ngày Tổng tuyển cử, vì ngày mai là ngày đầu tiên trong lịch sử Việt Nam mà nhân dân bắt đầu được hưởng quyền dân chủ của mình".

Từ sáng sớm ngày 6 tháng 1, nhân dân Hà Nội đã nô nức đi bỏ phiếu với nét mặt hân hoan, áo quần tươi sắc. Hồ Chủ tịch và các vị trong chính phủ cùng đi bỏ phiếu với nhân dân tại các trụ sở khu phố.

ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ, cuộc bầu cử được tiến hành trong khói lửa chiến tranh. Giặc Pháp cho máy bay oanh tạc, mở những cuộc hành quân càn quét, tung tay sai đi phá hoại bầu cử. Chỉ tính riêng những người làm công tác vận động, đã có hơn bốn chục cán bộ hy sinh anh dũng. Lá phiếu trong cuộc bầu cử này được gọi là "lá phiếu máu" vì nó thấm máu của những chiến sĩ đã quên mình cho nền Độc lập của Tổ quốc, vì sự nghiệp Kháng chiến cứu nước, vì công cuộc xây dựng chính quyền cách mạng.

Với lòng yêu nước nồng nàn, ý chí quyết tâm xây dựng và bảo vệ Nhà nước dân chủ cộng hòa, toàn thể nhân dân từ Nam chí Bắc đã tham gia bỏ phiếu. Hồ Chủ tịch trúng cử với tỷ lệ cao nhất 98,4% số phiếu bầu.

Trong cuộc mít tinh của 40 ngàn đồng bào thủ đô chào mừng các đại biểu đã trúng cử, Hồ Chủ tịch tuyên bố: "Trong cuộc tranh thủ hoàn toàn độc lập, chúng tôi thề xin đi trước!".

Ngày 2 tháng 3, Quốc hội họp kỳ thứ nhất. Đây là Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, bao gồm 403 đại biểu, trong đó 87 phần trăm là những người xuất thân từ công nhân, nông dân, viên chức và quân nhân cách mạng. Lần đầu tiên ở nước ta, và ở cả vùng Đông Namá, xuất hiện một quốc hội thật sự dân chủ, được bầu theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Thắng lợi của cuộc Tổng tuyển cử thể hiện niềm tin sắt đá của toàn dân vào sự lãnh đạo của Đảng và Hồ Chủ tịch. Nó biểu dương sức mạnh đại đoàn kết của dân tộc trong cuộc chiến đấu chống ngoại xâm, đập tan bọn phản động, xây dựng chế độ xã hội mới. Quốc hội đã công nhận Chính phủ liên hiệp kháng chiến do Hồ Chủ tịch đứng đầu. Trong lời bế mạc kỳ họp thứ nhất. Người nói: "Chúng ta cùng hứa với nhau rằng Quốc hội họp lần này là Quốc hội Kháng chiến và Chính phủ cử ra là Chính phủ Kháng chiến. Tôi mong rằng Quốc hội họp lần sau sẽ là Quốc hội Thắng lợi và Chính phủ sẽ là Chính phủ Thắng lợi". Người đại biểu quốc hội mang tấm thẻ số 305 đã xứng đáng với niềm tin của nhân dân, đã hoàn thành vẻ vang trách nhiệm của người công dân số Một, đã hiến trọn đời mình cho sự nghiệp quang vinh của cách mạng, đó là Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại.

Đúng như lời Hồ Chủ tịch, Quốc hội khóa I đã làm tròn nhiệm vụ vẻ vang của sự nghiệp kháng chiến chống thực sân Pháp. Trong thời gian từ 1946 đến 1960 (vì điều kiện chiến tranh không tổ chức bầu cử theo đúng nhiệm kỳ 4 năm một lần), Quốc hội đã thông qua hiến pháp đầu tiên của nước ta, đã ban hành sắc lệnh cải cách ruộng đất và phê chuẩn hiệp định Giơ-ne-vơ về ViệtNam. Quốc hội đã thông qua luật công đoàn, xác định địa vị lãnh đạo của giai cấp công nhân; ban hành các đạo luật bảo đảm quyền tự do dân chủ của nhân dân, luật hôn nhân và gia đình. Quốc hội đã ra các nghị quyết cải tạo và xây dựng miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội và cuối năm 1959, thông qua bản Hiến pháp xã hội chủ nghĩa của nước ta.

Quốc hội khóa II (1960 - 1964) có 453 đại biểu. Vì điều kiện đất nước tạm thời bị chia làm 2 miền, 91 đại biểu miền Nam của khóa I vẫn tiếp tục tham gia khóa II, không phải thông qua bầu cử. Quốc hội khóa II không ngừng tăng cường và củng cố chuyên chính vô sản, động viên toàn dân đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội làm cơ sở cho cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà.

Quốc hội khóa II (1964-1971) và khóa IV (1971-1975) đã hoàn thành thắng lợi sự nghiệp chống Mỹ cứu nước, đế quốc Mỹ buộc phải ký hiệp định Paris, quân Mỹ buộc phải cút khỏi Việt Nam, chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược hai miền đất nước ta.

Quốc hội khóa V được bầu ra ngày 6-4-1975. Không đầy một tháng sau, chiến dịch Hồ Chí Minh đại thắng, cả miền Nam được hoàn toàn giải phóng. Quốc hội ra sức chuẩn bị cho công tác thống nhất nước nhà về mặt nhà nước. Một năm sau, tháng 4-1976, nhân dân cả nước đã sôi nổi đi bầu một Quốc hội chung của nước Việt Nam thống nhất. Trong ngày hội lịch sử của non sông, ý chí của toàn dân tộc thể hiện trên những lá phiếu thiêng liêng; 98,77% số cử tri đi bầu đã chọn lựa 492 đại biểu ưu tú của toàn dân. Ngày 24 tháng 6 năm 1976, Quốc hội chung cả nước đã khai mạc kỳ họp đầu tiên tại Hà Nội.

Trên suốt chặng đường 30 năm đấu tranh anh dũng của toàn dân tộc, Quốc hội đã hoàn thành sứ mệnh thiêng liêng là người đại biểu đáng tin cậy của nhân dân, là cơ quan quyền lực cao nhất của đất nước, là nơi tập trung trí tuệ của giai cấp công nhân và các tầng lớp nhân dân lao động. Quốc hội đã thể hiện tinh thần đại đoàn kết, ý chí thống nhất đất nước và lòng quyết tâm xây dựng Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Những thành tựu rực rỡ, những trang sử vẻ vang của Quốc hội nước ta gắn liền với từng bước đi của dân tộc được bắt đầu từ ngày 6 tháng 1 năm 1946, ngày tổng tuyển cử đầu tiên của nhân dân Việt Nam.

27-1-1973 Ký hiệp định Paris, chấm dứt chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ ở Việt Nam

 

Báo nhân dân số ra ngày chủ nhật 28-1-1973 đã in trên trang nhất những dòng chữ to, nét đậm, in hai màu đỏ và đen nổi bật:

Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã giành được thắng lợi vĩ đại.

Hiệp định Pa-ri đã được ký chính thức.

Từ 7 giờ sáng nay, chiến tranh chấm dứt ở cả hai miền nước ta.

Thế là "Chính nghĩa đã thắng phi nghĩa! ý chí bất khuất đã thắng bạo tàn! Việc đạt một Hiệp định như vậy là một thắng lợi vĩ đại của nhân dân Việt Nam" - như tuyên bố của Cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ tại cuộc họp báo lớn vào chiều ngày 24-1-1973 ở thủ đô Pa-ri.

Trong những ngày tháng Giêng năm bảy mươi ba đó, tất cả các báo chí, các đài phát thanh và vô tuyến truyền hình ở Pa-ri cũng như ở trên thế giới đều liên tiếp đưa tin về Hội nghị Pa-ri và bản Hiệp định chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam. Trung tâm các hội nghị quốc tế ở đại lộ Clê-be đã trở thành trung tâm thu hút sự chú ý của dư luận toàn thế giới.

Những ngày lịch sử nối tiếp nhau dồn dập.

Ngày 22-1-1973, các chuyên viên của Việt Nam và Hoa Kỳ so lại lần cuối củng các văn kiện đã thỏa thuận xong giữa hai bên.

Ngày 23-1-1973, đúng 12 giờ 30 phút (giờ Paris) Hiệp định chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam đã được ký tắt giữa cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ và Kít-xinh-giơ.

Ngày 27-1-1973, đúng 11 giờ (giờ Paris) Hiệp định chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam đã được ký chính thức giữa các bộ trưởng ngoại giao của các bên.

Cùng ngày, bốn Nghị định thư của Hiệp định cũng đã được ký kết.

Như thế là sau 4 năm, 8 tháng, 14 ngày, với 202 phiên họp công khai và 24 đợt gặp riêng, cuộc đấu tranh của nhân dân ta trân bàn thương lượng đã giành được thắng lợi. Tập văn bản Hiệp định và Nghị định thư bằng hai thứ tiếng Việt và Anh đã được thỏa thuận xong. Buổi lễ ký kết đã diễn ra trong khung cảnh tranh nghiêm tại phòng họp lớn của trung tâm các hội nghị quốc tế Clê-be. ở bên ngoài, dọc đại lộ Clê-be, hàng ngàn đại biểu Việt kiều và nhân dân Pháp đã nồng nhiệt vỗ tay, vẫy cờ đỏ sao vàng và cờ xanh đỏ có sao vàng ở giữa, hô khẩu hiệu chào mừng các đại biểu Việt Nam chiến thắng.

Năm 1954, Hiệp định Giơ-ne-vơ về Đông Dương vừa ký còn chưa ráo mực, đế quốc Mỹ đã nhảy vào, nhanh chóng hất cẳng thực dân Pháp và âm mưu biến miền Nam nước ta thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của chúng. Từ đó, nhân dân ta đã phải đương đầu chống lại tên đế quốc đầu sỏ, giàu mạnh nhất trong phe đế quốc chủ nghĩa, đã lần lượt đánh bại mọi chiến lược chiến tranh cực kỳ tàn bạo và xảo quyệt của kẻ thù - chiến lược thống trị miền Nam bằng những thủ đoạn điển hình của chủ nghĩa thực dân kiểu mới, chiến lược chiến tranh "đặc biệt" chiến lược "chiến tranh cục bộ" và chiến lược chiến tranh "Việt Nam hóa".

Năm 1968, sau những thất bại nặng nề của chiến lược chiến tranh cục bộ và chiến tranh phá hoại ở miền Bắc, ngày 31-3-1968, tổng thống Mỹ Giôn-xơn đã phải tuyên bố ném bom hạn chế từ vĩ tuyến 20 trở vào; ngày 1-11, Mỹ phải chấm dứt không điều kiện chiến tranh phá hoại miền Bắc. Vì vậy, từ ngày 13-5-1968 ta đồng ý ngồi nói chuyện với Mỹ ở Pa-ri. Sau đó, khi Mỹ đã phải chấp nhận đại biểu Mặt trận Dân tộc Giải phóng (từ 6-1969 là Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam), hội nghị bốn bên đã được bắt đầu tư ngày 18-1-1969. Những cuộc thương lượng đã kéo dài với cuộc đấu tranh hết sức gay go phức tạp, do phía Mỹ luôn luôn theo đuổi chính sách "đàm phán trên thế mạnh", đòi ta phải chấp nhận những điều kiện do Mỹ đặt ra. Năm 1969, sau khi lên cầm quyền, Ních-xơn đã thi hành chiến lược chiến tranh "Việt Nam hóa", mở rộng và đẩy mạnh cuộc chiến tranh lên tới mức ác liệt nhất, hòng cứu vãn tình thế nguy ngập của Mỹ và tay sai. Nhưng Mỹ vẫn thất bại và bọn tay sai ngày càng suy sụp nghiêm trọng.

Tháng 10-1972, Mỹ đã phải chấp nhận bản dự thảo Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam, do ta chủ động đưa ra. Ngày 22-10-1972, văn bản Hiệp định đã được hoàn thành giữa ta và Mỹ. Nhưng, ngày ngày hôm sau, Mỹ lại tráo trở, lật lọng. Đầu tháng 12-1972, Mỹ lại ngang ngược đòi sửa đổi nhiều điểm quan trọng trong nội dung Hiệp định, đồng thời tính toán bước leo thang mới, hòng gây áp lực đối với ta trên bàn thương lượng.

Cuối tháng 12-1972, Ních-xơn tàn bạo và tráo trở đã huy động một lực lượng lớn không quân chiến lược và chiến thuật mở cuộc tập kích đánh phá có tính chất hủy diệt dã man thủ đô Hà Nội, thành phố cảng Hải Phòng và nhiều địa phương khác trên miền Bắc. Trong mười hai ngày đêm đọ sức quyết liệt của trận "Điện Biên Phủ trên không" ấy, quân và dân ta đã bắn rơi 81 máy bay, trong đó có 34 chiếc B.52 và 5 chiếc F.111 - những con chủ bài cuối cùng của Mỹ.

Trước những thất bại hết sức nặng nề trong cuộc tập kích chiến lược ấy, bị lên án và cô lập hơn bao giờ hết về chính trị trên thế giới và ngay cả trong nước Mỹ, tập đoàn Ních-xơn đã phải từ bỏ thái độ "thương lượng trên thế mạnh", cuối cùng phải ký Hiệp định Pa-ri về Việt Nam vào ngày 27-1-1973.

Hiệp định nêu rõ: Hoa Kỳ và các nước khác cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam.

Hoa Kỳ phải hoàn toàn chấm dứt chiến tranh xâm lược, chấm dứt sự dính líu về quân sự và can thiệp vào công việc nội bộ của miền Nam Việt Nam. Rút hết quân đội của Mỹ và của các nước khác, cố vấn và nhân viên quân sự, vũ khí và dụng cụ chiến tranh, hủy bỏ tất cả các căn cứ quân sự.

Tôn trọng quyền tự quyết và bảo đảm các quyền tự do dân chủ của nhân dân miền Nam ViệtNam. Nhân dân miền Nam Việt Nam tự quyết định tương lai chính trị của mình thông qua tổng tuyển cử thật sự tự do và dân chủ.

Không bao lâu sau Hội nghị Pari, từ ngày 27-2 đến 2-3-1973, cũng tại trung tâm các hội nghị quốc tế đại lộ Clê-be đã tiến hành Hội nghị quốc tế về Việt Nam. Với sự tham gia của các vị bộ trưởng ngoại giao thay mặt 12 chính phủ (Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Cộng hòa Miền Nam Việt Nam, Liên Xô, Trung Quốc, Ba Lan, Hungari, Pháp, Hoa Kỳ, Anh...) và với sự có mặt của ông Tổng thư ký Liên hợp quốc, Hội nghị đã chính thức ký "Định ước của Hội nghị quốc tế về Việt Nam". Bản Định ước trịnh trọng ghi nhận, tuyên bố tán thành và ủng hộ Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam ký ngày 27-1-1973 và bốn Nghị định thư kèm theo, khẳng định rằng hiệp định và các Nghị định thư phải được tôn trọng và thi hành nghiêm chỉnh: công nhận và cam kết tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam và quyền tự quyết của nhân dân miền Nam Việt Nam.

Hiệp định Paris được ký ngày 27-1-1973 là thắng lợi vĩ đại của nhân dân Việt Nam anh hùng sau 30 năm tiến hành chiến tranh giải phóng dân tộc, nhất là sau hơn 18 năm kiên trì chiến đấu chống Mỹ, cứu nước, vượt qua muôn vàn hy sinh gian khổ và ghi lại những trang rực rỡ nhất trong lịch sử dân tộc.

Đó là thắng lợi vĩ đại của tinh thần "không có gì quí hơn độc lập tự do" của sức mạnh đoàn kết dân tộc trong cả nước, từ Bắc chí Nam. Là thắng lợi rực rỡ của chủ nghĩa Mác - Lê-ninbách chiến bách thắng, của đường lối chính trị, quân sự và ngoại giao đứng đắn, sáng tạo của Đảng ta.

Đó cũng là thắng lợi vẻ vang của nhân dân ba nước Đông Dương - những người bạn chiến đấu cùng chiến hào chống kẻ thù chung.

Đó cũng là thắng lợi có ý nghĩa thời đại của phong trào cách mạng thế giới, của các lực lượng xã hội chủ nghĩa, độc lập dân tộc, dân chủ và hòa bình, của nhân dân yêu chuộng tự do, công lý trên toàn thế giới.

Với việc ký kết Hiệp định Paris, đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai đã phải chấp nhận những thất bại hết sức nặng nề, nhưng chúng vẫn chưa chịu từ bỏ những âm mưu duy trì chủ nghĩa thực dân kiểu mới đối với miền Nam nước ta. Ngay từ khi Hiệp định Paris vừa được ký kết, Mỹ - ngụy đã liên tiếp vi phạm, phá hoại trắng trợn các điều khoản chủ yếu của bản Hiệp định. Chúng đã tiếp tục tiến hành cuộc chiến tranh thực dân kiểu mới trên qui mô lớn bằng các kế hoạch cực kỳ tàn bạo. Đế quốc Mỹ đã tăng cường viện trợ quân sự cho ngụy quyền tay sai, vẫn duy trì bộ máy chỉ huy chiến tranh với hàng vạn cố vấn và nhân viên quân sự Mỹ đội lốt dân sự. Chúng ôm ấp hy vọng chỉ ba năm sau đó, đến năm 1976, sẽ có thể ung dung xây dựng và củng cố chế độ thực dân kiểu mới ở miền Nam và thực hiện chia cắt lâu dài đất nước ta.

Rõ ràng nhân dân ta không có cách nào khác là phải dùng bạo lực cách mạng để chống lại bạo lực phản cách mạng của chúng. Để bảo vệ và thi hành Hiệp định Paris, quân và dân ta đã trừng trị đích đáng mọi hành động phá hoại đầy tội ác của chúng, không những ở các nơi chúng lấn chiếm mà còn ở tất cả các căn cứ xuất phát của chúng.

Thắng lợi vĩ đại, trọn vẹn của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy long trời lở đất vào mùa Xuân năm 1975 của quân dân ta đã đập tan mọi hành động phá hoại của Mỹ - ngụy, lật đổ toàn bộ chế độ kìm kẹp thực dân kiểu mới của chúng, và đã giải phóng hoàn toàn miền Nam, kết thúc vẻ vang cuộc kháng chiến vĩ đại nhất trong lịch sử 4000 năm của dân tộc. 3-2-1930 Thành lập Đảng cộng sản Việt Nam

 

Sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất, đế quốc Pháp lại đẩy mạnh khai thác thuộc địa Đông Dương. Xã hội Việt Nam tiếp tục phân hóa sâu sắc. Giai cấp nông dân bị phá sản khốc liệt. Giai cấp tư sản dân tộc sinh sau đẻ muộn, bộc lộ sự non yếu về mọi mặt. Một bộ phận giai cấp tiểu tư sản toan phất ngọn cờ tư tưởng tư sản để tập hợp quần chúng xung quanh Việt Nam Quốc dân Đảng (thành lập tháng 12-1927). Nhưng vì bất lực cho nên sau cuộc bạo động non ở Yên Bái (đầu năm 1930) tổ chức đó tan rã, và ngọn cờ phản đế, phản phong, ngọn cờ giải phóng dân tộc chuyển hẳn về tay gai cấp vô sản.

Yêu cầu khách quan lúc này là giai cấp công nhân phải được tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lê-nin để trở thành giai cấp "Tự giác" vươn lên đảm nhiệm sứ mệnh lịch sử lãnh đạo cách mạng Việt Nam.

Đó cũng là lúc đồng chí Nguyễn ái Quốc, tiêu biểu cho tinh thần yêu nước và cách mạng ViệtNam tìm gặp chân lý của thời đại mới.

Năm 1917, cách mạng Tháng Mười Nga thành công. Mặc dù bị đế quốc bưng bít, xuyên tạc, nhưng "nhân dân Việt Nam cũng thầm nghe nói rằng ở một góc trời xa xăm, có một dân tộc đã đánh đuổi được bọn bóc lột và hiện đang quản lý lấy đất nước mình mà không cần tới bọn chủ và bọn toàn quyền (lời Hồ Chủ tịch).

"Cho một bát vàng không bằng chỉ đàng làm ăn". Cách mạng Tháng Mười Nga đã giúp đồng chí Nguyễn ái Quốc vượt qua sự hạn chế của chủ nghĩa yêu nước của các sĩ phu và của các nhà cách mạng có xu hướng tư sản đương thời. Sau này, phát biểu về cảm xúc của mình khi đọc "luận cương về các vấn đề dân tộc và thuộc địa, của Lê-nin, Người viết: "Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: "Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ. Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta". (Hồ Chí Minh - vì độc lập tự do vì chủ nghĩa xã hội). Tháng 12-1920, tại Đại hội Tua, đồng chí Nguyễn ái Quốc tham gia thành lập Đảng cộng sản Pháp và đồng thời là người cộng sản Việt Nam đầu tiên.

Sớm nhận thấy vai trò lịch sử của giai cấp công nhân, đồng chí Nguyễn ái Quốc đã đem hết tinh thần và nghị lực truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin, chuẩn bị về chính trị và tư tưởng cho sự ra đời của chính đảng vô sản ở Việt Nam. Hàng loạt bài viết của Người đăng trên các báo và tạp chí Người cùng khổ, Nhân đạo, Đời sống công nhân và cuốn sách nổi tiếng Bản án chế độ thực dân Pháp, trong suốt thời gian từ 1921-1926 đã chọc thủng tấm lưới thép của thực dân Pháp, được chuyển về Việt Nam, lôi cuốn đặc biệt những người cách mạng trẻ tuổi đầy nhiệt huyết ở nước ta đang khao khát con đường mới.

Tháng 12-1924, sau khi dự đại hội lần thứ năm Quốc tế Cộng sản, với bí danh là Lý Thụy, Người về Quảng Châu, điểm nóng của cách mạng Trung Quốc, và làm việc dưới danh nghĩa của phái bộ Bô-rô-đin, cố vấn Liên - Xô bên cạnh chính phủ Quốc Dân Đảng Trung Hoa.

Chính ở đây, ngày 19-6-1924, liệt sĩ Phạm Hồng Thái đã ném bom khách sạn Victory ở Sa-diện nhằm giết tên toàn quyền Méc-lanh trên đường công cán đang dự tiệc. Việc không thành, nhưng tấm gương của người anh hùng trên sông Châu như "chim én" báo hiệu mùa xuân".

Tháng 6-1925, trên cơ sở tổ chức yêu nước của Phan Bội Châu và Tâm Tâm Xã, đồng chí Nguyễn ái Quốc thành lập tổ chức Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội, trong đó hạt nhân là Cộng sản Đoàn (lúc đầu có 7 người, cuối 1926 đã có 24 người, tiêu biểu như Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Sơn, Lê Hồng Phong...) Nhiều lớp huấn luyện chính trị được mở tại Quảng Châu để đào tạo cán bộ tung về nước hoạt động. Tuần báo Thanh niên từ tháng 6-1926 và đặc việt cuốn Đường cách mạng (xuất bản năm 1927) đã đề cập đến những vấn đề chiến lược và sách lược của cách mạng Việt Nam được bí mật đưa về nước góp phần tích cực vào việc truyền bá tư tưởng xã hội chủ nghĩa ở trong nước.

Từ sau cuộc bãi công Ba Son (8-1925), phong trào công nhân đã vượt qua giai đoạn tự phát, bước vào giai đoạn tự giác.

Đặc biệt từ mùa xuân 1928, thực hiện chủ trương vô sản hóa, các hội viên của Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội đã vào nhà máy, hầm mỏ, đồn điền để tuyên truyền và tổ chức công nhân. Địch phải thú nhận: năm 1929 có tới 43 cuộc bãi công lớn. Phong trào công nhân trên thực tế đã trở thành lực lượng chính trị nòng cốt cho phong trào giải phóng dân tộc.

Trong khi đó, phong trào yêu nước và dân chủ của tiểu tư sản sau thời kỳ phát triển bồng bột (như đòi tha cụ Phan Bội Châu tháng 12-1925, đám tang cụ Phan Chu Trinh tháng 3-1926)... đã dần dần thể hiện sự bất lực của tư tưởng tư sản và tiểu tư sản.

Phong trào Quốc gia cải lương, tiêu biểu là đảng Lập Hiến của Bùi Quang Chiêu, Nguyễn Phan Long cũng đã từng bước đi vào con đường phản bội dân tộc, làm tay sai cho đế quốc.

Tình hình đó đòi hỏi cấp bách sự lãnh đạo của một đảng kiểu mới của giai cấp công nhân. Trong nội bộ Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội, từ đầu 1929 đã diễn ra cuộc đấu tranh gay gắt giữa quan điểm vô sản và quan điểm tiểu tư sản xung quanh vấn đề thành lập Đảng cộng sản ở Việt Nam. Tư tưởng vô sản đã chiến thắng.

Tháng 3-1929, tại số nhà 5D phố Hàm Long (Hà Nội) Chi bộ cộng sản đầu tiên ra đời gồm 8 đồng chí: Ngô Gia Tự, Nguyễn Đức Cảnh, Trần Văn Cung, Trịnh Đình Cửu...

Đầu tháng 6-1929, tại số nhà 312 phố Khâm Thiên (Hà Nội) 20 đại biểu cộng sản Bắc Kỳ quyết định lập Đông Dương Cộng Sản Đảng.

Mấy tháng sau, An nam Cộng sản Đảng ra đời tại Nam Kỳ (10-1929). Dưới ảnh hưởng của những sự kiện ấy, một tổ chức yêu nước, tiến bộ, thành lập ở Trung Kỳ giữa năm 1925, lấy tên là Tân Việt cách mạng Đảng, sau lại đổi tên là Đông Dương Cộng sản Liên đoàn (1-1930).

Như thế là đầu năm 1930 ở nước ta có 3 tổ chức đều tự nhận là cộng sản và đều tìm cách tranh thủ sự thừa nhận của Quốc tế Cộng sản. Trong khi tuyên truyền vận động quần chúng, ba tổ chức không khỏi công kích, tranh giành ảnh hưởng trong quần chúng.

Ngày 27-10-1929, Ban chấp hành Quốc tế cộng sản chỉ thị: "Nhiệm vụ quan trọng nhất và cấp bách nhất của tất cả những người cộng sản Đông Dương là thành lập một đảng cách mạng có tính chất giai cấp của giai cấp vô sản, nghĩa là một đảng cộng sản có tính quần chúng ở Đông Dương. Đảng đó phải chỉ có một và là tổ chức cộng sản duy nhất ở Đông Dương".

Ngày 3-2-1930 (mùng 5 tết Canh Ngọ) công nhân Phú Riềng chiếm đồn điền trong một ngày - Ngày Tự Do đầu tiên! Cũng ngày đấy, đồng chí Nguyễn ái Quốc với bí danh là Vương, thay mặt Quốc tế cộng sản chủ trì hội nghị thống nhất Đảng tại một ngôi nhà nhỏ xóm lao động thuộc Cửu Long gần Hương Cảng (Trung Quốc) gồm đồng chí Vương (Bác Hồ), đại biểu Đông Dương Cộng Sản Đảng (Nguyễn Đức Cảnh, Trịnh Đình Cửu), đại biểu An Nam Cộng Sản Đảng (Châu Văn Liêm và Nguyễn Thiệu). Tân Việt mới chuyển thành cộng sản không kịp cử đại diện.

Thế là Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Hôm ấy, chính cương và sách lược vắn tắt do đồng chí Nguyễn ái Quốc thảo cùng với Điều lệ đảng được thông qua. Hội nghị còn cử Ban trung ương lâm thời đại diện cho 211 đảng viên của toàn Đảng.

Đảng ta ra đời là kết quả tất yếu của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lê-nin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước của dân tộc vào cuối những năm 20 của thế kỷ này.

Đảng ta ra đời là một bước ngoặc vĩ đại trong lịch sử cách mạng Việt Nam

Đảng ta ra đời là sự chuẩn bị tất yếu đầu tiên cho thời kỳ vùng dậy oanh liệt nhất và bước nhảy vọt vĩ đại nhất trong lịch sử tiến hòa của dân tộc Việt Nam.

Tháng 10-1930, tại Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ nhất, cùng với việc thông qua bản Luận cương Chính trị do đồng chí Trần Phú, Tổng bí thư đầu tiên của Đảng khởi thảo, Đảng ta mang tên mới là Đảng Cộng sản Đông Dương.

Ngay lúc đó, Đảng ta đã lãnh đạo cao trào 30-31 mà đỉnh cao là Xô Viết Nghệ Tĩnh.

Tháng 3-1935, sau cuộc khủng bố trắng của thực dân Pháp, tại Ma Cao (tô giới Bồ Đào Nha trên đất Trung Quốc) Đại hội lần thứ nhất của Đảng đã họp để chuẩn bị cho một cao trào mới.

Tháng 8-1945 chỉ với 5.000 đảng viên, Đảng ta đã lãnh đạo Cách mạng Tháng Tám thành công, mở ra kỷ nguyên độc lập tự don ở nước ta. Đó là kết quả vĩ đại của cả quá trình 15 năm đấu tranh kể từ khi Đảng ta ra đời (1930-1945).

Tiếp đó, Đảng ta lại lãnh đạo thành công cuộc kháng chiến thần thánh chống thực dân Pháp xâm lược (1946 - 1954). Đảng ta ngày càng lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng. Tháng 2-1951, tại khu rừng thuộc xã Vinh Quang, huyện Chiêm Hóa (Tuyên Quang) Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ hai của Đảng đã họp, nhằm đưa công cuộc Kháng chiến - Kiến quốc đến thắng lợi. Ngày 3-3-1951, Đảng ta ra hoạt động công khai với tên mới là Đảng lao Động Việt Nam, tổng số đảng viên đã lên đến 76 vạn đồng chí.

Giai đoạn 1954-1975 Đảng ta tiếp tục lãnh đạo dân tộc Việt Nam trong cuộc chiến đấu đầy gian khổ nhưng vô cùng oanh liệt chống Mỹ, cứu nước. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã đồng thời giương cao hai ngọn cờ Độc lập dân tộc và Chủ nghĩa xã hội. Qua cuộc đấu tranh vĩ đại ấy, lực lượng của Đảng lớn mạnh hơn bao giờ hết, vượt qua mọi thử thách hy sinh, thực sự là lực lượng tiên phong của cách mạng.

Tháng 9-1960, tại thủ đô Hà Nội, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ ba, đại hội xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thống nhất nước nhà đã khai mạc trọng thể. Đại hội đã nhất trí thông qua đường lối đấu tranh giải phóng miền Nam thống nhất đất nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.

Sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vĩ đại thành công, tháng 12-1976, trong không khí phấn khởi của đất nước vừa thống nhất, Đại hội Đảng lần thứ IV đã họp, nhằm vạch ra con đường đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Với đội ngũ trùng điệp 1 triệu 50 vạn đảng viên, Đảng ta trở lại với cái tên buổi đầu của mình là Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong quanh vinh của giai cấp và dân tộc, chuẩn bị đưa Tổ quốc ta đi tới những thắng lợi huy hoàng hơn nữa.

 

4-2-1977 Ngày thống nhất các tổ chức mặt trận thành mặt trận tổ quốc Việt Nam.

 

"Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết

Thành công, thành công, đại thành công".

Đó là lời căn dặn thiêng liêng của Bác Hồ đối với nhân dân ta, là truyền thống vô cùng quý báu của dân tộc ta.

Trải qua quá trình cách mạng lâu dài, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã đoàn kết trong các Mặt trận thống nhất với những cương lĩnh trính trị, hình thái tổ chức và tên gọi khác nhau phù hợp với các thời kỳ lịch sử, đã đưa sự nghiệp cách mạng nước ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác và ngày càng thắng lợi rõ hơn.

Đó là Mặt trận dân tộc phản đế Đông Dương (Hội Phản đế Đồng Minh), Mặt trận dân chủ Đông Dương, Mặt trận Dân tộc Thống nhất Phản đế Đông Dương và Mặt trận Việt Nam độc lập Đồng Minh (Việt Minh) trong thời kỳ 1930-1945 đã đưa tới thắng lợi của cuộc Cách mạng tháng Tám vĩ đại và sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Đó là Mặt trận Việt Minh, Hội liên hiệp quốc dân Việt Nam trong thời kỳ 1946 - 1954 đã làm nên chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ lẫy lừng, đưa cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đến thắng lợi vẻ vang.

Đó là mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và Liên minh các lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hoà bình Việt Nam trong thời kỳ 1955-1975 đã đi tới thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy vĩ đại mùa Xuân năm 1975, đánh thắng hoàn toàn đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, thực hiện thống nhất Tổ quốc, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.

Với thắng lợi hoàn toàn của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, cách mạng nước ta đã chuyển sang giai đoạn mới - giai đoạn xây dựng Tổ quốc Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất và xã hội chủ nghĩa. Nhân dân cả nước ta đã bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên của chủ nghĩa xã hội.

Những nhiệm vụ chính trị to lớn và nặng nề đó đòi hỏi Mặt trận thống nhất của dân tộc phải có bước phát triển mới, không ngừng được củng cố và mở rộng, thật sự trở thành Mặt trận của những người yêu nước và yêu chủ nghĩa xã hội.

Trong niềm vui đại thắng của đất nước, ngày 31-1-1977 Đại hội đại biểu Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt Nam đã được triệu tập tại TP Hồ Chí Minh. Gần 500 đại biểu thay mặt cho Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, Liên Minh các lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hòa bình Việt Nam, thay mặt cho các chính đảng, các đoàn thể, quân đội, nhân dân các dân tộc, các tôn giáo, các nhân sĩ trí thức, các nhà công thương... đã tham dự Đại hội. Đó là hình ảnh tiêu biểu rực rỡ của khối đại đoàn kết toàn dân.

Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam Tôn Đức Thắng đã đọc lời khai mạc Đại hội.

Trong ngày làm việc đầu tiên, Đại hội đã được nghe đồng chí Lê Duẩn, Tổng bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam phát biểu ý kiến.

Đại hội đã nghe Báo cáo chính trị, Chương trình chính trị và Dự thảo Điều lệ của Ban trù bị đại hội.

Các đại biểu của các chính đảng, các đoàn thể, các tầng lớp nhân dân, các dân tộc, các tôn giáo, các nhân sĩ... đã phát biểu ý kiến, khẳng định ý chí đoàn kết sắt đá, quyết tâm xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.

Trong phiên họp bế mạc, chiều ngày 4-2-1977, Đại hội đã thông qua các văn kiện quan trọng: Nghị quyết của Đại hội về tên gọi, về Chương trình chính trị và Điều lệ của Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt Nam.

Nghị quyết của Đại hội đã hoàn toàn nhất trí việc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền nam Việt Nam và Liên minh Các lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hòa bình Việt Nam thống nhất lại thành Mặt trận dân tộc duy nhất, lấy tên là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam nhằm đoàn kết tất cả các chính đảng, các đoàn thể cách mạng, các giai cấp tiến bộ, các dân tộc, các tôn giáo, các nhân sĩ ở trong nước và kiều bào ở nước ngoài củng nhau phấn đấu xây dựng Tổ quốc Việt Nam Hòa bình, Độc lập, Thống nhất và Xã hội Chủ nghĩa.

Đại hội đã thông qua Chương trình chính trị của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam gồm 8 điểm quan trọng.

1 - Xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa.

2 - Xây dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.

3 - Xây dựng nền văn hóa mới và con người mới xã hội chủ nghĩa.

4 - Chăm sóc đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân.

5 - Củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh chính trị và trật tự xã hội.

6 - Thực hiện dân tộc bình đẳng, nam nữ bình quyền và tôn trọng tự do tín ngưỡng.

7 - Tăng cường quan hệ hữu nghị và hợp tác quốc tế.

8 - Đoàn kết rộng rãi các lực lượng yêu nước và yêu chủ nghĩa xã hội.

Đại hội đã thông qua Điều lệ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam dựa trên các nguyên tắc: bảo đảm đoàn kết rộng rãi tất cả các lực lượng yêu nước và tán thành chủ nghĩa xã hội, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và dựa trên cơ sở liên minh công nông; tăng cường thống nhất hành động trong Mặt trận, phát huy vai trò tích cực của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

Đại hội đã cử ra ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam gồm 191 vị tiêu biểu cho khối đại đoàn kết toàn dân. Đại hội đã nhất trí cử Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam Tôn Đức Thắng làm Chủ tịch danh dự của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Đoàn chủ tịch của ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam gồm 54 vị, do đồng chí Hoàng Quốc Việt làm chủ tịch.

Đại hội đã ra lời kêu gọi gửi đồng bào và chiến sĩ cả nước, kiều bào ở nước ngoài. Lời kêu gọi có đoạn viết: "Đại hội Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam kêu gọi đồng bào và chiến sĩ cả nước, đã đoàn kết hãy đoàn kết chặt chẽ hơn nữa, phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, nêu cao ý thức tự lực tự cường, khí phách anh hùng và tinh thần cách mạng tiến công, ra sức thực hiện nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chương trình Chính trị của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam!"

Đại hội Mặt trận dân tộc thống nhất đã kết thúc tốt đẹp và thành công rực rỡ.

"Mặt trận Tổ quốc ngày nay là sự tập hợp rộng lớn của nhân dân nước Việt Nam độc lập, thống nhất đã làm chủ hoàn toàn đất nước của mình đã bước vào một kỷ nguyên mới - Kỷ nguyên xã hội chủ nghĩa và là một bảo đảm thắng lợi của cuộc cách mạng mới".

Trước đây với sức mạnh đại đoàn kết vĩ đại nhân dân ta đã chiến thắng hai tên đế quốc xâm lược là Pháp và Mỹ. Ngày nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đoàn kết toàn dân để xây dựng thành công Chủ nghĩa xã hội - sự nghiệp của đông đảo quần chúng lao động.

 

8-3-1911 Ngày quốc tế phụ nữ

 

Hội nghị quốc tế phụ nữ xã hội chủ nghĩa năm 1910, họp tại Cô-pen-ha-gen, thủ đô nước Đan Mạch, đã thông qua một quyết nghị quan trọng: Ngày 8 tháng 3 hàng năm được chọn làm ngày Quốc tế Phụ nữ, ngày đoàn kết đấu tranh của phụ nữ thế giới. Đề nghị của ba nhà hoạt động xuất sắc là Rô-la Lúc-xăm-bua (Ba Lan), Cla-ra Xét-ki-kin (Đức) và Cơ-rúp-xkai-a (Nga) được 100 đại biểu phụ nữ của 17 nước nhất trí tán thành.

Lịch sử ngày 8-3 bắt nguồn từ thành phố Si-ca-gô, một trung tâm công nghiệp của Mỹ, nơi đã từng xuất phát cuộc đấu tranh ngày Một tháng Năm năm 1886.

Cũng như ở nhiều nước tư bản chủ nghĩa khác, lao động phụ nữ và trẻ em ở Mỹ bị coi rẻ, đồng lương thấp kém, điều kiện ăn ở thiếu thốn. Công nhân đã bị bóc lột nặng nề thì ngường công nhân phụ nữ lại càng vất vả, cùng cực. Ngày 8-3-1899, nữ công nhân ngành dệt và ngành may ở Si-ca-gô đã tiến hành bãi công đòi tăng lương, giảm giờ làm. Mặt dầu bị bọn cầm quyền khủng bố dữ dội, chị em công nhân Si-ca-gô được công nhân toàn quốc ủng hộ vẫn không chịu lùi bước. Họ buộc chủ phải chấp nhận yêu sách của họ nhằm cải thiện điều kiện lao động và sinh hoạt.

Thắng lợi bước đầu đã khích lệ phong trào đấu tranh của nữ công nhân ở Mỹ và ở nhiều nước trên thế giới. Năm 1909 nhân dân Mỹ đã tổ chức "Ngày phụ nữ" bằng những cuộc mít tinh, biểu tình đòi quyền lợi cho phụ nữ. Riêng ở thành phố New York, cuộc họp của hơn 3000 phụ nữ đã quyết nghị phản đối chính phủ Mỹ không công nhận quyền bầu cử của họ.

Nghị quyết năm 1910 của Hội nghị quốc tế phụ nữ xã hội chủ nghĩa đã nêu cao khẩu hiệu ngày làm việc 8 giờ, công việc ngang nhau thì tiền lương ngang nhau so với nam giới, bảo vệ bà mẹ và trẻ em, thực hiện quyền bình đẳng nam nữ. Năm sau, đúng vào ngày 8 tháng 3, nữ công nhân cùng với phụ nữ các ngành, các giới nhiều nước đã đứng lên tranh đấu. Nhiều cuộc mít tinh, biểu tình, bãi công nổ ra ở các nước châu Âu như Pháp, Anh, áo, ý, Đức, Đan Mạch... Trước nguy cơ của cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất, đông đảo phụ nữ các nước lên tiếng phản đối bọn đế quốc, đòi ngăn chặn cuộc chém giết tàn bạo chỉ đem lại lợi nhuận cho bọn tư sản.

Nước Nga xô- viết, quê hương của Cách mạng tháng Mười, Tổ quốc của Lê-ninvĩ đại, là nơi đầu tiên thực hiện quyền bình đẳng nam nữ. Hiến pháp nhà nước xô- viết ghi nhận các quyền chính trị, quyền lao động và học hành, quyền tự do bình đẳng của phụ nữ. Trong xã hội đó, người phụ nữ Xô viết cũng mang hết khả năng của mình để phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thân yêu.

Lực lượng phụ nữ thế giới đã từng đấu tranh sôi nổi chống chủ nghĩa phát xít và đòi ngăn ngừa nguy cơ chiến tranh thế giới lần thứ lần thứ hai. Để bảo vệ đất nước thân yêu, phụ nữ nhiều nước đấu tranh đòi hòa bình, công lý và bình đẳng. Nhiều chị em đã hiên ngang ngã xuống trước mũi súng bọn phát xít để bảo vệ nền độc lập Tổ quốc và gìn giữ tương lai tươi đẹp của con em.

Cuối năm 1945, hội nghị quốc tế phụ nữ đã quyết định thành lập "Liên đoàn phụ nữ dân chủ thế giới". Đó là một tổ chức rộng rãi bao gồm phụ nữ các ngành nghề, không phân biệt chủng tộc, dân tộc, tôn giáo, chính kiến, đấu tranh bảo vệ các quyền bình đẳng, chống áp bức bóc lột. Liên đoàn đã đưa ra các yêu sách đòi trả lương ngang nhau đối với những công việc như nhau, đòi ban hành các chính sách bảo hiểm cho lao động phụ nữ, đòi đề ra những biện pháp thiết thực bảo vệ bà mẹ và trẻ em.

Năm 1953, Đại hội quốc tế phụ nữ đã thông qua bản "Tuyên ngôn về quyền phụ nữ", nêu lên các yêu sách cơ bản và đồng thời là cương lĩnh đấu tranh của chị em thế giới. Số thành viên tham gia vào Liên đoàn phụ nữ dân chủ thế giới ngày càng đông đảo. Đặc biệt là phụ nữ các nước mới giành được độc lập châu á, châu Phi và Mỹ la tinh đã đóng vai trò ngày càng quan trọng trong phong trào. Năm 1975 được coi là "Năm phụ nữ" nhằm đẩy mạnh cuộc đấu tranh của phụ nữ thế giới.

Từ năm 1948, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của Liên đoàn phụ nữ dân chủ thế giới Phụ nữ Việt Nam đóng góp tích cực vào phong trào phụ nữ thế giới bằng cuộc đấu tranh cách mạng vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội của Tổ quốc, phụ nữ Việt Nam được chị em phụ nữ thế giới tin yêu và mến phục. Tấm gương chiến đấu dũng cảm của nhiều chị em đã trở thành nguồn cổ vũ mãnh liệt đối với phụ nữ nhiều nước trong cuộc đấu tranh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng phụ nữ. Phụ nữ Việt Nam hoạt động không mệt mỏi cho sự đoàn kết chặt chẽ giữa các lực lượng phụ nữ thế giới, cho sự hiểu biết lẫn nhau và cùng nhau đấu tranh chống kẻ thù chung là chủ nghĩa đế quốc. Đồng thời, Liên đoàn phụ nữ dân chủ thế giới đã tỏ thái độ đồng tình và ủng hộ thiết thực phong trào phụ nữ nước ta. Trong cuộc đấu tranh chống Mỹ, cứu nước vừa qua, chúng ta nhận được sự viện trợ nhiệt tình về tinh thần và vật chất của Liên đoàn và của nhiều tổ chức phụ nữ trên thế giới.

ý nghĩa ngày 8 tháng 3 ngày càng khắc sâu vào ý thức của các tầng lớp nhân dân lao động. Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, ngày 8 tháng 3 được coi như ngày hội biểu dương lực lượng của chị em chúng ta trong sản xuất và công tác, ngày động viên toàn thể chị em đem hết sức lực đóng góp vào sự nghiệp cách mạng của đất nước, ngày đoàn kết phụ nữ thế giới trong cuộc đấu tranh chống đế quốc, giải phóng dân tộc, giải phóng phụ nữ.

 

11-3-1945 Khởi nghĩa Ba Tơ

 

Ba Tơ là một châu miền núi thuộc tỉnh Quảng Ngãi (nay là tỉnh Nghĩa Bình). Tại đây, thực dân Pháp xây dựng một đồn sơn phòng do một tên sĩ quan Pháp chỉ huy và một "căng" giam tù chính trị. Các đồng chí bị an trí ở "căng" này đã thành lập một chi bộ Đảng.

Quảng Ngãi lúc đó là tỉnh có phong trào cách mạng cao nhất ở Trung Bộ. Trước cuộc đảo chính Nhật - Pháp (9-3-1945), cơ sở quần chúng đã chuẩn bị đón thời cơ khởi nghĩa.

Trưa ngày 10 tháng 3 năm 1945, Ba Tơ nhận được tin Nhật làm đảo chính lật đổ Pháp. Ngay tối hôm đó, chi bộ quyết định lãnh đạo khởi nghĩa. Hội nghị cử ra một ủy ban khởi nghĩa, định chương trình và kế hoạch hành động.

Chiều 11 tháng 3, hai cuộc mít tinh lớn do ta tổ chức tại sân vận động Ba Tơ rồi biến thành cuộc biểu tình tuần hành thị uy kéo đến đồn Ba Tơ. Bọn chỉ huy Pháp và một số tên bỏ đồn chạy trốn, chỉ còn lại tên cai đồn và đám lính tập. Sau khi quân khởi nghĩa bao vây, lính địch đầu hàng, ta thu 17 súng, 15 thùng đạn và nhiều quân trang, quân dụng.

Ngày 12 tháng 3, Ban chỉ huy cuộc khởi nghĩa tổ chức một cuộc mít tinh, thành lập chính quyền cách mạng của nhân dân.

Ngày 14 tháng 3, đội du kích Ba Tơ chính thức được thành lập gồm 28 chiến sĩ với 24 khẩu súng. Đây là đội võ trang thoát ly đầu tiên do Đảng ta tổ chức và lãnh đạo ở Trung Trung Bộ.

Tháng 4 năm 1945, đội du lích hoạt động ở một vùng đồng bào Thượng trên dãy Trường Sơn hiểm trở. Quân Nhật tìm cách truy lùng hòng tiêu diệt đội du kích đang còn trong thời kỳ trứng nước.

Đội đã phải chịu đựng muôn vàn khó khăn gian khổ. Từ cán bộ đến chiến sĩ, ai nấy đều giữ trọn lời thề trong ngày thành lập quyết "hy sinh vì Tổ quốc". Trong hoàn cảnh gay go thiếu thốn, đội du kích Ba Tơ đoàn kết keo sơn, gắn bó quân dân. Nằm trong cái nôi vững chắc của đồng bào Thượng, đội du kích mới lọt lòng đã bảo toàn được lực lượng trước thế lực hung hãn của kẻ thù.

Đầu tháng 5 năm 1945, Tỉnh ủy Quảng Ngãi cử đồng chí Nguyễn Chánh làm chính trị viên cùng với các đồng chí Phạm Kiệt và Nguyễn Đôn - những người trực tiếp lãnh đạo Ba Tơ khởi nghĩa - chỉ huy đội du kích. Chi bộ Đảng cũng được thành lập, do đồng chí Nguyễn Chánh làm bí thư.

Lúc này phong trào toàn tỉnh đã lên cao, tổ chức cứu quốc của toàn tỉnh đã có tới 11 vạn người, số tự vệ tới 2000 người, Tỉnh ủy quyết định đưa đội du kích về châu hoạt động làm nòng cốt cho việc xây dựng 2 chiến khu ở trong châu: Chiến khu Bắc ở vùng Vĩnh Tuy (Sơn Tịnh) và Chiến khu Nam ở vùng Núi Lớn (Mộ Đức).

Về Trung châu, các chiến sĩ du kích Ba Tơ tuyên truyền, vận động, tổ chức quần chúng, huấn luyện cho các chiến sĩ tự vệ cứu quốc, du kích địa phương.

Đội du kích Ba Tơ trở thành trung tâm của cao trào chống Nhật cứu nước ở miền Trung Trung bộ và là hạt nhân của các lực lượng vũ trang liên khu V sau này.

Cuộc khởi nghĩa Ba Tơ là một dẫn chứng hùng hồn của tinh thần chủ động, linh hoạt, sáng tạo của tổ chức cơ sở Đảng và tinh thần cách mạng triệt để của nhân dân ta, đã đi vào lịch sử đấu tranh anh dũng của dân tộc ta. 
19.3.1950 Ngày toàn quốc chống Mỹ

 

Bước sang năm 1950, cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam, Lào và Campuchia ngày càng giành được những thắng lợi to lớn về mọi mặt. Bọn thực dân Pháp ngày càng thua thiệt nặng nề và đứng trước nguy cơ thất bại hoàn toàn.

Trước tình hình đó, đế quốc Mỹ đã công khai và ráo riết tiến hành can thiệp vào Đông Dương. Âm mưu của đế quốc quốc Mỹ là gạt dần thực dân Pháp ra khỏi Đông Dương, và biến khu vực này thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của chúng. Từ 1950, bọn Mỹ đủ loại: tướng tá, gián điệp, nghị sỹ, nhà kinh doanh và cả cố đạo, lũ lượt kéo vào Việt Nam. Chúng ngày càng gánh chịu phần chủ yếu về chiến phí của cuộc chiến tranh.

Tháng 3, Gríp-phin cầm đầu phái đoàn viện trợ của Mỹ tới Đông Dương để nghiên cứu tình hình kinh tế và viện trợ cho Đông Dương.

Nghiêm trọng hơn, ngày 16 tháng 3 năm 1950, lần đầu tiên Mỹ cho hai tàu chiến Xtích-Ken và An-đớc-xơn cặp bến Sài Gòn. Đồng thời, chúng lại đưa hàng không mẫu hạm Bốc-xơ chở hằng trăm máy bay chiến đấu kéo vào vùng biển Đà Nẵng. Đây là một hành động can thiệp và đe dọa trắng trợn. Bọn chúng dự định tổ chức một cuộc thao diễn quân sự lớn để diễu võ giương oai, phô trương thanh thế, uy hiếp tinh thần nhân dân ta, đồng thời nâng đỡ tiếp sức cho thực dân Pháp và đẩy mạnh những hoạt động can thiệp của chúng.

Các tầng lớp nhân dân ta theo dõi chặt chẽ, hết sức căm phẫn những hành động can thiệp đầy tội ác của Mỹ, quyết trả lời chúng một cách đích đáng nhất, mạnh mẽ nhất.

Ngay sau khi Gríp-phin chân ước chân ráo tới Sài Gòn, lựu đạn đã nổ quanh khách sạn Công-ti-năng-tan, nơi ở của hắn. Đồng thời, hàng chục trái đạn súng cối của các lực lượng vũ trang nhân dân ta tới tấp nã vào hai tàu chiến Mỹ đang đậu trên sông Thủ Thiêm, buộc chúng phải thay đổi chỗ đậu nhiều lần.

Để phối hợp với những hoạt động của các lực lượng vũ trang, Thành ủy Sài Gòn-Chợ Lớn quyết định tổ chức một cuộc đấu tranh của nhân dân toàn thành phố chống bọn can thiệp Mỹ, vào sáng chủ nhật 19-3-1950. Đó là cuộc biểu dương to lớn ý chí độc lập bất khuất và sức mạnh đoàn kết của nhân dân ta chống đế quốc Mỹ can thiệp, đồng thời kết hợp đòi các quyền tự do dân chủ, dân sinh: chống khủng bố, tự do ngôn luận, chống thất nghiệp, cải thiện đời sống.

Dưới sự lãnh đạo của Thành ủy, nhân dân các giới khắp nơi trong nội ngoại thành sôi nổi hưởng ứng và ráo riết chuẩn bị bằng cờ, khẩu hiệu, truyền đơn và bố trí đội ngũ. Đêm 18.3, bọn cảnh sát đánh hơi biết tin nhưng chúng đã bất lực không sao ngăn chặn nổi làn sóng đấu tranh của quần chúng nhân dân.

Ngày 19.3.1950

Từ 3 giờ sáng, những đoàn người rầm rập từ mọi nơi-Chợ Lớn, Bàn Cờ, Bà Chiểu, rồi Cầu Ông Lãnh, Cột Cờ Thủ ngữ... đều đổ về địa điểm tập trung: Sân trường Tôn Thọ Tường (ở ngã tư các đường Ga-li-ê-ni và Kít-sơ-nè-nay là ngã tư đường Trần Hưng Đạo và Nguyễn Thái Học).

Đến 6 giờ 30 phút, hơn một vạn người với rừng cờ và biểu ngữ đã về tựu chung quanh địa điểm mít tinh. Bọn Pháp và bù nhìn vội vã huy động quân lính và cả môtô, ôtô, xe tăng đến bao vây. Chúng ra lệnh giải tán và đe dọa khủng bố. Nhưng quần chúng không hề nao núng.

8 giờ sáng-đúng giờ quy định-cuộc mít tinh bắt đầu. Số người lúc này đã lên tới 15 vạn, bao gồm đông đủ các tầng lớp nhân dân: công nhân, dân nghèo, học sinh, sinh viên, trí thức và cả các thương gia. Một số viên chức cũng tham gia. Quần chúng đã nhiệt liệt hoan nghênh luật sư Nguyễn Hữu Thọ tới tham dự cuộc mít tinh. Chính luật sư là người đã bác bỏ yêu cầu của Mai Hữu Xuân, "Giám đốc cảnh sát Nam phần" vào tối ngày 18, đòi đình chỉ cuộc biểu tình đấu tranh. Sân trường Tôn Thọ Tường vang động những tiếng hô khẩu hiệu "Đả đảo đế quốc Mỹ can thiệp!" Đả đảo viện trợ Mỹ!". "Đế quốc Mỹ cút đi", "ủng hộ Chính phủ Hồ Chí Minh".

Cuộc mít tinh biến thành cuộc tuần hành thị uy của quần chúng. Xiết chặt đội ngũ của mình, dòng người như thác đổ từ địa điểm mít tinh tràn ra các đại lộ chính của thành phố: đường Ga-li-ê-ni, Chợ Bến Thành, đại lộ Bô-na (nay là đường Lê Lợi), đại lộ Sác-ne (nay là đường Nguyễn Huệ)... Trên đường tuần hành, số người mỗi lúc càng thêm đông: người đi đường nhập vào, người trong nhà ùa theo, thậm chí một số binh lính địch cũng bỏ lon, cởi áo gia nhập. Chẳng bao lâu, đoàn biểu tình đã lên tới 30 vạn, rồi 50 vạn người. Nhiều nhà trong thành phố cũng tự động treo cờ hưởng ứng cuộc đấu tranh.

Tại ngã tư đường Mác-ma-hông Bô-na (nay là ngã tư Nam Kỳ Khởi Nghĩa-Lê Lợi), một toán lính thủy Mỹ đã hoảng sợ bỏ chạy trước khí thế mãnh liệt của đoàn biểu tình.

Tình hình ngày càng căng thẳng. Lính Pháp và bọn cảnh binh tay sai nổ súng bắn vào quần chúng. Nhiều người bị chết, bị thương và hàng chục người bị bắt. Nấp sau "Những chiến lũy" được dựng lên nhanh chóng bằng các xe ôtô buýt, xe vận tải, ghế đá công viên, bàn ghế tiệm ăn và cả củi của chuyến xe lửa vừa chạy tới bị chặn lại, quần chúng chống trả kịch liệt bằng gạch, đá, củi.v.v

Quần chúng vẫn tiến tới như triều dâng thác đổ! Cờ Mỹ, cờ Pháp, cờ ba que của tay sai và ảnh tên bù nhìn Bảo Đại ở nhiều nơi bị giật xuống, xé nát và quăng vào lửa. Xe của lính Pháp bị quật đổ sang bên đường. Một lá cờ đỏ sao vàng lớn được giương cao, bay phất phới trên nóc nhà thị chính. Tại đây, tên thiếu tá Pháp Pe-ri-ơ láo xược giật cờ đỏ sao vàng trong tay quần chúng ném xuống đất đã bị đánh chết ngay tại chỗ. Chiếc xe "giép" của hắn cũng bị đốt cháy ngay.

Cuộc biểu tình khổng lồ của 50 vạn nhân dân Sài Gòn-Chợ Lớn đã kéo dài từ 8 giờ sáng đến 3 giờ chiều.

Đoàn biểu tình kéo xuống tận bến tàu, nơi hai chiếc tàu chiến Mỹ đang thả neo. Bọn Mỹ hoảng sợ, chạy hết lên tàu. Cờ Mỹ trên tàu vội vàng hạ xuống. Và ngay đêm hôm đó, hai chiếc Xtích-ken và An-đớc-xơn vội vã, không kèn không trống chuồn khỏi Sài Gòn.

Cuộc biểu tình khổng lồ ngày 19.3.1950 của nhân dân Sài Gòn-Chợ Lớn chống bọn can thiệp Mỹ đã có tiếng vang lớn ở trong và ngoài nước. Các tờ báo lớn tại Pháp như: "Nhân Đạo", "Chiến đấu"... đều đưa tin và vạch rõ sự thất bại, bất lực của bọn thực dân Pháp và bù nhìn tay sai. Từ Việt Bắc, báo "Sự Thật" số ra ngày 1-4-1950, đã đăng bài xã luận với nhan đề "Tinh thần yêu nước của đồng bào Sài Gòn muôn năm" nhằm biểu dương kịp thời tinh thần đấu tranh bất khuất của nhân dân Thành đồng Tổ quốc.

Cuộc biểu tình ngày 19.3.1950 đã đi vào lịch sử dân tộc- "Ngày toàn quốc chống Mỹ", biểu hiện ý chí kiên cường và sức mạnh vô địch của nhân dân ta trong cuộc chạm trán quyết liệt đầu tiên với đế quốc Mỹ. Cuộc biểu tình ngày 19.3.1950 đã biểu hiện sự sáng suốt của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng, ngay từ đầu đã nhìn thấy rõ kẻ thù nguy hiểm nhất của dân tộc và của loài người, kiên quyết đấu tranh chống lại chúng. Từ đó và kéo dài trong suốt một phần tư thế kỷ, sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta đã trải qua những chặng đường cực kỳ gian khổ nhưng hết sức vẻ vang, đã ghi lại những chiến công hiển hách nhất trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc.

Và nhân dân ta đã toàn thắng!

Đế quốc Mỹ can thiệp và xâm lược đã hoàn toàn thất bại!

Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ trước đây, hằng năm đến ngày 19.3, nhiều Tổ chức quốc tế và nhân dân nhiều nước đã phát động những "Tuần quốc tế đoàn kết với nhân dân Việt Nam", ủng hộ nhân dân ta, chống đế quốc Mỹ xâm lược.

19 tháng 3 đã trở thành một biểu tượng chống Mỹ và thắng Mỹ của nhân dân Việt Nam anh hùng!

19 tháng 5 cũng đã trở thành một biểu tượng của tình đoàn kết quốc tế của nhân dân thế giới và nhân dân ta trong cuộc đấu tranh đế quốc Mỹ- kẻ thù số I của loài người tiến bộ!. 26-3-1931 Thành lập đoàn thanh niên cộng sản đông dương nay là đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh

 

Đảng ta trong quá trình thành lập đã rất chú ý đến vai trò thanh niên. Đó cũng là điều Hồ Chủ tịch hết sức quan tâm.

Ngay khi cho xuất bản tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp, trong phần phụ lục nhan đề Gửi thanh niên Việt Nam Hồ Chủ tịch đã kêu gọi tha thiết: "Đông Dương đáng thương hại, Người sẽ nguy mất nếu đám thanh niên già cỗi của Người không sớm hồi sinh".

Tháng 12-1924, Hồ Chủ tịch về Quảng Châu khi những điều kiện cho việc thành lập một tổ chức cánh mạng đã chín mùi. Tháng 6-1925, một năm sau tiếng bom của liệt sĩ Phạm Hồng Thái, Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng minh Hội được thành lập. Ngay lúc ấy, Người đã thành lập nhóm Thanh niên cộng sản đoàn làm nòng cốt cho Việt Nam Thanh niên đồng chí Hội, lúc đầu chỉ có 9 người, cuối 1926 đã lên đến 26 người, trong đó có các đồng chí như: Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Sơn, Lê Hồng Phong...

Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, công tác thanh niên trong nước xuất hiện ở nhà máy xi măng và trường trung học Bon - Nan (nay là trường Ngô Quyền) ở Hải Phòng. Chi bộ Thanh niên Cộng sản nhà máy xi măng có 10 đoàn viên, ra báo bí mật lấy tên là Tia Lửa.

Trong cao trào Xô viết Nghệ Tĩnh, tổ chức Thanh niên Cộng sản phát triển mạnh, tuy vậy vẫn sinh hoạt chung với chi bộ Đảng, chưa có tổ chức độc lập và thống nhất.

Nghị quyết của hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 2 họp vào cuối tháng 3-1931 ở Sài Gòn đã nhấn mạnh: "... tổ chức ra Thanh niên cộng sản đoàn là nhiệm vụ để thâu phục một bộ phận quan trọng của vô sản giai cấp, là một vấn đề cần kíp mà Đảng phải giải quyết". Do đó Đảng chủ trương thống nhất các tổ chức thanh niên thành Đoàn Thanh niên Cộng sản Đông Dương, nhằm thu hút thanh niên phấn đấu cho lý tưởng cộng sản chủ nghĩa.

Ngày 20 tháng 4 năm 1931, từ nước ngoài, đồng chí Nguyễn ái Quốc gửi thư cho Trung ương Đảng đã nhắc nhở việc thống nhất nhanh chóng các tổ chức thanh niên.

Cuối tháng 4-1931, từ nước ngoài, ở Trung Kỳ Xứ ủy Đoàn được thành lập trên cơ sở các Đoàn Uỷ ban Cán Sự Đoàn các cấp. Riêng Nghệ An và Hà Tĩnh, đã hình thành các Tỉnh ủy Đoàn và Huyện ủy đoàn khá hoàn chỉnh. Lúc này Đoàn đã có khoảng 2000 đoàn viên...

Sau đó, trong phiên họp lần thứ 10 (9-1960) và thứ II (I-1961), của Ban chấp hành Trung ương Đoàn, qua nghiên cứu thực tế lịch sử trong thời kỳ thành lập Đoàn Thanh niên Cộng sản Đông Dương đã thấy rõ tác dụng to lớn của Đoàn Thanh niên Cộng sản Đông Dương. Nghị quyết Trung ương Đoàn lần thứ hai đã quyết định chọn ngày 26 tháng 3 - ngày mở đầu hội nghị - làm ngày kỷ niệm sinh nhật Đoàn. Quyết định này được đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ ba (3-1961) thông qua.

Từ năm 1931 đến năm 1935 Đoàn Thanh niên Cộng sản Đông Dương tiếp tục phát triển ở Cao Bằng, Lạng Sơn, Nam Bộ. Tháng 3-1935 tại Đại hội Đảng lần thứ ở Ma Cao (Trung Quốc), Chương trình hành động của Đoàn công bố từ 1933 được công nhận chính thức và Đại hội cũng đề xuất việc triệu tập Đại hội Đoàn toàn quốc. Nhưng do tình hình thay đổi, đại hội đã không họp được.

Tháng 5-1936 khi Đảng ta ra công khai và thành lập Mặt trận dân chủ Đông Dương thì cùng năm đó, Đoàn thanh niên dân chủ cũng được thành lập trên cơ sở Đoàn thanh niên cộng sản Đông Dương. Ngày 5-5-1938, đại hội đại biểu toàn quốc của Đoàn thanh niên dân chủ đã họp ở Hà Nội và bầu ra Ban chấp hành Trung ương Đoàn.

Tháng 9-1939, đại chiến thế giới lần thứ hai bùng nổ. Hội nghị Trung ương lần thứ 6 họp tại Sài Gòn (II-1939) dưới sự điều khiển của đồng chí Nguyễn Văn Cừ, Tổng bí thư Đảng, đã chuyển hướng chỉ đạo chiến lược, tập trung mũi nhọn đánh đổ đế quốc, giải phóng dân tộc, lập Mặt trận phản đế Đông Dương. Từ đầu 1940, đảng đã thành lập Đoàn thanh niên phản đế. Đoàn thanh niên phản đế đã tham gia khởi nghĩa Bắc Sơn (9-1940), Nam Kỳ (II-1940).

Hội Nghị trung ương lần thứ 8 (5-1941) do đồng chí Nguyễn ái Quốc triệu tập tại lán Khuổi Nậm (Cao Bằng) đã thành lập Mặt trện Việt - Minh và các đoàn thể cứu quốc. Ngày 20-4-1941, Đoàn thanh niên cứu quốc Việt Nam thành lập. Trong thời kỳ vận động Cách mạng tháng 8, Đoàn thanh niên cứu quốc Việt Nam là lực lượng chiến đấu xung kích.

Trong cuộc kháng chiến chống Pháp (1946 - 1954) biết bao đoàn viên thanh niên cứu quốc đã hy sinh anh dũng như: Võ Thị Sáu, Cù Chính Lan, Trần Văn Ơn...

Sau khi hòa bình lập lại, trong phiên họp vào tháng 9-1955, Bộ chính trị trung ương Đảng đã chủ trương đổi tên Đoàn thanh niên cứu quốc Việt Nam thành Đoàn thanh niên lao động Việt Nam. Tại Đại hội toàn quốc lần thứ 2 của Đoàn thanh niên cứu quốc Việt Nam (II-1956), Đoàn đã chính thức mang tên Đoàn thanh niên lao động Việt Nam.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, của Bác Hồ, Đoàn Thanh niên lao động Việt Nam là lực lượng đầu tàu xung kích xây dựng chủ nghĩa xã hội với khẩu hiệu "Sống chiến đấu theo gương những người cộng sản" và "Xung phong tình nguyện vượt mức kế hoạch năm năm". Đại hội Đảng lần thứ 3 (9-1960) đã xác nhận "thanh niên là lớp người xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản nước ta".

Đầu tháng 9-1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ thiên tài, người thầy vĩ đại của cách mạng Việt Nam, người Bác kính yêu của thế hệ trẻ Việt Nam qua đời. Ban chấp hành trung ương Đảng họp phiên bất thường và quyết định: Đoàn thanh niên lao động Việt Nam, Đội thiếu niên tiền phong, Đội nhi đồng Tháng Tám được mang tên Bác.

Từ đây Đoàn mang tên Đoàn Thanh niên lao động Hồ Chí Minh, một vinh dự và trách nhiệm lớn của Đoàn và thế hệ trẻ nước ta.

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, thế hệ trẻ Việt Nam ở cả 2 miền Nam Bắc đã dâng trọn đời mình cho sự nghiệp cách mạng Việt Nam, đã viết lên những trang sử sáng ngời chủ nghĩa anh hùng cách mạng.

Sau chiến thắng đầu xuân 1975, Mỹ cút, ngụy nhào, Tổ quốc thống nhất, non sông về một mối. Tháng 6-1976, tại TP Hồ Chí Minh. Ban chấp hành trung ương Đoàn họp phiên thứ 22, thống nhất tổ chức đoàn cả nước với tên Đoàn Thanh niên lao động Hồ Chí Minh.

Giữa tháng 12 năm 1976, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 4 họp định ra đường lối chung và đường lối kinh tế xây dựng chủ nghĩa xã hội trong cả nước, thông qua kế hoạch 5 năm, sửa đổi điều lệ Đảng và bầu ra Ban chấp hành Trung ương mới. Đảng ta đổi tên là Đảng Cộng sản Việt Nam. Và Đoàn cũng được đổi tên thành Đoàn Thanh Niên Cộng sản Hồ Chí Minh.

Đoàn Thanh niên Cộng sản Đông Dương trước kia và Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh ngày nay đã xứng đáng là đội hậu bị, là cánh tay của Đảng. Hơn 45 năm qua, biết bao thế hệ thanh niên Việt Nam đã nối tay nhau xiết chặt hàng ngũ xung quanh Đoàn, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đã xây dựng nên truyền thống vẻ vang của Đoàn: Tuyệt đối trung thành với Đảng, hết lòng phục vụ nhân dân, dũng cảm chiến đấu, lao động và học tập để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam. Trong buổi lễ kỷ niệm ngày thành lập Đoàn lần thứ 25 (26-3-1966) Bác Hồ đã nói:

"Là người theo dõi tổ chức thanh niên từ bước đầu hiếm hoi chỉ có 8 cháu, ngày nay trông thấy có hàng triệu đoàn viên thanh niên, hàng triệu cháu bé nhi đồng, phát triển mơn mởn như hoa mùa xuân.

Với một thế hệ thanh niên hăng hái kiên cường, chúng ta nhất định thành công trong sự nghiệp bảo vệ Miền Bắc, giải phóng Miền Nam, thống nhất tổ quốc.

Vì vậy Bác rất tự hào, sung sướng và thấy mình trẻ lại, thấy tương lai của dân tộc ta vô cùng vững chắc và vẻ vang".

Thanh niên Việt Nam sớm được Bác Hồ kính yêu gắn bó với chủ nghĩa Cộng sản, ngay khi Người gắn bó cách mạng Việt Nam với phong trào Cộng sản quốc tế. "Thanh niên nắm vai trò là người châm ngòi lửa đầu tiên cho phong trào cách mạng nước ta" (Lê Duẩn).

Đoàn đã đổi tên nhiều lần, gắn chặt với lịch sử Đảng và sự lãnh đạo của Đảng ta. Trong mỗi thời kỳ, Đoàn có tên khác nhau cho phù hợp với nhiệm vụ mỗi giai đoạn, nhưng tựu chung vẫn là cánh tay đắc lực và đội hậu bị của Đảng, là tổ chức của những người Cộng sản trẻ tuổi, là trường học cộng sản của thanh niên Việt Nam. 
22-4-1870 Ngày sinh của V.I.Lê-nin

 

Via-đi-mia I-lích Lê-nin sinh ngày 24-4-1870 tại thành phố Xim-biếc (ngày nay là U-li-a-nốp-xcơ), Lê-nin sinh ra và lớn lên trong một gia đình trí thức Nga tiến bộ. Cha của Lê-nin - ông I-lia Ni-cô-lai ê-vích là một nhà hoạt động giáo dục tận tụy với nghề nghiệp, gần gũi với nhân dân lao động. Anh cả của Lê-nin - A-lếch-xan U-li-a-nốp - tham gia hoạt động cách mạng ngay khi còn là sinh viên và đã bị kết án xử tử vì mưu sát vua Nga. Hoàn cảnh và sự giáo dục của gia đình đã có ảnh hưởng to lớn trong việc hình thành nên những tính cách và phẩm chất tốt đẹp của cậu bé Vô-lô-đi-a.

Khi còn nhỏ, Lê-nin học tập rất xuất sắc. Sau khi tốt nghiệp trường trung học cổ điển ở Xim-biếc, năm 1887 Lê-nin vào học khoa luật ở trường đại học Ca-dan. Ngay từ bấy giờ, Lê-nin đã quyết tâm hiến thân cho cuộc đấu tranh cách mạng, cố gắng nắm vững các môn khoa học xã hội. "Bây giờ là lúc phải học khoa luật và khoa kinh tế chính trị". Sau đó không bao lâu do tham gia phong trào đấu tranh, tháng chạp năm 1887, Lê-nin bị bắt và đày về làng Cô-cư-sơ-ki-nô, cách Ca-dan 40 dặm Nga.

Năm ấy, Lê-nin vừa đúng 17 tuổi.

Gần một năm sau, mùa thu năm 1888, Lê-nin mới được phép trở lại Ca-dan, nhưng không được tiếp tục theo học ở trường đại học. Lê-nin tham gia nhóm Mác-xít và bắt đầu nghiên cứu tác phẩm "Tư bản" của Các Mác.

Đầu tháng 5 năm 1889, Lê-nin đến Xa-ma-ra.

Năm 1891, Lê-nin tốt nghiệp khoa luật trường đại học Pê-téc-bua. Lê-nin đã tự học trong một năm rưỡi chương trình bốn năm, là người duy nhất đạt điểm cao trong toàn bộ kỳ thi và được cấp bằng tốt nghiệp hạng nhất.

Tại Xa-ma-ra, năm 1892, Lê-nin đã thành lập nhóm Mác-xít đầu tiên, nghiên cứu các tác phẩm của Mác-Ăng-ghen, nghiên cứu nền kinh tế nước Nga và tiến hành đấu tranh triệt để chống hệ tư tưởng của phái dân túy. Tháng 8 năm 1893, Lê-nin rời Xa-ma-ra đến Pê-téc-bua - trung tâm chính trị của nước Nga và của phong trào công nhân Nga.

Tại Pê-téc-bua, Lê-nin đã tìm hiểu sâu sắc đời sống khổ cực của những người thợ, hoạt động và tuyên truyền chủ nghĩa Mác đối với họ. Không bao lâu, Lê-nin đã nhanh chóng được thừa nhận là một người lãnh đạo có uy tín trong các nhóm Mác-xít ở Pê-téc-bua, có học vấn uyên bác và tinh thông chủ nghĩa Mác.

Lê-nin bắt tay vào việc thành lập đảng Mác-xít của giai cấp vô sản Nga.

Mùa thu năm 1895, dưới sự lãnh đạo của Lê-nin, tất cả nhóm Mác-xít ở Pê-téc-bua đã thống nhất lại thành tổ chức chính trị duy nhất - "Liên minh đấu tranh giải phóng giai cấp công nhân". Đó là một sự kiện lịch sử trong phong trào xã hội dân chủ Nga. Liên minh là tổ chức Mác-xít đầu tiên ở Nga đã kết hợp lý luận của chủ nghĩa Mác với phong trào công nhân và là tổ chức tiền thân của chính đảng vô sản Nga.

Tháng chạp năm 1895, Liên minh bị khủng bố. Lê-nin và nhiều bạn chiến đấu bị bắt. Mười bốn tháng sau, tháng 2 năm 1897, Lê-nin bị kết án và đày đi miền Đông Xi-bia tại làng Su-sen-xcôi thuộc Mu-nu-xin-xky, tỉnh Ê-ni-xây-xcai-a, cách đường xe lửa hơn 600 dặm. Lê-nin đã sống ở đó cho đến hết tháng giêng năm 1900.

Tại cái làng nhỏ bé trong rừng thẳm Xi-bia này, Lê-nin vẫn theo dõi sát sao phong trào công nhân Nga cũng như Tây Âu và đã viết hơn ba mươi tác phẩm, trong đó có cuốn "Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản ở Nga" nó đã kết thúc việc đánh bại chủ nghĩa dân túy về mặt tư trưởng.

Năm 1900, ra khỏi nhà tù, Lê-nin lại tiếp tục hoạt động nhằm xây dựng một đảng Mác-xít thống nhất ở Nga. Đó chính là tư tưởng trung tâm trong các tác phẩm cũng như trong các hoạt động tổ chức thực tiễn của Người.

Lúc này, Lê-nin thấy trước hết cần thiết phải có một tờ báo chính trị có tính chất toàn Nga với "Hoạt động đúng đắn và gắn liền với tất cả các nhóm địa phương". Một tờ báo như thế rõ ràng không thể xuất bản ở nước Nga chuyên chế và đầy khủng bố. Vì vậy, tháng 7 năm 1900, Lê-nin quyết định ra nước ngoài. Đó là cộc sống tha hương lần thứ nhất của Lê-nin và kéo dài hơn 5 năm.

Lê-nin đã sống ở Thụy Sĩ, Tiệp Khắc, Đức, Anh, Pháp... và cùng với nhóm "Giải phóng lao động" ra tờ báo "Tia lửa" "Từ tia lửa sẽ bùng lên ngọn lửa". Trong bài xã luận của số báo đầu tiên, Lê-nin đã nêu bật nhiệm vụ cơ bản lúc này là phải thành lập một đảng Mác-xít vững mạnh, có tổ chức, gắn chặt với phong trào công nhân. Không có một đảng như thế, giai cấp công nhân không thể thực hiện được sứ mệnh lịch sử vĩ đại của mình là giải phóng giai cấp mình và toàn thể quần chúng lao động. Năm 1992, Lê-nin viết tác phẩm "Làm gì?". Tác phẩm đã vạch trần những khuynh hướng và tác hại của chủ nghĩa cơ hội đối với phong trào công nhân quốc tế, chỉ ra "phái kinh tế" ở Nga thực chất cũng chỉ là chủ nghĩa cơ hội của Béc-xtanh ở Tây Âu, nó chủ trương hạn chế giai cấp công nhân chỉ đấu tranh kinh tế, không đấu tranh chính trị, chỉ nhằm cải thiện điều kiện lao động trong khuôn khổ xã hội tư bản. Đồng thời, Lê-nin đã vạch kế hoạch xây dựng đãng về mặt tổ chức, đặt cơ sở cho học thuyết về một đảng vô sản kiểu mới của giai cấp công nhân.

Với phái "Tia lửa" do Lê-nin lãnh đạo là hạt nhân chuẩn bị, tại đại hội lần thứ hai của Đảng công nhân xã hội dân chủ Nga (tháng 7-1903), những tư tưởng của Lê-nin về một đảng vô sản kiểu mới đã đánh bại hoàn toàn phái kinh tế. Đại hội đã thảo luận và thông qua những văn kiện cực kỳ quan trọng: cương lĩnh của đảng với nhiệm vụ chủ yếu là đấu tranh cho chuyên chính vô sản; điều lệ của đảng dựa trên những nguyên tắc tổ chức của một đảng mác-xít kiểu mới theo tư tưởng của Lê-nin. Nhưng cũng tại đại hội đã xuất hiện một trào lưu cơ hội chủ nghĩa mới tức là bọn Men-sê-vích đối lập hoàn toàn với Lê-nin và những người Bôn-sê-vích.

Như thế, đại hội lần thứ hai của Đảng công nhân xã hội dân chủ Nga đã đánh dấu một bước ngoặt trong phong trào công nhân quốc tế. Đại hội đã thành lập một đảng Mác-xít chiến đấu, cách mạng của giai cấp công nhân Nga, về nguyên tắc khác hẳn các đảng cải lương của Quốc tế thứ hai.

Năm 1904, Lê-ninviết cuốn "một bước tiến, hai bước lùi". Tác phẩm tiếp tục cuộc đấu tranh triệt đểng chủ nghĩa cơ hội Men-sê-vích ở Nga và bè lũ của chúng ở Tây Âu, phát triển một cách toàn diện những nguyên tắc của một đảng mácxít kiểu mới.

Năm 1904, cuộc chiến tranh Nga - Nhật bùng nổ. Chế độ Nga hoàng đã bộc lộ tất cả thối nát suy yếu và mâu thuẫn khủng hoảng của nó. Lê-nin đã dự đoán một cuộc cách mạng đang đến gần và tích cực chuẩn bị cho đảng. Tại đại hội lần thứ ba của Đảng công nhân xã hội, dân chủ Nga tháng 4 năm 1905, Lê-nin đã trình bày cương lĩnh chiến lược và sách lược của đảng trong cuộc cách mạng dân chủ tư sản trước mắt: Giai cấp vô sản Nga phải liên minh với toàn thể nông dân, trung lập giai cấp tư sản, đưa cách mạng dân chủ tư sản đến thắng lợi hoàn toàn và do đó sẽ mở đường cho cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước Nga. Tháng 7 năm 1905, Lê-nin viết tác phẩm nổi tiếng "Hai sách lược của đãng xã hội dân chủ trong cách mạng dân chủ" nhằm giải thích những nghị quyết của đại hội, bảo vệ đường lối chiến lược và sách lược của những người của bọn Men-sê-vích. Xuất phát từ luận điểm nổi tiếng của Mác về cách mạng không ngừng, Lê-nin đã nâu ra lý luận về cách mạng tư sản dân chủ chuyển biến thành cách mạng xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ đế quốc chủ nghĩa. Đó là công lao vĩ đại của tác phẩm. Cuốn sách được phổ biến nhanh chóng, đã im lại hai lần ở Nga ngay trong năm 1905.

Năm 1909, Lê-nin viết cuốn "Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán". Lê-nin đã phê phán triệt để, toàn diện những mưu mô xảo quyệt mới của triết học duy tâm tư sản và phát triển một cách thiên tài những vấn đề cơ bản của triết học mác-xít. Tác phẩm đã đánh dấu một giai đoạn mới, giai đoạn Lê-nin, trong triết học Mác-xít.

Năm 1914, cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất bùng nổ. Chiến tranh là một sự thử thách và kiểm nghiệm nghiêm khắc đối với các trào lưu trong phong trào công nhân quốc tế. Bọn cầm đầu các đảng xã hội của Quốc tế thứ hai đã công khai phản bội lợi ích của giai cấp công nhân, cam tâm ủng hộ cuộc chiến tranh tế quốc chủ nghĩa với khẩu hiệu lừa bịp "bảo vệ Tổ quốc". Lúc bấy giờ chỉ có đảng Bôn-sê-vích do Lê-nin đứng đầu là chính đảng duy nhất giương cao ngọn cờ của chủ nghĩa quốc tế vô sản, đấu tranh chống chủ nghĩa đc và chiến tranh đế quốc chủ nghĩa. Lê-nin đã đưa ra khẩu hiệu nổi tiếng "biến chiến tranh đế quốc chủ nghĩa thành nội chiến cách mạng". Chỉ có đảng Bôn-sê-vích Nga là thực hiện trung thành đường lối duy nhất đúng đó của Lê-nin mà thôi.

Trong thời kỳ chiến tranh, Lê-nin đã tiến hành một khối lượng cộng tác lý luận rất to lớn, nhằm giải đáp những yêu cầu bức thiết và nóng hổi của thời đại và cách mạng, khi chủ nghĩa tư bản vừa kết thúc sự chuyển sang giai đoạn đế quốc độc quyền của nó. Tác phẩm "Chủ nghĩa đế quốc - giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản" của Lê-nin là sự tiếp tục một cách thiên tài bộ "Tư sản" của Mác trong thời đại đế quốc chủ nghĩa. Từ sự nghiên cứu hết sức sâu sắc và toàn diện về chủ nghĩa đế quốc, Lê-nin đã rút ra những kết luận cực kỳ quan trọng về sự phát triển không đều là một quy luật tuyệt đối của chủ nghĩa tư bản và cách mạng xã hội chủ nghĩa có thể thắng lợi trong một nước. Những luận điểm đó đã nâng cao tính chủ động và tích cực cách mạng của giai cấp công nhân quốc tế và đặt cách mạng vô sản thành nhiệm vụ trực tiếp trong chương trình nghị sự của giai cấp công nhân các nước.

Được vũ trang bằng lý luận cách mạng của Lênin, đảng Bôn-sê-vích và giai cấp công nhân Nga đã tiến hành thắng lợi cuộc cách mạng dân chủ tư sản tháng 2, lật đổ chế độ Nga hoàng. Nhưng cách mạng đòi hỏi sự lãnh đạo trực tiếp của lãnh tụ để tiến lên giành thắng lợi triệt để. Ngày 3-4-1917, Lê-nin về nước. Ngày hôm sau, tại hội nghị những người Bôn-sê-vích ở Pê-trô-grát, Lê-nin đã trình bày bản báo cáo về kế hoạch đấu tranh để chuyển từ cuộc cách mạng dân chủ tư sản sang cách mạng xã hội chủ nghĩa với khẩu hiệu nổi tiếng "Chính quyền về tay các Xô viết". Đó là bản "Luận cương tháng Tư" thiên tài của Lê-nin.

Sau những sự kiện tháng 7, Chính phủ lâm thời của giai cấp tư sản ra lệnh bắt Lê-nin, công khai khủng bố phong trào cách mạng. Cách mạng bước vào giai đoạn mới. Theo quyết định của Trung ương đảng Bôn-sê-vích, Lê-nin tạm thời lẩn tránh. Từ lều cỏ bên hồ Ra-dơ-líp, Lê-nin tiếp tục lãnh đạo mọi công tác của đảng. Thông qua Xvéc-lốp và Xta-lin, Lê-nin chỉ đạo đại hội lần thứ sáu với sự thay đổi khẩu hiệu chính trị của đảng - khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền. Chính trong thời kỳ sôi động và gian khổ này, Lê-nin đã viết tác phẩm nổi tiếng "Nhà nước và cách mạng" và nhiều cuốn khác nữa, nhằm chuẩn bị cho đảng và giai cấp công nhân nắm chính quyền. Lê-nin đã phát triển học thuyết Mác-xít về nhà nước, vạch ra những nguyên lý về chính trị và những biện pháp thực tiễn đầu tiên của nhà nước vô sản đồng thời phê phán gay gắt những quan điểm phản động về nhà nước của Cau-xky và đồng bọn. Lê-nin khẳng định: "Chỉ những người nào mở rộng việc thừa nhận đấu tranh giai cấp đến thừa nhận chuyên chính vô sản thì mới là những người Mác-xít".

Trước sự chuyển biến khẩn trương của tình hình, tháng 10 năm 1917 Lê-nin từ Phần Lan trở về Pê-trô-grát. Tại cuộc hội nghị ngày 10-10-1917, theo đề nghị của Lê-nin, Ban Chấp hành Trung ương đảng đã thông qua bản nghị quyết lịch sử về tiến hành khởi nghĩa vũ trang và kêu gọi toàn đảng và toàn thể công nhân, binh lính sẵn sàn hành động.

Ngày 25-10-1917 (tức là ngày 7 tháng 11 dương lịch) dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Lê-nin từ điện Xmôn-nưi, cuộc khởi nghĩa của giai cấp vô sản đã thắng lợi ở Pê-trô-grát.

Và như thế, cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa đã thành công. Một kỷ nguyên mới - kỷ nguyên thắng lợi của chủ nghĩa xã hội - đã mở ra trong lịch sử loài người.

Một ngày sau, vào tối ngày 26-10-1917, trong phiên họp cuối cùng của Đại hội Xô Viết toàn Nga lần thứ hai, Đại hội đã thông qua hai bản dự thảo Sắc lệnh về hòa bình và Sắc lệnh về ruộng đất do Lê-nin trình bày. Đó là những văn kiện chính thức đầu tiên của chính quyền công nông. Đại hội đã bầu Hội đồng ủy viên nhân dân tức Chính phủ công nông do Lê-nin làm chủ tịch.

Lê-nin và đảng Bôn-sê-vích đã lãnh đạo giai cấp công nhân và nhân dân Xôviết vượt qua muôn vàn khó khăn cực kỳ nặng nề để củng cố và bảo vệ chính quyền Xôviết, đánh bại cuộc nội chiến của bọn phản động trong nước và cuộc can thiệp vũ trang của 14 nước đế quốc bên ngoài, tiến hành thắng lợi công cuộc khôi phục và phát triển nền kinh tế mới.

Từ nhiều năm trước đây, Lê-nin đã hoạt động không mỏi mệt nhằm tập hợp những người theo chủ nghĩa quốc tế trong các đảng xã hội dân chủ thành một phái tả trong Quốc tế 2 chống lại bọn cơ hội chủ nghĩa và tiến tới thành lập một Quốc tế mới thật sự cách mạng của phong trào công nhân quốc tế. Sau cách mạng tháng 10 với sự ra đời của Nhà nước Xô Viết và trong cao trào cách mạng của giai cấp công nhân châu Âu, tháng 3 năm 1919 các đảng cộng sản thế giới đã tiến hành đại hội thành lập Quốc tế cộng sản - tức Quốc tế thứ ba. Với những hoạt động thực tiễn và những tác phẩm lý luận xuất sắc của mình, Lê-nin đã có công lao to lớn trong việc thành lập Quốc tế cộng sản và xác định đường lối đấu tranh đúng đắn cho phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, đấu tranh triệt để chống chủ nghĩa xét lại, chủ nghĩa cải lương và chủ nghĩa cơ hội tả khuynh tồn tại trong một số đảng cộng sản các nước.

Cũng đã từ lâu, Lê-nin hết sức quan tâm tới cuộc đấu tranh của các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc. Với khẩu hiệu nổi tiếng "Vô sản các nước và các dân tộc bị áp bức, đoàn kết lại!" và luận điểm thiên tài: các dân tộc chậm tiến có thể tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, cuộc đấu tranh giải phóng của nhân dân các nước phương Đông đã bước sang một giai đoạn mới. Họ đã tìm thấy con đường giải phóng thật sự cho dân tộc mình. Lê-nin đã từng nhấn mạnh tầm quan trọng, triển vọng và ý nghĩa ngày nay càng to lớn của phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc đối với sự nghiệp cách mạng trên toàn thế giới.

Lê-nin đã vạch ra cương lĩnh xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô. Trong nhiều tác phẩm và nhất là những bài viết cuối đời của mình, Lê-nin khẳng định khả năng xây dựng thắng lợi của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và đã đề ra những nhiệm vụ và kế hoạch cụ thể của công cuộc xây dựng đó: Là tiến hành công nghiệp hóa đất nước, tập thể hóa nền nông nghiệp và tiến hành đồng thời cách mạng văn hóa và tư tưởng.

Đi theo con đường của Lê-nin vạch ra, nhân dân Liên Xô dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Bôn-sê-vích đã vững bước tiến lên, xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội trong hoàn cảnh cực kỳ khó khăn gian khổ, trong vòng vây thù địch của chủ nghĩa tư bản thế giới.

Những năm tháng hoạt động đấu tranh trong những điều kiện hết sức gian khổ và căng thẳng cùng với hậu quả của vết thương do kẻ thù gây ra, sức khỏe của Lê-nin đã giảm sút rất nhiều. Từ mùa thu năm 1922, Lê-nin bị ốm nặng. Trên giường bệnh, Lê-nin vẫn làm việc và đã đọc cho ghi lại những bài báo cuối cùng. Đó là những di chúc chính trị của Người đối với toàn đảng Bôn-sê-vích và nhân dân Xô viết, đối với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.

"Sau Mác, lịch sử phong trào giải phóng vĩ đại của giai cấp vô sản chưa bao giờ có được một nhân vật vĩ đại như người lãnh tụ, người thầy, người bạn của chúng ta. Tất cả những gì thực sự vĩ đại và anh hùng ở trong giai cấp vô sản... để thể hiện trong Lê-nin một cách tuyệt vời và tên người đã trở thành tượng trưng cho một thế giới mới, từ Tây sang Đông, từ Nam chí Bắc..."

Đó là những lời trong bản kêu gọi đặc biệt đề ngày 22-1-1924 của Trung ương Đảng Bôn-sê-vích "Gửi Đảng và toàn thể nhân dân lao động" trước tổn thất hết sự nặng nề của đất nước Xô viết - Lê-nin vĩ đại từ trần.

Lê-nin mất đi, nhưng sự nghiệp vĩ đại của Người đời đời sống mãi trong giai cấp công nhân và nhân dân lao động toàn thế giới. Công lao vĩ đại của Lê-nin là ở chỗ Người đã phát triển chủ nghĩa Mác trong những điều kiện của thời đại lịch sử diễn ra từ cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX, khi chủ nghĩa tư bản đã chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc. Chủ nghĩa Lê-nin là chủ nghĩa Mác trong thời đại của chủ nghĩa đế quốc và của các cuộc cách mạng vô sản, của thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, của thời kỳ xây dựng chủ nghĩa cộng sản. Công lao vĩ đại của Lê-nin là ở chỗ lần đầu tiên Người đã biến những nguyên lý của chủ nghĩa Mác thành hiện thực cách mạng rực rỡ với thắng lợi vĩ đại của cuộc cách mạng Xã hội chủ nghĩa tháng 10 Nga. Như Xta-lin đã chỉ rõ: "Chủ nghĩa Lê-nin là lý luận và sách lược về cách mạng vô sản nói chung, lý luận và sách lược về chuyên chính vô sản nói riêng". Như vậy, với đỉnh cao của trí tuệ loài người, cùng với học thuyết của Mác - Ăng-ghen, học thuyết của Lê-nin đã trở thành vũ khí vô địch của giai cấp công nhân và các dân tộc bị áp bức, trong cuộc đấu tranh để tự giải phóng nhằm thủ tiêu mọi chế độ áp bức và bóc lột tàn bạo.

25-4-1976 Tổng tuyển cử bầu quốc hội của nước Việt Nam thống nhất

 

Những ngày tháng tư năm 1976. Cả đất nước ta từ Cao Lạng đến Minh Hải tưng bừng đón mừng ngày hội lớn của non sông - Tổng tuyển cử bầu Quốc hội thống nhất.

Như vậy là chỉ một năm sau chiến thắng vĩ đại mùa Xuân năm 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, giành lại độc lập cho Tổ quốc, nhân dân ta đã ghi thêm một thắng lợi mới trong sự nghiệp thống nhất đất nước.

Thực hiện những quyết định quan trọng của Hội nghị Trung ương lần thứ 24 là chuẩn bị Tổng tuyển cử bầu ra Quốc hội chung của cả nước và Quốc hội đó sẽ cử ra Chính phủ trung ương của nước Việt Nam thống nhất, từ ngày 15 đến 21 tháng 11 năm 1975 tại Tp Hồ Chí Minh, Hội nghị hiệp thương Chính trị giữa hai đoàn đại biểu miền Bắc và đoàn đại biểu miền Nam đã được tiến hành để bàn về vấn đề thống nhất nước nhà về mặt Nhà nước. Hội nghị nhất trí nhận định rằng, Cách mạng nước ta đã chuyển sang giai đoạn mới - giai đoạn cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội - và cần tổ chức sớm cuộc Tổng tuyển cử trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam để bầu ra Quốc hội chung của cả nước. Hội nghị quyết định cuộc Tổng tuyển cử sẽ được tiến hành vào đầu năm 1976, theo các nguyên tắc dân chủ: phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín.

Tháng 1-1967, ủy ban thường vụ Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa và Hội đồng cố vấn Chính phủ Cộng hòa miền Nam Việt Nam quyết định: cuộc Tổng tuyển cử sẽ tiến hành vào chủ nhật 25.4.1976. Hội đồng bầu cử toàn quốc được thành lập, do đồng chí Trường Chinh làm Chủ tịch và đồng chí Phạm Hùng làm Phó chủ tịch.

Cả nước hân hoan đón chào những quyết định lịch sử đó.

Từ tháng 2 năm 1976, các báo chí, đài phát thanh và truyền hình đã liên tiếp đưa tin. Công tác tuyên truyền, vận động được triển khai rộng rãi. ở khắp nơi trên đất nước ta nhất là ở các tỉnh phía Nam mới được giải phóng cuộc vận động Tổng tuyển cử đã trở thành một cuộc động viên chính trị sâu rộng chưa từng có.

Đồng thời, phong trào thi đua lao động sản xuất đã đẩy lên sôi nổi trong các nhà máy, công trường , đồng ruộng, quân đội, cơ quan... nhằm thực hiện kế hoạch Nhà nước năm 1976, thiết thực lập thành tích chào mừng ngày hội lớn của dân tộc.

Tối ngày 22, nhân dân thủ đô tổ chức mít tinh trọng thể chào mừng cuộc Tổng tuyển cử, hoan nghênh các vị ra ứng cử đại biểu Quốc hội ở Hà Nội. Chủ tịch Tôn Đức Thắng, các đồng chí Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Nguyễn Lương Bằng đã tới dự và thân mật tiếp xúc với các đại biểu cử tri của thủ đô.

Sáng sớm ngày 23, hơn một triệu nhân dân TP Hồ Chí Minh đã rầm rộ xuống đường, giương cao ảnh Hồ Chủ tịch, cờ, khẩu hiệu, diễu qua các đường phố chính biểu dương sức mạnh đoàn kết, quyết tâm thực hiện thắng lợi cuộc bầu cử Quốc hội thống nhất của cả nước.

Báo "Nhân dân" số ra ngày 24-4-1976 đã nhắc lại lời kêu gọi đầy xúc động của Bác Hồ 30 năm về trước, ngày 5-1-1976, hôm trước cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Khi đó, bác viết: "Ngày mai là một ngày vui sướng của đồng bào ta... Ngày mai, tất cả các bạn cử tri đều phải nhớ đi bầu cử. Ngày mai, mỗi người đều nên vui vẻ hưởng quyền lợi của một người dân độc lập, tự do".

Báo Đảng kêu gọi "Ngày mai, tất cả cử tri đi bỏ phiếu". Bởi "Biết bao thế hệ người Việt Nam đã anh dũng chiến đấu và oanh liệt hy sinh để có ngày tổng tuyển cử hoàn thành thống nhất đất nước và đưa cả nước ta lên chủ nghĩa xã hội".

Ngày hai mươi lăm tháng tư năm một nghìn chín trăm bảy mươi sáu.

Trong không khí đặc biệt hào hứng và sôi nổi, tràn đầy tin tưởng và tự hào, hơn 23 triệu người dân Việt Nam với tư thế của người chiến thắng vẻ vang và người làm chủ đất nước đã nô nức đi làm nghĩa vụ công dân của mình, cử ra những đại biểu xứng đáng nhất vào cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất. Từ sáng sớm, các phòng bỏ phiếu rực rỡ cờ hoa đã tấp nập, đông vui.

Cuộc bầu cử đã tiến hành nhanh, gọn, tốt. Chỉ đến 2 giờ ở các tỉnh phía Bắc và đến 12, 13 giờ các tỉnh phía Nam về cơ bản việc bỏ phiếu đã làm xong.

Cuộc Tổng tuyển cử ngày 25-4-1976 đã thành công rực rỡ.

Ngày 7-5-1976, Hội đồng bầu cử toàn quốc đã ra thông cáo về kết quả Tổng tuyển cử bầu Quốc hội chung của cả nước.

1 - Cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội chung của cả nước đã thắng lợi rực rỡ, khẳng định một cách hùng hồn ý chí của nhân dân ta xây dựng thành công một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất và xã hội chủ nghĩa.

Cuộc Tổng tuyển cử đã được tiến hành thật sự dân chủ, đúng luật và pháp lệnh bầu cử. Các nguyên tắc: phổ thông, bình đẳng, trực tiếp bỏ phiếu kín trong bầu cử đã được nghiêm chỉnh tôn trọng.

2 - Toàn dân rất phấn khởi, tích cực hưởng ứng và tham gia bầu cử. Việc ghi danh sách cử tri ở tất cả các địa phương đều làm đúng theo luật đã định. ở miền Nam, việc khôi phục quyền công dân cho trên 95% số người làm việc cho chế độ cũ đã được học tập cải tạo thể hiện chính sách khoan hồng của Đảng và Nhà nước ta. Các cử tri đi bầu cử đã hoàn toàn tự do trong việc lựa chọn những đại biểu của mình vào cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất.

3 - Tỷ lệ cử tri đi bầu rất cao. Trong cả nước, tỷ lệ đó là 98,77%; miền Bắc 99,36%; miền Nam 98,59%; Hà Nội 99,82; TP Hồ Chí Minh 98,14%. ở cả hai miền đều có nhiều huyện, xã và rất nhiều khu đạt 100% cử tri đi bỏ phiếu.

Kết quả, cả nước đã bầu cử 492 đại biểu ngay ở vòng đầu, không nơi nào phải bầu cử lại hoặc bầu thêm. Tỷ lệ số phiếu hợp lệ rất cao, đạt tới 99,12%. Trong tổng số 492 đại biểu trúng cử có: 80 đại biểu là công nhân, 100 đại biểu là nông dân, 6 đại biểu là cán bộ chính trị, 98 đại biểu là tri thức, nhân sĩ dân chủ, 13 đại biểu các tôn giáo. Trong số các đại biểu trúng cử có: 129 đại biểu nữ, 127 đại biểu thanh niên, 72 đại biểu dân tộc thiểu số, 29 đại biểu là anh hùng lao động và anh hùng các lực lượng vũ trang.

Các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước đã được bầu với số phiếu cao nhất.

Ngày 25 tháng 4 năm 1976 sẽ được ghi vào lịch sử dân tộc và lịch sử cách mạng Việt Nam. Đó là ngày hội hoàn thành trọn vẹn sự nghiệp thống nhất non sông. Đó là ngày hội biểu dương vĩ đại lực lượng và ý chí của toàn thể nhân dân ta - thống nhất đất nước trên cơ sở độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, xiết chặt hàng ngũ, đoàn kết phấu đấu dưới ngọn cờ quang vinh, bách chiến bách thắng của Đảng và Bác Hồ vĩ đại.

30-4-1975 Giải phóng Sài Gòn - Gia Định. Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước hoàn toàn thắng lợi

 

Mùa Xuân năm 1975, nhân dân Việt Nam ta đã ghi một chiến công vĩ đại nhất, hiển hách nhất trong lịch sử anh hùng của dân tộc: sau 55 ngày đêm tiến công thần tốc đã quét sạch toàn bộ chế độ thực dân kiểu mới của đế quốc Mỹ ở miền Nam, giải phóng miền Nam thân yêu, giành lại độc lập hoàn toàn cho đất nước.

Tháng Giêng năm 1973, Hiệp định Paris được ký kết. Mặc dầu đã bị thất bại nặng nề, đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai vẫn ngoan cố theo đuổi âm mưu áp đặt chủ nghĩa thực dân kiểu mới lên toàn bộ miền Nam nước ta. Chúng đã trắng trợn chà đạp hầu hết các điều khoản chủ yếu của Hiệp định, tiếp tục tiến hành cuộc chiến tranh thực dân kiểu mới trên quy môn lớn bằng các kế hoạch "tràn ngập lãnh thổ" và những cuộc hành quân "bình định" lấn chiếm vùng giải phóng, chồng chất muôn vàn tội ác đối với đồng bào ta.

Đánh giá đúng âm mưu của kẻ thù, Đảng ta nhận định rằng, bất kể trong tình huống nào, con đường giành thắng lợi của cách mạng miền Nam cũng phải là con đường bạo lực, kiên quyết dùng chiến tranh cách mạng đánh bại cuộc chiến tranh thực dân kiểu mới của Mỹ - ngụy.

Sau hai năm 1973, 1974 và nhất là từ chiến thắng giải phòng toàn tỉnh Phước Long, cục diện chiến trường miền Nam đã thay đổi một cách căn bản, có lợi cho ta. Hội nghị Bộ Chính trị Trung ương Đảng, tháng 10-1974 và đầu năm 1975, đã kịp thời đánh giá đúng lực lượng so sánh giữa ta và địch, vạch rõ sự xuất hiện của thời cơ lịch sử và hạ quyết tâm chiến lược giải phóng hoàn toàn miền Nam, đánh bại hoàn toàn cuộc chiến tranh xâm lược thực dân kiểu mới của Mỹ bằng cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt mùa Xuân năm 1975.

Ngày 10-3-1975 cuộc Tổng tiến công chiến lược và nổi dậy vĩ đại được mở đầu bằng trận đánh hết sức táo bạo, bất ngờ của quân ta vào thị xã Buôn Mê Thuột - một vị trí then chốt, hiểm yếu trong hệ thống phòng ngự của quân địch ở Tây Nguyên. Trận đánh trúng huyệt đó đã làm rung chuẩn toàn bộ Tây Nguyên và bắt đầu quá trình sụp đổ không thể cứu vãn nổi của ngụy quân và ngụy quyền Sài Gòn. Sau thất bại nặng nề và choáng váng đó, quân ngụy phải rút khỏi Kon Tum và Plây Cu ngày 24-3, cả vùng Tây Nguyên rộng lớn đã được hoàn toàn giải phóng.

Một cao trào tiến công và nổi dậy đã dâng lên mạnh mẽ ở các tỉnh ven biển miền Trung Trung Bộ. Các tỉnh thành được giải phóng với một nhịp độ dồn dập.

Ngày 24-3, tỉnh Quảng Ngãi với thị xã Quảng Ngãi.

Ngày 28-3, tỉnh Quảng Nam với thị xã Tam kỳ.

Ngày 1-4, tỉnh Bình Định với thị xã Quy Nhơn

Cùng ngày, tỉnh Phú Yên với thị xã Tuy Hòa.

Ngày 2-4, tỉnh Lâm Đồng với thị xã Bảo Lộc

Ngày 3-4, tỉnh Khánh Hòa với thành phố Nha Trang.

Ngày 4-4, tỉnh Tuyên Đức với thành phố Đà Lạt.

Trong khi chiến dịch Tây Nguyên chưa kết thúc, ngay từ trung tuần tháng 3, chiến dịch tiến công lớn thứ hai của quân ta vào tập đoàn phòng ngự Thừa Thiên - Huế và căn cứ quân sự liên hợp Đà Nẵng đã được quyết định. Thừa Thiên - Huế và Đà Nẵng là những khu vực phóng ngự mạnh nhất của quân ngụy ở quân khu I.

Sau 4 ngày chiến đấu và nổi dậy phối hợp của quần chúng, trưa ngày 26-3-1975 quân ta đã tiêu diệt tập đoàn phòng ngự Thừa Thiên - Huế, giải phóng cố đô huế. Trận thắng vẻ vang này đã khẳng định quân ta và dân ta không những có khả năng tiêu diệt những tập đoàn phòng ngự mạnh của địch ở chiến trường rừng núi mà cũng hoàn toàn có khả năng đập tan những tập đoàn phòng ngự mạnh của địch ở thành phố và đồng bằng ven biển.

Ngày 24-3, thị xã Tam Kỳ được giải phóng. Đà Nẵng trở nên hoàn toàn cô lập.

Sau khi mất Huế, Nguyễn Văn Thiệu hò hét quyết "tử thủ" Đà Nẵng bằng bất cứ giá nào. Đà Nẵng là một căn cứ quân sự liên hợp hải, lục không quân hiện đại, mạnh vào bậc nhất ở miền Nam với 10 vạn tên lính. Tàu chiến Mỹ kéo đến rập rình ven biển Đà Nẵng làm lực lượng "ngăn đe".

Sáng ngày 28-3, từ nhiều hướng khác nhau quân ta tiến công dồn dập và mạnh mẽ vào Đà Nẵng. Đông đảo quần chúng và các lực lượng tự vệ, biệt động trong và ngoài thành phố đã nổi dậy mạnh mẽ và phối hợp chặt chẽ với bộ đội chủ lực. Đúng 15 giờ ngày 29-3, từ các hướng tiến quân các binh đoàn thần tốc của ta đã gặp nhau ở trung tâm Đà Nẵng.

Như vậy, chỉ trong 32 giờ, quân và dân ta đã tiêu diệt hoàn toàn căn cứ quân sự liên hợp mạnh vào bậc nhất của địch. Hệ thống phòng ngự chiến lược mới của địch ở miền Trung bị quét sạch. Quân khu I của ngụy bị xóa sổ. Sau trận đại bại ở Đà Nẵng, quân ngụy lâm vào tình trạng tuyệt vọng. Mỹ và tay sai hết sức kinh hoàng. Tướng Uây-en, cựu tư lệnh quân Mỹ ở miền Nam Việt Nam, được lệnh vội vã sang miền Nam bày mưu, đốc thúc bọn tay sai xây dựng hệ thống phòng thủ mới từ Phan Rang đến Cần Thơ nhằm bảo vệ cho Sài Gòn - sào huyệt cuối cùng của chúng.

Phối hợp với các chiến dịch Tây Nguyên và Huế - Đà Nẫng, quân và dân ta đã tiến công và nổi dậy mạnh mẽ, kịp thời chiếm thị xã An Lộc và giải phóng toàn tỉnh Bình Long, mở rộng vùng giải phóng ở Thủ Dầu Một, Tây Ninh, Long An, Long Khánh, Bình Tuy và nhiều tỉnh ở đồng bằng sông Cửu Long.

Với những thắng lợi có ý nghĩa chiến lược cực kỳ to lớn của chiến dịch Tây Ninh và Huế - Đà Nẵng, cục diện chiến tranh đã có bước phát triển nhảy vọt, thời cơ lớn để tiêu diệt toàn bộ ngụy quân và ngụy quyền đã tới. Từ giữa hạ tuần tháng 3, trong khi chiến dịch Thừa Thiên - Huế sắp kết thúc thắng lợi, Bộ Chính trị Trung ương Đảng đã chính thức hạ quyết tâm mở chiến dịch lịch sử có ý nghĩa quyết định nhằm đập tan toàn bộ lực lượng ngụy quân, ngụy quyền còn lại, giải phòng hoàn toàn miền Nam. Chiến dịch lịch sử này được vinh dự mang tên Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại.

Tháng 4, trận quyết chiến chiến lược cuối cùng bắt đầu. Ngày 19-4, quân ta đã hoạt động mạnh trên hướng đông, đánh vào Xuân Lộc (thuộc tỉnh Long Khánh). Ngày 16-4, quân ta giải phóng Phan Rang (Ninh Thuận), tiếp đó lần lượt giải phóng tỉnh bình Thuận với thị xã Phan Thiết, tỉnh Bình Tân với thị xã Hàm Tân. Ngày 21-4, sau những trận chiến đấu ác liệt, quân địch ở Xuân Lộc buộc phải rút chạy. Cùng ngày, Nguyễn Văn Thiệu, tên tay sai đắc lực của Mỹ, buộc phải từ chức và chạy trốn ra nước ngoài.

Ngày 26-4, từ 17 giờ quân ta mở cuộc tiến công lớn trên hướng đông và nam Sài Gòn, xiết chặt vòng vây chung quanh Sài Gòn. Ngày 28-4, không quân ta tiến công sân bay Tân Sơn Nhất.

Đến 28-4, tất cả các cánh quân lớn của ta đã bao vây chặt Sài Gòn. Giờ tận số của chế độ Mỹ - ngụy đã điểm! Hoảng loạn, vội vã, hàng vạn nhân viên quân sự, dân sự và bọn tay sai đầu sỏ tháo chạy khỏi miền Nam. Mỹ đã cố xoay sở cứu vãn tình thế, nhưng chúng đã phải bó tay và cuối cùng phải bỏ cuộc.

Đúng 0 giờ ngày 29-4-1975, các binh đoàn chủ lực hùng mạnh của ta từ nhiều hướng đồng loạt tổng công kích vào Sài Gòn - sào huyệt cuối cùng của kẻ thù. Với ưu thế áp đảo, quân ta ào ạt tiến công, vừa bao vây tiêu diệt địch ở vòng ngoài, vừa thần tốc, táo bạo thọc sâu đánh chiếm các mục tiêu quan trọng ở bên trong. Lực lượng tại chỗ và quần chúng trong và ngoài thành phố đã nổi dậy, phối hợp với các binh đoàn chủ lực.

Sáng ngày 30-4, một mũi thọc sâu của quân ta đánh thẳng vào trung tâm thành phố, nhanh chóng chiếm phủ tổng thống ngụy. Ngụy quyền trung ương ở Sài Gòn đã phải tuyên bố đầu hàng không điều kiện. Lá cờ cách mạng phấp phới tung bay trên nóc "dinh Độc Lập" - phủ tổng thống ngụy. Lúc đó đúng 11 giờ 30 phút ngày 30 tháng 4 lịch sử.

Thừa thắng xông lên, từ ngày 30-4, đồng bào và chiến sĩ các tỉnh Đông Nam Bộ và đồng bằng sông Cửu Long đã đồng loạt tiến công và nổi dậy. Toàn bộ lực lượng quân ngụy còn lại đã phải hạ vũ khí đầu hàng. Ngày 1 tháng 5, toàn bộ lãnh thổ trên đất liền miền Nam nước ta đã được hoàn toàn giải phóng. Ngày 2 tháng 5, các đảo Côn Sơn, Phú Quốc được giải phóng. Trước đó, trong tháng 4 quân ta đã giải phóng các hòn đảo dọc bờ biển Trung và Nam Trung Bộ, và những đảo thuộc quần đảo Trường Sa do quân ngụy chiếm giữ.

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 đã toàn thắng. Miền Nam nước ta đã hoàn toàn giải phóng. Trong 55 ngày đêm chiến đấu dồn dập và thần tốc, anh dũng và táo bạo, quân và dân ta đã đập tan hoàn toàn bộ máy chiến tranh khổng lồ và hiện đại của quân ngụy đông tới 1.351.000 tên, được xếp vào loại mạnh nhất ở Đông Nam á, đã xóa bỏ hoàn toàn bộ máy ngụy quyền từ trung ương tới cơ sở mà Mỹ đã dày công gây dựng và nuôi dưỡng từ hơn hai chục năm nay. Chế độ thực dân mới đã hoàn toàn bị sụp đổ. Tổng tiến công và nỗi dậy mùa Xuân 1975 đã đập tan toàn bộ lực lượng quân sự địch:

1 - Số quân:

- Chủ lực: 690.000 tên

- Địa phương: 353.500 tên

- Cảnh sát: 111.700 tên

- Phòng vệ dân sự: 1.400.000 tên (số có vũ trang 380.000 tên).

2 - Về đơn vị chiến đấu:

- Chủ lực: 13 sư đoàn, 15 trung đoàn, 68 tiểu đoàn, 15 liên đoàn quân biệt động.

- Bảo an: 367 tiểu đoàn và 84 đại đội.

- Dân vệ: 5.200 trung đội.

- Cảnh sát dã chiến: 75 đại đội.

- Quân cảnh: 12 tiểu đoàn và II đại đội.

3 - Lực lượng yểm trợ:

- Pháo binh: 66 tiểu đoàn và 164 trung đội gồm 1.492 khẩu pháo các loại.

- Pháo phòng không: 7 tiểu đoàn gồm 168 khẩu.

- Thiết lập: 22 tiểu đoàn và 51 chi đoàn gồm 2.074 xe tăng, xe bọc thép.

- Không quân: 66 chi đoàn, gần 1.850 máy bay các loại (có 30 chiếc F5E).

+ Máy bay chiến đấu: 22 phi đoàn với 510 chiếc.

+ Máy bay lên thẳng: 25 phi đoàn với 900 chiếc

+ Máy bay vận tải: 5 phi đoàn với 80 chiếc

- Hải quân: 22 trung đoàn với 1.611 tàu các loại.

Thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 đã kết thúc vẻ vang cuộc kháng chiến lâu dài nhất, gian khổ nhất và vĩ đại nhất trong lịch sử dân tộc, chấm dứt vĩnh viễn ách thống trị kéo dài 117 năm của đế quốc xâm lược trên đất nước ta, làm cho Tổ quốc ta vĩnh viễn độc lập, thống nhất và đưa cả nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội. Dân tộc ta bước vào kỷ nguyên phát triển rực rỡ nhất trong lịch sử 4.000 năm của mình - kỷ nguyên Độc lập, Tự do và Chủ nghĩa xã hội.

Đối với đế quốc Mỹ, đây là một thất bại nặng nề nhất, nghiêm trọng nhất trong toàn bộ lịch sử 200 năm của nước Mỹ. Thất bại đó đã đánh dấu một thời kỳ suy sụp mới, toàn diện của chủ nghĩa đế quốc Mỹ - "Thời kỳ sau Việt Nam" và khẳng định sự phá sản không tránh khỏi của chủ nghĩa thực dân kiểu mới.

Thắng lợi vĩ đại của dân tộc ta là một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính chất thời đại sâu sắc. Thắng lợi đó đã mở ra một thời kỳ mới vô cùng thuận lợi cho phong trào cách mạng thế giới, càng thúc đẩy mạnh mẽ thế tiến công chiến lược của ba dòng thác cách mạng.

Thắng lợi của Việt Nam một lần nữa làm sáng tỏ chân lý vĩ đại: "Trong thời đại ngày nay, khi các lực lượng cách mạng thế giới ở thế tiến công, một dân tộc nước không rộng, người không đông, song đoàn kết chặt chẽ và đấu tranh kiên quyết dưới sự lãnh đạo của một đảng Mác-Lê-nincó đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn, giương cao hai ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, được sự đồng tình ủng hộ và giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa, các lực lượng cách mạng và nhân dân tiến bộ trên thế giới, thì hoàn toàn có thể đánh thắng mọi thế lực đế quốc xâm lược, dù đó là tên đế quốc đầu sỏ" (nghị quyết Đại hội lần thứ IV của Đảng cộng sản Việt Nam).

1-5-1986 Ngày Quốc tế lao động

 

Si-ca-go, thành phố trung tâm công nghiệp của nước Mỹ đã đi vào lịch sử bằng những cuộc đấu tranh quyết liệt của giai cấp công nhân Mỹ hồi cuối thế kỷ XIX. Cũng như ở bất cứ nơi nào trên thế giới tư bản chủ nghĩa, đời sống của người lao động Mỹ vô cùng khổ cực. Ngày làm việc kéo dài 14, 15 giờ, đến nỗi họ "không bao giờ được thấy mặt vợ con dưới ánh mặt trời". Đồng lương không đủ sống, nhà ở chật chội thiếu vệ sinh, điều kiện lao động rất vất vả. Đã từ lâu, giai cấp công nhân Mỹ tiến hành đấu tranh đòi rút ngắn thời gian lao động, tăng tiền lương và cải thiện đời sống. Họ bị bọn cầm quyền khủng bố gắt gao nhưng ý chí không hề giảm sút, kinh nghiệm càng thêm dày dạn. Họ tiến dần đến những cuộc đấu tranh có tổ chức trên qui mô lớn.

Theo quyết nghị của Liên đoàn lao động Mỹ khi đó thì ngày 1 tháng 5 năm 1886 được chọn làm ngày đấu tranh của công nhân Si-ca-go. Mặt dầu bị chánh quyền ngăn chặn, các công đoàn và báo chí công nhân vẫn khẩn trương vận động nhân dân tham gia đấu tranh. Đúng ngày hôm đó, công nhân Si-ca-go tiến hành tổng bãi công, xuống đường biểu tình giương cao khẩu hiệu: "Phải thực hiện 8 giờ làm việc, 8 giờ nghỉ ngơi, 8 giờ học tập trong một ngày". Từ Si-ca-go, làn sóng bãi công lan nhanh ra toàn quốc, 5000 cuộc bãi công có 34 vạn công nhân tham gia đã diễn ra trong các thành phố lớn của Mỹ. Công nhân ở New York, Ban-ti-mo, Pi-xbơ-nơ... đã giành được thắng lợi, buộc bọn chủ phải nhận yêu sách ngày làm 8 giờ. Nhưng ở nhiều nơi khác, máu đã đổ trên đường phố. Đặc biệt ở Chicago, cuộc xung đột vũ trang bùng nỗ. Trong suốt mấy ngày, số công nhân ở đây tham gia bãi công càng thêm đông đảo, từ 1,5 vạn lên đến 4 vạn. Bọn chủ điên cuồng chống lại bằng cách sa thải những người bãi công, gọi cảnh sát đến đàn áp. Chiều ngày 3 tháng 5, chúng bắn bừa bãi vào đám biểu tình là 6 người chết và 50 người bị thương. Chúng lại cho bọn khiêu khích len vào cuộc mít tinh của công nhân, ném 2 quả bom làm chết một số tên cảnh sát. Mượn cớ đó, chúng xả súng vào quần chúng làm hàng trăm người chết và bị thương. Những người lãnh đạo phong trào bị bắt và nhiều người trong số đó bị kết án tử hình.

Lòng căm phẫn của công nhân Mỹ và những người lao động thế giới bùng cháy. Bọn tư bản đã lộ nguyên hình là những tên bóc lột tàn bạo. Chúng không từ bất cứ một thủ đoạn nào để dập tắt phong trào đấu tranh của quần chúng nhân dân. Nhưng dòng máu hy sinh của công nhân Si-ca-go càng nhuộm đỏ thắm lá cờ đấu tranh cách mạng do Mác và Ăng-ghen giương cao trong 40 năm qua kể từ ngày ra đời Tuyên ngôn Cộng sản.

Tại đại hội Quốc tế thứ hai năm 1889, dưới sự chỉ đạo của Ăng-ghen, một quyết nghị quan trọng đã được thông qua: đoàn kết giai cấp công nhân quốc tế đấu tranh cho khẩu hiệu "ngày làm 8 giờ" và chọn ngày 1 tháng 5 hằng năm làm ngày đấu tranh của giai cấp công nhân toàn thế giới. Ngày 1 tháng 5 được mở đầu bằng sự kiện Si-ca-go đã trở thành ngày biểu dương lực lượng của giai cấp công nhân, ngày đoàn kết quốc tế của những người lao động, ngày hội của nhân dân bị bóc lột. Ngày 1 tháng 5 trở thành ngày Quốc tế Lao động.

Hưởng ứng nghị quyết nói trên, ngày 1 tháng 5 năm 1890, công nhân nhiều nước đã bãi công, đấu tranh chống tư bản. nhiều cuộc biểu tình, mít tinh được tổ chức ở Đức, áo, Hung, Bỉ, Thụy Điển và nhiều nước khác. Khẩu hiệu chiến đấu của Mác và Ăng-ghen: "Vô sản tất cả các nước, đoàn kết lại" được giương cao. Công nhân Anh đòi ban hành đạo luật quy định ngày làm 8 giờ trong phạm vi cả thế giới. 10 vạn công nhân Pháp biểu tình rầm rộ ở Paris. Những sự kiện đó chứng tỏ giai cấp công nhân đã trưởng thành, đã bước đầu phối hợp đấu tranh trên quy mô rộng lớn.

Nơi đầu tiến hành kỷ niệm ngày 1 tháng 5 một cách công khai và hợp pháp với tư cách của người làm chủ là nước Nga Xô-viết, quê hương của Cách mạng tháng Mười vĩ đại. Từ đó, ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa, ngày 1 tháng 5 được coi là ngày hội lớn của quần chúng. Giai cấp công nhân, nông dân tập thể cùng các tầng lớp lao động khác ra sức thi đua xã hội chủ nghĩa để lấy thành tích chào mừng ngày Quốc tế Lao động.

ở nước ta, những ngày kỷ niệm 1 tháng 5 gắn liền với lịch sử đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trong nửa thế kỷ qua. Có thể kể đến một vài sự kiện quan trọng dưới đây:

Ngày 1 tháng 5 năm 1930, ngay sau khi Đảng Cộng sản Đông Dương thành lập, lần đầu tiên, giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam kỷ niệm ngày Quốc tế Lao động. Từ các thành phố đông dân như Hà Nội, Huế, Vinh, Sài Gòn, Gia Định đến các vùng nông thôn Thái Bình, Nghệ An, Long Xuyên, Sa Đéc, tùy theo điều kiện mà treo cờ búa liềm, rải truyền đơn, biểu tình, mít tinh. Đặc biệt là ở Vinh-Bến Thủy, hàng ngàn nông dân kéo về sát cánh cùng giai cấp công nhân biểu tình đòi ngày làm 8 giờ, tăng tiền lương, bỏ sưu, giảm thuế. Cuộc đấu tranh đó mở đầu cho một cao trào cách mạng đầu tiên dưới sự lãnh đạo của Đảng, đánh dấu một cuộc tổng diễn tập thứ nhất của cách mạng: cao trào Xô Viết Nghệ Tĩnh.

Mùng 1 tháng 5 năm 1938, tận dụng những khả năng hoạt động hợp pháp và nửa hợp pháp của thời kỳ Mặt trận dân chủ, Đảng ta tổ chức một cuộc mít tinh lớn, thu hút đến 25 nghìn người tham gia tại khu Đấu xảo Hà Nội (khu vực Nhà hát Nhân dân hiện nay). Đại diện các giai cấp công nhân, nông dân, tiểu thương và các đoàn thể xã hội đứng theo hàng ngũ, hát Quốc tế ca, hô vang khẩu hiệu cách mạng, chống chiến tranh đế quốc. Những hoạt động sôi nổi trong cả nước kỷ niệm ngày Quốc tế Lao động đã góp phần thắng lợi vào cuộc tổng diễn tập thứ hai, dẫn tới ngày cách mạng thành công.

Ngày 1-5 đã khắn sâu vào trái tim các chiến sĩ cách mạng bị tù đày. Mặc dầu nhà tù đế quốc rất khắc nghiệt, chế độ khủng bố rất dã man, nhiều đồng chí cộng sản đã tổ chức những buổi kỷ niệm trong buồng giam, đơn sơ mà nghiêm trang, động viên tinh thần đấu tranh cách mạng. Bài "Quốc tế ca" từ lời thơ phỏng dịch của đồng chí Nguyễn ái Quốc đến bài ca hoàn chỉnh đã vang lên từ các ngục tối, toát lên ý chí chiến đấu và tinh thần bất khuất của các chiến sĩ.

Sau khi giành Độc lập, ngày 29 tháng 4 năm 1946, Hồ Chủ tịch ký sắc lệnh quy định công nhân được hưởng lương ngày nghỉ lễ Quốc tế Lao động 1-5. Từ đó, ngày 1 tháng 5 được coi là một trong những ngày lễ chính thức của nhà nước ta.

Ba mươi năm sau ngày Cách mạng tháng Tám, một sự trùng hợp ngẫu nhiêu trong lịch sử đấu tranh cách mạng của dân tộc: ngày 1 tháng 5 năm 1975 toàn miền Nam được giải phóng, đất nước hoàn toàn Độc lập, Tự do.

Từ đó, đối với chúng ta, niềm vui của ngày 1 tháng 5 được nhân lên gấp bội.

5-5-1818 Ngày sinh Các Mác

 

Ngày 5-5-1818, Các Mác (Karl Marx) ra đời tại thành phố Tơ- ri- a cổ kính nằm bên dòng sông Mô-den, một nhánh của sông Ranh nổi tiếng. Ông cụ thân sinh của Mác là Hen-rích- Mác, một luật sư có tầm hiểu biết rộng lớn, có tài năng về tư pháp và phẩm cách liêm chính, được mọi người tôn kính. Trong những ngày còn ở trường trung học, Các Mác đã bộc lộ tư chất thông minh, ý chí tự lập và khả năng sáng tạo đầy hứa hẹn. Trong bài luận văn tốt nghiệp viết năm 17 tuổi, ông đã xác định sự nghiệp và hạnh phúc của mỗi con người mới không còn là ích kỷ, hạn chế và đáng thương, mà trái lại, nó sẽ trở thành hoàn thiện và vĩ đại.

Thời gian học tập ở trường đại học (1835-1841) của Mác thật là sôi nổi, khẩn trương và có ý nghĩa quan trọng đối với kho tàng trí thức và tài năng xét đoán của ông. Với trí thông minh và đức tính cần cù, ông đã nghiên cứu sâu sắc các vấn đề triết học, luật pháp, kinh tế, lịch sử và nhiều bộ môn khoa học khác. Ông tham gia các nhóm nghiên cứu, các câu lạc bộ triết học, các cuộc tranh luận học thuật trong giới bác học Đức. Kiến thức phong phú, sức mạnh lô- gích, tính chất sâu sắc và triệt để trong các kết luận của ông không những đã thuyết phục người nghe mà còn làm cho nhiều người bạn hữu tỏ lòng ngưỡng mộ. Một người bạn đã kể về Mác như sau: "Tiến sĩ Mác- đó là thần tượng của tôi- là một người hãy còn rất trẻ (ông ta chưa chắc đã đến 24 tuổi). Ông ta sẽ đánh đòn cuối cùng vào tôn giáo và chính trị thời trung cổ, trong con người ông ta có một sự nghiêm túc triết học sâu sắc kết hợp với một sự hóm hỉnh hết sức tinh vi. Anh hãy hình dung là Rút-xô, Vôn-te, Hôn-bác, Lét-xinh, Hai- nơ và Hê-ghen (Tên các danh nhân của thế kỷ 18 và 19 ở châu Âu) đã kết hợp vào trong một con người; tôi nói kết hợp chứ không phải hỗn hợp một cách máy móc- và như vậy, anh sẽ có một quan niệm đầy đủ về tiến sĩ Mác".

Thời gian lịch sử có ý nghĩa quyết định đối với lập trường cách mạng của Mác là từ năm 1841 đến 1847. Từ những bài viết trên "Báo sông Ranh" mang nội dung dân chủ sâu sắc đến những công trình phê phán triết học Hê-ghen trên "Niên giám Pháp- Đức", Các Mác đã kết hợp làm một, nhiệt tình sôi sục của người chiến sĩ cách mạng với sự phân tích khoa học của nhà nghiên cứu. Ông kịch kiệt phản bác những quan điểm duy tâm và siêu hình của triết học Đức khi đó, dứt khoát chuyển sang chủ nghĩa duy vật, xây dựng cơ sở triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Từ lập trường dân chủ, ông đứng hẳn sang lập trường cộng sản chủ nghĩa Ông đi đến kết luận thiên tài về sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản trong cuộc đấu tranh lật đổ chủ nghĩa tư bản và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Và từ đó, ông giành trọn sự nghiệp mình cho sự nghiệp cách mạng của giai cấp vô sản toàn thế giới. Cuộc gặp gỡ giữa Mác và Ăng-ghen ở Pa-ri (1844) đã nhân gấp bội sức mạnh đấu tranh cho lý tưởng cộng sản, mở đầu sự nghiệp chiến đấu vĩ đại của giai cấp vô sản mà tên tuổi của hai ông gắn bó bên nhau hầu như hòa làm một vậy. Kết quả của sự cộng tác đó là việc hoàn thành các tác phẩm "Gia đình thần thánh", "Hệ tư tưởng Đức"... nhằm trình bày một cách hệ thống những quan điểm cơ bản về chủ nghĩa cộng sản.

Năm 1848, công trình do hai ông soạn thảo là "Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản" được xuất bản lần đầu tiên ở nước Anh. Tuyên ngôn là một văn kiện bất hủ của chủ nghĩa cộng sản khoa học. Tuyên ngôn ra đời đánh dấu sự hình thành của học thuyết Mác như một học thuyết cách mạng hoàn chỉnh của giai cấp công nhân. Khẩu hiệu của tuyên ngôn: "Vô sản tất cả, các nước đoàn kết lại!" trở thành tiếng kèn xung trận giục giã giai cấp công nhân toàn thế giới tiến lên đấu tranh giải phóng khỏi mọi xiềng xích áp bức bóc lột của chủ nghĩa tư bản.

Thực tiễn của phong trào cách mạng năm 1848 đã kiểm nghiệm tính chính xác của những nguyên lý mác-xít. Từ đó, Mác đã đúc kết kinh nghiệm đấu tranh trong hai tác phẩm mẫu mực "Đấu tranh giai cấp ở Pháp" và "Ngày 18 tháng Sương mù của Lu-y Bô-na-pác-tơ". Đồng thời, Mác đấu tranh không khoang nhượng chống lạI các trào lưu cơ hội chủ nghĩa đang gây tác hạI trong phong trào công nhân. Cùng với Ăng-ghen và nhiều đồng chí khác, Mác đã tập hợp các lực lượng cách mạng và tiến bộ của giai cấp công nhân các nước trong một tổ chức chung. Năm 1864, "Hội liên hiệp giải phóng lao động" tức Quốc tế thứ nhất ra đời đã thực hiện việc truyền bá rộng rãi học thuyết mác-xít trong công nhân, đặt nền tảng vững chắc cho phong trào công nhân quốc tế.

Các Mác đã giành hàng chục năm trời để nghiên cứu quy luật kinh tế của chủ nghĩa tư bản, vạch trần quan hệ bóc lột giữa chủ và thơ trong xã hội đó. Quyển thứ nhất của công trình đồ sộ "Tư bản" đã trình bày những nguyên lý cơ bản của quan điểm kinh tế- xã hội của Mác và sư phê phán của ông đối với xã hội tư bản chủ nghĩa.

Đỉnh cao của phong trào công nhân giữa thế kỷ 19 là cuộc cách mạng vô sản Pháp năm 1871 dẫn đến sự thành lập Công xã Pa-ri. Mác theo dõi sát tiến trình của các sự biến ở Pháp, góp ý kiến chỉ đạo như một chiến sĩ thực thụ của công xã và kêu gọi giai cấp công nhân thế giới ủng hộ Công xã. Chỉ hai ngày sau khi công xã thất bại, Mác đã trình bày bảng báo cáo tổng kết nổi tiếng "Nội chiến ở Pháp". Trong đó, ông đã đúc kết một cách tài tình lý luận và kinh nghiệm thực tiễn trong việc xây dựng nhà nước chuyên chính của giai cấp vô sản.

Sau khi Quốc tế thứ nhất tự giải tán (1872), Mác và Ăng-ghen vẫn không ngừng chỉ đạo giai cấp công nhân các nước về mặt lý luận và tổ chức. Cuốn "Phê phán cương lĩnh Gô-ta" là một mẫu mực về tinh thần đấu tranh nghiêm khắc, tính nguyên tắc về mặt tổ chức và bước phát triển về mặt lý luận. Trong những năm 70 và 80 của thế kỷ 19, nhiều đảng công nhân thành lập ở Tây Âu và Bắc Mỹ đã tiếp thu chủ nghĩa Cộng sản khoa học của Mác Ăng-ghen.

Tổng kết công lao vĩ đại của Các Mác, Ăng-ghen nêu lên hai cống hiến của Mác đối với sự nghiệp cách mạng của giai cấp vô sản. Một là, ông đã thực hiện một cuộc cách mạng trong toàn bộ quan niệm về lịch sử thế giới. Đả phá những quan điểm duy tâm siêu hình, Mác đã vận dụng triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử vào việc xem xét tiến trình xã hội loài người. Ông khẳng định quy luật đấu tranh giai cấp, cuộc đấu tranh đó tất yếu sẽ dẫn đến chuyên chính vô sản. Nền chuyên chính đó là bước quá độ tiến lên xóa bỏ giai cấp, xây dựng một xã hội không có giai cấp. Học thuyết về chuyên chính vô sản là hòn đá tảng của chủ nghĩa xã hội khoa học, sợi chỉ đỏ xuyên suốt học thuyết Mác. Hai là, ông đã giải thích triệt để quan hệ bóc lột của bọn tư bản đối với công nhân, phát hiện quy luật "Giá trị thặng dư", đặt nền móng cho khoa học kinh tế chính trị học tư sản. Nói tóm lại, công lao và đồng thời cũng là thiên tài của Mác chính là ở chỗ ông đã giải đáp kịp thời và chính xác những vấn đề lớn của thời đại mà loài người tiến bộ đặt ra để tìm con đường và biện pháp giải phóng hoàn toàn các giai cấp lao động khỏi ách áp bức bóc lột của giai cấp tư sản.

Trên những chặng đường đi đến mục tiêu đó, Các Mác phải trải qua những năm tháng đấu tranh gian khổ chống các chính phủ phản động châu Âu luôn theo dõi, kiểm soát và trục xuất ông. Ông chống lại một cách kiên cường những đối thủ về tư tưởng và lý luận đang tìm cách xuyên tạc và phỉ báng ông, để lũng đoạn phong trào công nhân. Ông phải vượt qua mọi khó khăn của nghèo túng và bệnh tật thường xuyên ám ảnh cuộc sống của gia đình ông. Jen-ny Mác- người vợ yêu quý của ông đã thốt lên rằng không sao thoát được "những sợi dây ràng buộc của những hiệu bánh, hiệu thịt, hiệu sữa, hàng rau, hàng củi và những lực lượng đối địch khác nữa". ông phải nhanh chóng làm quen và sử dụng thông thạo các ngôn ngữ chính của châu Âu, coi đó là những "cửa sổ mở ra thế giới bên ngoài", là những vũ khí của cuộc đấu tranh... Đến khi 50 tuổi, ông bắt đầu học tiếng Nga để nghiên cứu và đón chờ một cuộc cách mạng sẽ nổ ra ở đây. "Khối óc của ông giống như một con tàu đang ở cửa biển, nhưng khi cần thì luôn luôn sẵn sàng đi bất cứ phương nào trên đại dương tư tưởng".

Các Mác đã vượt lên mọi trở ngại để đi thẳng đến mục tiêu của mình. Ông đã đấu tranh và đã chiến thắng với trái tim nóng bỏng, ý chí sắt đá và niềm tin mãnh liệt vào sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản. Không bao giờ ông nhân nhượng kẻ thù, lùi bước trước khó khăn. Mác mang hết công sức nghiên cứu khoa học để phục vụ sự nghiệp cách mạng. Ông tin tưởng mãnh liệt rằng: "Đối với khoa học, không có con đường nào bằng phẳng thênh thang cả, chỉ có những người không sợ chồn chân mỏi gối để trèo lên những con đường nhỏ bé gập ghềnh của khoa học mới có hy vọng đạt tới đỉnh cao xán lạn của khoa học mà thôi".

Sau những năm tháng lao động miệt mài, sức khỏe của Mác ngày càng giảm sút. 2 giờ 30 chiều ngày 14, tháng 3, năm 1883, Các Mác từ trần, thọ 65 tuổi. Vĩnh biệt người đồng chí vĩ đại, lãnh tụ thiên tài của giai cấp vô sản, Ăng-ghen nêu lên công lao to lớn của Mác và kết luận rằng :Trước hết, Mác là một người cách mạng (...). Đấu tranh là yếu tố tồn tại của cuộc đời Mác. Và Mác đã đấu tranh một cách say sưa, kiên cường, đạt được những thành công hiếm có". Những đại biểu chân chính của phong trào công nhân quốc tế đã đưa Mác đến nơi yên nghỉ tại nghĩa trang Hai-ghết ở Luân Đôn. Lễ tang được tổ chức giản dị theo ý nguyện của người đã khuất, chứa chan niềm thương tiếc và tình đồng chí của những người công sản.

Các Mác đã qua đời nhưng tư tưởng vĩ đại của Mác trở thành bất tử và học thuyết Mác-xít mãi mãi soi đường cho phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân. Mác đã chỉ ra con đường duy nhất để tư giải phóng mình là dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản, giai cấp vô sản liên minh chặt chẽ với giai cấp nông dân, dùng bạo lực cách mạng lật đổ ách thống trị của giai cấp tư sản, giành chính quyền về tay mình. Thực tiễn của phong trào đấu tranh đã kiểm nghiệm và làm phong phú kho tàng lý luận của chủ nghĩa xã hội khoa học. Từ đầu thế kỷ 20, V.I.Lê-nin đã phát triển sáng tạo những nguyên lý mác-xít và đưa đến thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917. Đến nay, học thuyết Mác- Lê-ninđã trở thành một hiện thực sinh động trên tráI đất, hệ thống xã hội chủ nghĩa đã trở thành nhân tố quyết định sự phát triển của xã hội loài người. Học thuyết Mác- Lê nin chẳng những đem lại cho giai cấp vô sản vũ khí sắc bén trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản mà còn vạch cho nhân dân bị áp bức con đường giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị tàn bạo của chủ nghĩa đế quốc.

Từ những năm 20 của thế kỷ này, Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu của chúng ta đã tiếp thu và vận dụng những nguyên lý của chủ nghĩa Mác- Lê nin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam. Thấm nhuần sâu sắc ý chí cách mạng tiến công, nhận thức sáng suốt trào lưu lịch sử của thời đại, Người đã khẳng định con đường cách mạng của Việt Nam phải là con đường chủ nghĩa Mác- Lênin, phải là gắn liền cách mạng dân tộc dân chủ với cách mạng xã hội chủ nghĩa, l2 "không có con đường nào khác cách mạng vô sản". Thắng lợi rực rữ của cách mạng Việt Nam trong nửa thế kỷ qua dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đã chứng minh sức mạnh vô địch của học thuyết Mác-Lênin, vạch ra xu thế tất yếu của thời đại là độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Trong niềm vui lớn lao của những ngày thắng lợi và quyết tâm xây dựng Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, Đảng ta và nhân dân ta đời đời ghi nhớ công ơn Các Mác và mãi mãi đi theo con đường chủ nghĩa Mác- Lê-nin vĩ đại.

 

7-5-1954 Chiến thắng Điện Biên Phủ

 

Điện Biên Phủ là một thung lũng phía Tây khu Tây Bắc, sát biên giới Việt-Lào, cách Hà Nội hơn 300 kilômét, cách hậu phương của ta hồi kháng chiến chống Pháp (Việt Bắc, khu 4) từ 300 đến 400 kilômét đường bộ.

Đế quốc Mỹ-Pháp coi đây là một ngã tư chiến lược quan trọng, một vị trí then chốt che chở cho Thượng Lào và có thể trở thành căn cứ không quân, lục quân lợi hại. Tháng 11.1953, địch mở cuộc hành quân Cát-to, ném 6 tiểu đoàn, do tướng Gin chỉ huy, nhảy dù xuống Điện Biên Phủ. Địch ráo riết xây dựng căn cứ quân sự Điện Biên Phủ. Tháng 3.1954, hệ thống cứ điểm Điện Biên Phủ bao gồm 49 cứ điểm, chia thành 8 cụm với tổng số quân 17 tiểu đoàn bộ binh, lính dù. Điện Biên Phủ có 2 sân bay riêng. Thu hút tới 80% lực lượng không quân của Pháp ở Đông Dương.

Tướng Mỹ Ô.Đa-ni-en xác nhận đây là một pháo đài bất khả xâm phạm, một Véc-đoong ở châu á. Na va tuyên bố giữ Điện Biên Phủ bằng bất cứ giá nào. Còn Đờ Cát-tơ-ri, tư lệnh Điện Biên Phủ, hăng hơn, cho rải truyền đơn thách thức quân ta tấn công Điện Biên Phủ.

Thực ra, ngay trong tháng 12-1953, Bộ Chính trị đã quyết định lấy Điện Biên Phủ làm điểm quyết chiến chiến lược. Ta đã bí mật điều chủ lực lên Tây Bắc bao vây Điện Biên Phủ. Mặt khác, ta đã mở các chiến dịch nghi binh, căng địch ra bằng cách tiến đánh Lai Châu (12-1953), Trung Lào (12-1953), Tây Nguyên (1-1954) và đẩy mạnh chiến tranh du kích ở đồng bằng Nam Bộ. Trung ương Đảng quyết định lập Đảng ủy và Bộ chỉ huy mặt trận do đồng chí Võ Nguyên Giáp đứng đầu. Chính phủ tổ chức Hội đồng cung cấp mặt trận do phó Thủ tướng Phạm Văn Đồng làm Chủ tịch. Đồng chí Trần Đăng Ninh được Tổng Quân ủy giao phụ trách toàn bộ vấn đề đường xá, tiếp tế cho chiến dịch...

Ngày 22.12.1953, Bác Hồ trao lá cờ Quyết chiến quyết thắng cho quân đội.

Cả nước hướng về Điện Biên Phủ. Dưới làn mưa bom bão đạn của địch, những con đường từ Yên Bái sang, từ Hòa Bình, Thanh Hóa lên được hình thành và ào ạt chuyển đạn dược, gạo muối lên Điện Biên, 26 vạn dân công với trên 3 triệu ngày công, gần hết số ôtô (628 chiếc), hàng ngàn thuyền bè, 2 vạn chiếc xe đạp... đã ra trận mở đường thắng lợi.

Quán triệt tư tưởng đánh chắc thắng nên sau 9 ngày đêm kéo pháo vào, lại phải kéo pháo ra. Những tấm gương hy sinh thân mình chèn pháo như Tô Vĩnh Diện, Nguyễn Văn Chức... Tháng 3-1954, công tác chuẩn bị cơ bản đã xong: các Đại đoàn chủ lực đã ở các vị trí tập kết. Chưa bao giờ bộ đội ta tập trung một lực lượng to lớn đến thế (gần 4 đại đoàn). Ngày 11.3.1954 Bác Hồ gửi thư cho bộ đội: "...các chú sắp ra trận, nhiệm vụ của các chú lần này rất to lớn, khó khăn, nhưng rất vinh quang..."

Từ 13.3 đến 17.3.1954 ta mở đợt một chiến dịch. Trong 5 ngày đêm đầu tiên ta diệt 2000 tên, hạ 12 máy bay, chiếm các đồi Him Lam (13.3), Độc Lập (15.3) và Bản Kéo (17.3).

Quá uất ức và lo sợ, trước sự thất bại bất ngờ, tên Pi-rốt, tư lệnh pháo binh địch tự tử.

Đợt hai chiến dịch mở từ 30.3 đến 24.4 nhằm tiêu diệt các cứ điểm ở phía Đông. Đây là đợt chiến đấu ác liệt gian khổ nhất. Đồi C1 giành đi giật lại. Bắn tỉa và đánh lấn diễn ra ở các đồi D1, E.. Bộ đội đào hào cắt đôi sân bay Mường Thanh, cắt khu Nam và khu Trung Tâm, tạo nên chiếc thòng lọng xiết chặt cổ địch. Một tên tướng thực dân lúc đó đã thú nhận Điện Biên Phủ đã thành một góc của địa ngục.

Trước thế bí, Pháp tung hết máy bay vận tải cứu Điện Biên Phủ, Mỹ tăng thêm 100 chiếc. Có ngày chúng huy động 250 lần chiếc. Kho dù Đông Phương cạn sạch. Mỹ vội vã lập cầu hàng không từ Nhật, Mỹ sang nhưng 62.000 chiếc dù ném xuống phần lớn rơi vào tay quân ta.

Mỹ còn dọa dùng bom nguyên tử! Nhưng chúng không thay đổi được cục diện chiến tranh.

Bộ đội ta nhanh chóng chiếm các điểm cao còn lại ở phía Đông và tả ngạn sông Nậm Rốn. Đêm 3.5, ta còn cách chỉ huy sở của địch khoảng 300 mét. Quân địch định tổ chức thành 3 cánh quân, xé vây tháo chạy sang Lào. Nhưng chiều 6.5, toàn bộ pháo binh và 1 đại đội hỏa tiễn 6 nòng đã chụp lửa vào trung tâm địch.

Sáng 7.5, đồi A1, cao điểm cuối cùng thất thủ, cầu Mường Thanh đã rơi vào tay quân ta. Địch cố gắng tổ chức phản kích, nhưng đến chiều 7.5 ta đã thực hiện tổng công kích, tiến thẳng vào chỉ huy sở của chúng.

17 giờ 30 ngày 7.5, Đờ Cát-tơ-ri tên tướng tư lệnh và toàn bộ tham mưu địch bị bắt sống. Gần 1 vạn tên nhảy khỏi hầm hố xin hàng...

Thế là sau 56 ngày đêm chiến đấu liên tục và mãnh liệt, lá cờ Quyết chiến quyết thắng của Hồ Chủ Tịch đã phất cao trên nắp hầm chỉ huy địch ở Điện Biên Phủ.

Điện Biên Phủ là trận tiêu diệt lớn nhất trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Ta đã tiêu diệt và bắt sống trên 16.000 tên, trong đo có 1 tướng, 16 quan năm, 1.749 sĩ quan và hạ sĩ quan, bắn rơi và phá hủy 62 máy bay các loại, thu 30 trọng pháo, 6 xe tăng, 6 vạn chiếc dù...

Điện Biên Phủ là trận hiệp đồng binh chủng lớn nhất trong cuộc kháng chiến chống Pháp, là chiến thắng to lớn nhất của quân và dân ta. Những tấm gương hy sinh như Phan Đình Giót, Bế Văn Đàn, Tô Vĩnh Diện... cùng với danh hiệu chiến sĩ Điện Biên, mãi mãi là những biểu hiệu tượng trưng cho tinh thần Việt Nam.

Với Chiến thắng Điện Biên lừng lẫy địa cầu nhân dân ta đã phá tan kế hoạch Nava cùng mọi mưu đồ chiến lược điên rồ của đế quốc Mỹ và thực dân Pháp thành mây khói, góp phần quyết định vào thắng lợi của hội nghị Giơ-ne-vơ về vấn đề Đông Dương.

Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ không những được coi như một Bạch Đằng, một Đống Đa, một Chi Lăng trong thế kỷ 20 mà còn đi vào lịch sử thế giới như một chiến công chói lọi đột phá thành trì của hệ thống nô dịch của chủ nghĩa đế quốc.

15-5-1941 Thành lập đội thiếu niên nhi đồng cứu quốc (đội thiếu niên Tiền Phong Hồ Chí Minh ngày nay)

 

Từ khi ra đời Đảng ta rất quan tâm đến công tác giáo dục thế hệ trẻ. Ngày 26 tháng 3 năm 1931, Đảng ta đã sáng lập ra Đoàn Thanh niên Cộng sản Đông Dương và giao nhiệm vụ cho Đoàn trực tiếp phụ trách việc giáo dục thiếu niên và nhi đồng, tổ chức con em thợ thuyền, nông dân bị áp bức vào các tổ chức thích hợp với các em lúc đó như Đồng tử quân, Hồng nhi đội... tiền thân cho đội Thiếu niên tiền phong và đội nhi đồng Hồ Chí Minh hiện nay.

Ngày 8.2.1941, Bác Hồ về nước trực tiếp chỉ đạo cách mạng Việt Nam. Tháng 5.1941, hội nghị trung ương Đảng lần thứ 8 họp và ra những nghị quyết cực kỳ quan trọng trong đó có chủ trương thành lập Mặt trận Việt Minh để đoàn kết toàn dân đánh Pháp, đuổi Nhật, giành độc lập tự do cho Tổ quốc.

Đúng lúc ấy, ngày 15.5.1941, Đảng ta đã ra chỉ thị cho Đoàn thành lập đội Thiếu niên Tiền Phong và Hội Nhi đồng cứu vong và tổ chức thí điểm ngay tại Pác Bó (Cao Bằng). Sự kiện này có ý nghĩa lịch sử đối với công tác thiếu niên và nhi đồng ở nước ta, vì thế ngày 15.5.1941 được coi là ngày chính thức thành lập Đội.

Hoạt động của đội thời kỳ này nhằm vào mục đích "Dự bị vào giúp đánh Tây, đánh Nhật làm cho Việt Nam hoàn toàn độc lập" (điều lệ Hội Nhi đồng cứu vong). Các em trong đội được tổ chức học quốc ngữ, học hát những bài ca cách mạng. Các em còn tham gia bảo vệ cán bộ cách mạng, làm liên lạc cho các đội Cứu quốc quân, Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân.. Kim Đồng, tấm gương tiêu biểu cho thế hệ thiếu niên thời kỳ đấu cách mạng đã anh dũng hy sinh ngay bên con suối Lênin, gần hang Pác Bó của Bác Hồ, bảo vệ cán bộ thoát khỏi vòng vây của kẻ thù trong hoàn cảnh hiểm nghèo.

Sau cách mạng tháng Tám, Hội Nhi đồng cứu vong được đổi tên thành Hội Nhi đồng cứu quốc. Tháng 3.1951, Hội đổi tên thành Đội Thiếu nhi Tháng Tám. Trong giai đoạn này các em đã tham gia công tác Trần Quốc Toản, giúp đỡ các gia đình thương binh, liệt sĩ neo đơn. Tiêu biểu cho thế hệ chống Pháp là Lê Văn Tám (Sài Gòn) với danh hiệu bất tử Em bé đuốc sống, Dương Văn (Hà Nội) tự tay bắn chết 3 tên Pháp và hy sinh anh dũng tại trận phục kích địch ở trận Xấu Giá (Sơn Tây), và Vừ A Dính (Lai Châu)... Các đơn vị nổi tiếng như: Đội Thiếu niên du kích Đình Bảng, Đội Thiếu niên du kích thành Huế, Đội Thiếu niên du kích Đồng Tháp Mười...

Hòa bình lập lại, tại Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ hai (tháng 11.1956), Đội Thiếu nhi tháng Tám được đổi tên thành Đội Thiếu niên Tiền Phong cho cả hai lứa tuổi thiếu niên và nhi đồng. Ngày 19.3.1961, Ban Bí thư trung ương Đảng lại giao cho Trung ương Đoàn tổ chức riêng lứa tuổi nhi đồng vào Đội Nhi đồng tháng Tám.

Vào dịp kỷ niệm 20 năm thành lập Đội, ngày 15.5.1961, Bác Hồ ra lời dặn 5 điều tiếng mở đầu phong trào thi đua học tập, làm kế hoạch nhỏ góp phần xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Làm theo 5 điều Bác dạy, đội viên và thiếu niên trường cấp I Hải Nhân (Thanh Hóa), trường cấp 2 Bắc Lý (Hà Nam Ninh), trường cấp 1, 2 Cẩm Bình (Nghệ Tĩnh) đã ghi vào lịch sử Đội những trang mới. Năm 1962, từ xã Liên Sơn (Tiên Sơn, Hà Bắc) đã khởi phát phong trào thiếu niên làm nghìn việc tốt.

Trong sự nghiệp chống Mỹ cứu nước, thiếu niên hai miền Nam Bắc đã biểu lộ tinh thần yêu nước nồng nàn cùng cha anh đánh giặc. Truyền thống anh hùng của Kim Đồng, Lê Văn Tám được tiếp tục phát huy với tên tuổi của Đoàn Văn Luyện, Kơ-pa-kơ-lơng... (miền Nam), của Nguyễn Bá Ngọc, Nguyễn Đỗ Hùng (miền Bắc). Các em đã góp phần xứng đáng vào công việc sản xuất, bảo vệ trị an, nêu lên nhiều tấm gương học tốt và tham gia tích cực công tác Trần Quốc Toản. Thiếu niên Việt Nam đã làm tròn trách nhiệm Đảng giao.

Vâng lời bác dạy

Làm nghìn việc tốt

Chống Mỹ cứu nước

Thiếu niên sẵn sàng

Sau khi Bác Hồ mất, ngày 30.1.1970 thể theo nguyện vọng của thiếu niên và nhi đồng cả nước, Ban chấp hành trung ương Đảng đã quyết định cho Đoàn và Đội mang tên Bác. Từ đó đến nay Đội có tên:

Đội Thiếu niên Tiền Phong Hồ Chí Minh

Đội Nhi đồng Hồ Chí Minh

Từ tổ chức 8 thiếu niên đầu tiên trong đó có Lý Tự Trọng do Bác Hồ tổ chức khi Người về Quảng Châu (Trung Quốc) nhen nhúm ngọn lửa cách mạng, ngày nay Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh và Đội Nhi đồng Hồ Chí Minh đã có hàng triệu đội viên vai mang khăn quàng đỏ thắm, tiêu biểu cho thế hệ măng non đất nước, niềm tin và hy vọng của Tổ quốc Việt Nam.

Ngày truyền thống của Đội-15.5-mãi mãi là ngày hội của thiếu niên nhi đồng Việt Nam lớp này đến lớp khác thể hiện niềm tự hào về Đảng tiên phong, về Dân tộc anh hùng, phấn đấu đạt danh hiệu quen thuộc mà cao quý cháu ngoan Bác Hồ, xứng đáng là người kế tục tương lai sự nghiệp cách mạng của Bác Hồ muôn vàn kính yêu.

 

19-5-1890 Ngày sinh chủ tịch hồ chí minh

 

19 tháng 5, một trong những ngày in dấu ấn sâu đậm nhất trong tâm trí nhân dân Việt Nam vì đó là ngày sinh người con vĩ đại nhất của dân tộc: Bác Hồ.

Ngày 18-5-1946, báo Cứu Quốc xuất bản ở Hà Nội có đăng một bài đặc biệt được bạn đọc đông đảo trong và ngoài nước hết sức chú ý. Đó là bài "Cụ Hồ Chí Minh với dân tộc Việt Nam".

Bài báo có đoạn viết: "... Ngày 19 tháng 5 này, năm mươi sáu năm trước đây (1890) đã ra đời một con người: Hồ Chí Minh.

Bằng bàn tay khéo léo và quả quyết, chính ông đã khai sinh, đã nuôi nấng nhiều đoàn thể cách mạng Việt Nam. Tinh thần hoạt động của hầu hết các chiến sỹ Việt Nam đều do bàn tay tài tình của ông hun đúc..."

Bài báo đã nói đến những cống hiến của Hồ Chủ tịch với cách mạng, đã ca ngợi Người là linh hồn, là hiện thân của cách mạng Việt Nam và nêu cao ý nghĩa to lớn của ngày 19 tháng 5.

Đó là lần đầu tiên toàn thể dân tộc Việt nam cũng như bè bạn trên thế giới được biết ngày sinh của Hồ Chủ tịch.

Đúng ngày 19-5, nhân dân cả nước vui mừng chào đón ngày sinh của Bác. Các cháu thiếu nhi, trống ếch rộn ràng trước Bắc Bộ phủ mừng thọ Bác. Bác tặng thiếu nhi một cây bách tán, lá nhỏ xanh đậm. Khi tiếp đoàn đại biểu của Nam Bộ đang chiến đấu, Bác cảm động nói:

"... Tôi xin cảm ơn các anh chi Nam Bộ đến chúc thọ tôi. Thật ra các báo chí ở đây làm to lên cái ngày sinh của tôi, chứ tuổi 56 chưa có gì đáng được chúc thọ, cũng hãy còn như thanh niên cả, mà trước các anh chị, trước cảnh êm vui ở Bắc đây, tôi thấy lấy làm xấu hổ vì trong Nam chưa được thái bình..."

Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh ngày 19-5-1890 ở quê ngoại là làng Hoàng Trù, sau về quê nội là làng Kim Liên, nay thuộc xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ Tĩnh.

Cụ thân sinh ra Người là Nguyễn Sinh Huy, tức Nguyễn Sinh Sắc (1863-1929). Đỗ phó bảng năm 1901, bị ép làm quan, nhưng vốn có tinh thần yêu nước và khẳng khái, cụ Nguyễn Sinh Sắc bị chúng cách chức. Cụ vào Nam Kỳ làm nghề bốc thuốc, sống thanh bạch cho đến lúc qua đời.

Thân mẫu của Người là cụ Hoàng thị Loan (1868-1900), là người phụ nữ trung hậu, đảm việc, chịu thương, chịu khó nuôi con.

Chị cả của Bác là bà Nguyễn Thị Thanh (1884-1954), tức Bạch Liên nữ sĩ. Trong hồ sơ của mật thám Pháp, bản lý lịch của Nguyễn Tất Thành khi xin vào xưởng Ba Son (1911), có ghi: " Nguyễn Thị Thanh tức Bạch Liên sống độc thân có liên lạc với quân phiến loạn ở Nghệ Tĩnh, lầy trộm 3 khẩu súng trong trại lính Vinh, đã bị kết án 9 năm khổ sai..."

Anh ruột của Bác là đông Nguyễn Sinh Khiêm tức Nguyễn Tất Đạt (1888-1950) cũng từng tham gia phong trào chống Pháp và bị tù đày.

Từ 1890 đến 1901 Bác sống ở quê ngoại, cách làng Kim Liên quê nội không xa. Tên khai sinh của Bác là Nguyễn Sinh Cung. Người thầy có ảnh hưởng nhất trong tuổi ấu thơ của Người là cử nhân Vương Thúc Quý. Cụ Quý là bạn thân của cụ Phó bảng Sắc và là con thủ lĩnh Chung nghĩa binh Vương Thúc Mậu thời Cần Vương. Đội nghĩa binh của Vương Thúc Quý chiến đấu quanh vùng núi Chung (Nam Đàn), khi bị Pháp vây bắt, cụ Vương Thúc Quý đã nhảy xuống ao hy sinh ngay ở làng Sen cạnh nhà Bác.

Chính ở ngôi nhà nhỏ ở làng Sen, trước khi bước vào mái trường Quốc học Huế (1905), cậu Cung đã được vị túc nho Vương Thúc Quý hết lòng giúp đỡ, tinh thông tứ thư ngũ kinh...

Nhưng điều quan trọng hơn cả là cậu Cung được thầy học cho biết đường tận các địa điểm, biến diễn của các cuộc khởi nghĩa ngay trên đất quê nhà của Trần Tấn, Đặng Như Mai, của Phan Đình Phùng, Nguyễn Xuân Ôn, Vương Thúc Mậu và cả phong trào Đông du của cụ Phan Bội Châu đang diễn ra âm ỷ... Cậu Cung rất chú ý lắng nghe những cuốc đàm đạo của cha mình với các đồng chí, bè bạn như Sào Nam Phan Bội Châu, Vương Thúc Quý, đội Quyên (Đại Đấu)...

Cậu Cung trở thành liên lạc cho các nhà nho yêu nước. Nhưng rồi cậu Cung không quanh quẩn ở lũy tre làng, cũng không đi sang Nhật theo Phan Bội Châu như bao người cùng thế hệ. Năm 1908, sau khi tham gia phong trào chống thuế, bị đuổi học, Nguyễn Tất Thành bỏ vào Nam. Người đừng lại ít lâu ở Phan Thiết, đạy học ở trường Dục Thanh do một số nhà giáo yêu nước lập ra. Sau đó, Người và Sài Gòn rồi xuống tàu xuất dương để đi tìm đường cứu nước.

Trong 10 năm (1911-1920) Người đã đi khắp năm châu bốn biển, làm hàng chục nghề để tự vô sản hóa mình và tìm ra chân lý- con đường cách mạng vô sản, cái cẩm nang thần kỳ mà cả dân tộc Việt Nam đang mong đợi, 1920-1930 là thời gian Người truyền bá chủ nghĩa Mác-Lê-nin vào Việt Nam để tiến hành thành lập Đảng. Cũng như giai đoạn trước, để có ngày 3-2-1930 ở Cửu Long (Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam) (Trung Quốc) Người đã đi từ Pa-ri tới Mát-xcơ-va rồi từ Quảng Châu vòng trở lại châu Âu và cuối năm 1928 lại trở về Đông bắc Thái Lan...

Sau 30 năm xa tổ quốc, mùa xuân 1941 Người trở về Pác Bó (Cao Bằng) trực tiếp lãnh đạo công cuộc đấu tranh chống Nhật Pháp, phát động Tổng khởi nghĩa trong cả nước, mở ra thắng lợi vĩ đại của Cách mạng tháng Tám 1945.

Từ đó cho đến khi Người qua đời (3-9-1969) Người đã cùng Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo thắng lợi hai cuộc kháng chiến, đánh bại hai đế quốc to là Pháp và Mỹ, đưa Việt Nam vào kỷ nguyên độc lập và chủ nghĩa xã hội, thời kỳ phát triển rực rỡ nhất của dân tộc.

Nếu như năm 1911, dân tộc Việt Nam có Anh Ba- người phụ bếp trên tàu, năm 1920 có Nguyễn ái Quốc- người Cộng sản, thì từ ngày 2-9-1945 nhân dân Việt Nam có Chủ tịch Hồ Chí Minh, người khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa- và ngày nay, một cách chung nhất, kính yêu nhất, chúng ta có Bác Hồ của Tổ quốc Việt Nam.

Ngày 19 tháng 5! Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong quá khứ cũng như trong tương lai, mãi mãi là một trong những ngày vui nhất của dân tộc Việt Nam, ngày hướng về một lẽ sống cao đẹp nhất của con người.

 

19-5-1941 thành lập mặt trận việt minh

 

Mặt trận là vấn đề tìm bạn đồng minh trong đấu tranh cách mạng. Chính sách mặt trận của Đảng ta hình thành rất sớm, nhằm tìm bạn đồng minh cho giai cấp công nhân. Mặt trận Việt Minh là một trong những điển hình thành công về công tác mặt trận của Đảng ta.

Đầu năm 1941, tại hai làng Nậm Quang và Ngằn Tẩy (thuộc Tĩnh Tây, Trung Quốc), đồng chí Nguyễn ái Quốc quyết định xây dựng thí điểm một số đoàn thể cứu quốc của Mặt trận Việt Minh, bằng cách mở lớp huấn luyện đầu tiên cho 40 học viên người Cao Bằng. Đồng chí Phùng Chí Kiên, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp giúp Người mở lớp đó.

Ngày 26-1-1941, 40 cán bộ đó đã về Cao Bằng gây cơ sở. Cao Bằng được chọn làm nơi thí điểm vì: "Cao Bằng có phong trào tốt từ trước, lại kề sát biên giới, lấy đó làm nơi liên lạc quốc tế rất thuận lợi" (lời Hồ Chủ tịch). Sau 3 tháng thí điểm (từ tháng 2 đến tháng 4 năm 1941) ở hai huyện Hòa An và Hà Quảng, đã có nhiều tổng và xã có cơ sở Việt Minh.

Ngày 8-2-1941, sau ba năm bôn ba hải ngoại, đồng chí Nguyễn ái Quốc đã về Pác Bó- Cao Bằng, mở ra cả một thời kỳ mới cho cách mạng Việt Nam.

Lúc ấy, những tiếng súng báo hiệu cuộc Tổng khởi nghĩa toàn quốc đã nổ giòn, mở đầu là khởi nghĩa Bắc Sơn (27-9-1940), Nam Kỳ (23-11-1940) và cuộc binh biến Đô Lương của Đội Cung và Cai á (13-1-1941)...

Tháng 4-1941, hội nghị cán bộ tỉnh Cao Bằng do đồng chí Hoàng Văn Thụ và Vũ Anh chủ trì đã khẳng định kết quả bước đầu của Mặt trận Việt Minh, làm cơ sở thực tiễn cho Hội nghị Trung ương lần thứ 8 của Đảng do đồng chí Nguyễn ái Quốc chủ trì vào tháng 5-1941.

Ngày 10-5-1941, Hội nghị được nhóm họp ở khu rừng Khuổi Nặm thuốc khu vực Pác Bó (Cao Bằng) với sự tham gia của các đồng chí Hoàng Văn Thụ, Trường Chinh, Phùng Chí Kiên. Hội nghị này là bước hoàn chỉnh sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược do các hội nghị Trung ương lần thứ 6 và 7 trước đó vạch ra, là sự kiện có ý nghĩa quyết định cho chung cục của cách mạng Tháng tám.

Để tập trung mũi nhọn chống đế quốc, giành độc lập dân tộc, theo đề nghị của đồng chí Nguyễn ái Quốc, Hội nghị quyết định lấy ngày 19-5, ngày hội nghị bế mạc, làm ngày thành lập Mặt trận Việt Minh.

Các tổ chức thành viên của Việt Minh đều có tên là Hội Cứu Quốc như Công nhân cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc, Thanh niên cứu quốc, Nông dân cứu quốc...

Tuyên ngôn của Việt Minh có đoạn viết: "... chủ trương liên hiệp hết thảy các giới đồng bào yêu nước, không phân biệt giàu nghèo, già trẻ, gáI trai, không phân biệt tôn giáo và xu hướng chính trị đặng cùng nhau mưu cuộc sinh tồn và giải phóng. Mặt trận Việt Minh phất cao lá Cờ đỏ sao vàng, kêu gọi toàn dân đánh Pháp, đuổi Nhật, cứu nước, cứu nhà.

Ngày 25-10, Tổng bộ Việt Minh công bố chương trình hành động gồm 10 đIúm làm ngôi sao chiếu sáng cho đồng bào trên con đường cách mạng vẻ vang anh dũng. Đồng chí Nguyễn ái Quốc đã soạn thành bài thơ dài theo thể song thất lục bát gồm 212 câu, trong đó có đoạn:

... Có mười chính sách bày ra

Một là ích Nước hai là lợi Dân...

Dưới ngọn cờ cứu nước của Việt Minh, phong trào cách mạng tiến triển mau lẹ. ở Cao Bằng, Việt Minh có hệ thống từ xã đến tỉnh. Cuối năm 1942, khắp 9 châu của Cao Bằng đã có hội cứu quốc, trong đó có 3 châu mọi người đều gia nhập tổ chức Việt Minh, xã nào cũng có ủy ban Việt Minh. ủy ban Việt Minh Cao Bằng và ủy ban Việt Minh lâm thời Cao- Bắc- Lạng được thành lập.

ở căn cứ Bắc Sơn- Võ Nhai, Cứu Quốc dân đã tiến hành 8 tháng chiến tranh du kích anh dũng (từ 7-1942 đến 2-1943), mở ra khả năng lập căn cứ địa cách mạng, kết hợp đấu tranh chính trị rộng lớn với việc phát động chiến tranh du kích rộng lớn.

Năm 1943, ủy ban Việt Minh Cao- Bắc- Lạng lập ra 19 ban xung phong Nam tiến để đánh thông với căn cứ Bắc Sơn- Võ Nhai. Tháng 8-1943, đội quân Nam tiến của đồng chí Võ Nguyên Giáp và đội quân Bắc Tiến của đồng chí Chu Văn Tấn đã xuyên rừng, nhổ đồn địch dọc đường đồi gặp nhau ở Chợ Chu (Bắc Cạn), tạo ra một hành lang chính trị rộng lớn của quần chúng, chuẩn bị thành lập khu giảI phóng.

ở thành thị, phong trào Việt Minh cũng lên mạnh. Sau khi đề cương văn hóa 1943 của Đảng được công bố, Hội văn hóa cứu quốc thành lập. Năm 1944, Đảng dân chủ Việt Nam, tiêu biểu cho tầng lớp tư sản dân tộc và tiểu tư sản trí thức Việt Nam tham gia mặt trận.

Tại khu Việt Bắc, chính quyền địch ở cơ sở bị tê liệt, quần chúng bắt đầu làm chủ thôn xóm ở mức độ nhất định. Việt Minh là người đại diện quyền làm chủ của quần chúng, trực tiếp giảI quyết mọi công việc của thôn xóm.

Giữa năm 1944, chính phủ Pê-tanh của Pháp đổ, quân Nhật thua đậm ở Thái Bình Dương. Ngày 7-6, tổng bộ Việt Minh ra chỉ thị sửa soạn khởi nghĩa.

Sau đảo chính Nhật Pháp 9-3-1945, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Mặt trận Việt Minh ráo tiết cao trào "Kháng Nhật , cứu nước". 16-4, Tổng bộ Việt Minh lập ra ủy ban dân tọc giảI phóng, tập dượt cho nhân dân nắm chính quyền. Ngày 4-6-1945, tổng bộ Việt Minh tuyên bố thành lập Khu giải phóng Việt Bắc bao gồm 6 tỉnh, với thủ đô Tân Trào lịch sử. Đó là mảnh đất tự do đầu tiên của 1 triệu đồng bào, là hình ảnh của nước Việt Nam mới, ở miền xuôi, mặt trận Việt Minh đi đầu phong trào "phá kho thóc giải quyết nạn đói", thổi bùng ngọn lửa khởi nghĩa từng phần trong thời kỳ tiền khởi nghĩa.

Ngày 13-8, phát xít Nhật đầu hàng vô điều kiện. Cơ hội cứu nước ngàn năm có một đã tới. Tình thế vô cùng khẩn trương.

Lúc ấy Hồ chủ tịch đã về Tân Trào trực tiếp chỉ đạo cách mạng. Ngày 16-8, dưới mái đình Hồng Thái, Quốc dân đại hội Tân Trào bao gồm 60 đại biểu cả nước đã họp để thông qua Mệnh lệnh khởi nghĩa của tổng bộ Việt Minh, 10 chính sách lớn của Việt Minh và cử ra ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam do cụ Hồ Chí Minh làm chủ tịch.

Cũng ngày đó, 16-8, cùng với tiếng súng của đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân tiến về thị xã Thái Nguyên, cả nước đã nhất tề đứng dậy tổng khở nghĩa theo hiệu triệu của Việt Minh. Cách mạng tháng Tám đã thắng lợi hoàn toàn sau 15 ngày tiến công và nổi dậy bằng bạo lực chính trị và quân sự của quần chúng, dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Có thể nói Mặt trận Việt Minh là một trong những điển hình thành công của Đảng ta về công tác Mặt trận. Sau cách mạng tháng Tám, Mặt trận Việt Minh vẫn có vị trí rất to lớn trong công cuộc vận động kháng chiến và kiến quốc. Tháng 5-1946, để mở rộng hơn nữa khối đại đoàn kết, Đảng ta chủ trương lập Hội liên hiệp quốc dân Việt Nam gọi tắt là Liên Việt bao gồm Việt Minh và các tổ chức cá nhân yêu nước không phải Việt Minh.

Mặt trận Việt Minh của cách mạng tháng Tám, Mặt trận Liên Việt của kháng chiến chống Pháp, Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam của kháng chiến chống Mỹ, và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hiện nay- là những biểu tượng đẹp đẽ của khối đại đoàn kết dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng ta, dựa trên nền tảng liên minh công nông, là một trong những bí quyết thành công của cách mạng Việt Nam.

 

1-6-1950 Ngày Quốc tế thiếu nhi

 

Tháng 2 năm 1949, Liên đoàn Phụ nữ dân chủ quốc tế hợp tại Mát-xcơ-va đã quyết định hàng năm lấy ngày 1 tháng 6 làm Ngày Quốc tế bảo vệ thiếu nhi.

Ngay sau đó, nhiều tổ chức dân chủ quốc tế như Liên hiệp công đoàn thế giới, Liên đoàn thanh niên dân chủ quốc tế, đã hoàn toàn nhất trí với quyết định trên của Liên đoàn Phụ nữ dân chủ quốc tế.

Từ đó, kể từ năm 1950, ngày 1 tháng 6 đã trở thành ngày hội của thiếu nhi quốc tế.

Trở lại lịch sử của ngày hội quốc tế này.

Năm 1942. Phần lớn các nước ở châu Âu khi ấy đang rên xiết dưới gót giày của quân đội phát xít Hít-le. ở khắp mọi nơi chúng dựng nên nhan nhản những giá treo cổ, những nhà tù, những trại tập trung và những lò thiêu người. Chúng đã tàn sát cực kỳ man rợ hàng chục triệu người, từ các cụ già cho tới các em thơ. Cũng vào năm ấy, một làng nhỏ ở Tiệp Khắc-làng Li-đi-xơ xinh đẹp- đã phải chịu đựng những tội ác tàn bạo của bọn Hít-le.

11 giờ đêm ngày 9 tháng 6, bọn phát xít Đức bất ngờ sục vào Li-đi-xơ, khi dân làng đang ngủ yên. Chúng ra lệnh tập trung làng và vơ vét hết tiền bạc, của cải của họ một cách trắng trợn. Cướp xong, bọn phát xít bắt đầu tàn sát. Những em bé chưa đầy một tuổi liền bị giật khỏi tay những bà mẹ, quẳng lên xe chở đi nơi khác. Những thiếu nữ khoảng 15 tuổi cùng các phụ nữ trong làng đều bị đưa đến trại tập trung. Những thiếu niên, thanh niên và nhiều người khác bị bắn chết ngay tại chỗ. Những người còn lại thì bị chúng đẩy vào các lò thiêu người. Chỉ một ngày hôm đó, bọn đao phủ Hít-le đã giết 192 người dân làng Li-đi-xơ, trong đó có 98 trẻ em. Toàn bộ nhà cửa, ruộng vườn trong làng đều bị đốt phá, san thành bình địa, chẳng khác một cánh đồng bỏ hoang.

Nhưng chưa phải đã hết. Hai năm sau, năm 1944, cũng vào ngày 10 tháng 6, bọn khát máu quốc xã lại gây ra những tội ác man rợ như ở Li-đi-xơ. Bọn phát xít kéo đến bao vây Ô-ra-đua, một thị trấn nhỏ ở miền Trung nước Pháp, dí súng và lưỡi lê vào từng người dân, đẩy họ vào trong nhà thờ, rồi tưới dầu xăng thiêu chết (642 người trong đó có tới 267 trẻ em).

Những tin tức thê thảm từ Li-đi-xơ và Ô-ra-đua đã làm chấn động dư luận thế giới. Đó là những tội ác cực kỳ man rợ, trời không dung, đất không tha đối với bọn phát xít khát máu.

Nhờ những chiến thắng oanh liệt của Hồng quân Liên Xô và các lực lượng dân chủ thế giới, chủ nghĩa phát xít đã bị tiêu diệt, bè lũ Hít-le đã phải đền tội. Chiến tranh thế giới kết thúc, nhưng loài người mãi mãi không thể quên những tiếng kêu gào thảm thiết của các em bé và những người dân vô tội ở Li-đi-xơ và Ô-ra-đua cũng nhưở trăm nghìn nơi khác, đã bị chủ nghĩa phát xít giết hại. Loài người mãi mài khắc sâu những tội ác ở Li-đi-xơ, Ô-ra-đua...và quyết không tái diễn những Li-đi-xơ mới, những Ô-ra-đua mới.

Sau chiến tranh, nhiều nơi ở châu Âu và trên thế giới đã dựng đài căm thù và đặt tên Li-đi-xơ cho nơi mình. Nhiều người đã tới Li-đi-xơ... vào cuối năm 1957, trong dịp đi thăm nước Cộng hòa Tiệp Khắc, Bác Hồ và Đoàn đại biểu Đảng và Chính phủ ta đã tới đặt vòng hoa tại đài kỷ niệm Li-đi-xơ. Tại đây, Bác Hồ đã nói: "Chúng ta quyết phấn đấu để cho trên thế giới không bao giờ có những cảnh thảm sát như ở Li-đi-xơ nữa, để con cháu chúng ta không bao giờ phải nếm mùi khủng khiếp của chiến tranh, để con cháu chúng ta lớn lên sung sướng trong hòa bình"

Chiến tranh kết thúc, nhưng nền hòa bình thế giới vẫn còn bị đe dọa. Bọn phát xít mới đã xuất hiện bên kia đại dương, tàn bạo hơn, xảo quyệt hơn. Đó là chủ nghĩa đế quốc Mỹ. Cậy thế lắm tiền, nhiều súng, nhờ vơ vét trong chiến tranh đế quốc Mỹ đã điên cuồng theo đuổi mưu đồ thống trị toàn thế giới, hung hăng gây chiến tranh xâm lược, bành trướng nô dịch các dân tộc.

Nhưng tình hình đã đổi thay. Loài người tiến bộ không thể làm ngơ. Cả thế giới đã dấy lên một phong trào hòa bình sôi nổi, lôi cuốn hàng trăm triệu người trên mọi nẻo của các lục địa: ngăn chặn bàn tay tội ác của chủ nghĩa đế quốc, đấu tranh cho hòa bình thế giới, cho tương lai tươi sáng của thiếu nhi thế giới.

Với trách nhiệm thiêng liêng và cao quý của mình, năm 1949, Liên đoàn Phụ nữ dân chủ quốc tế đã quyết định lấy ngày 1 tháng 6 hàng năm làm ngày quốc tế bảo vệ thiếu nhi nhằm mục đích:

Đòi Chính phủ các nước phải nhận trách nhiệm về đời sống thiếu nhi, đòi giảm ngân sách quân sự để tăng ngân sách giáo dục và bảo vệ thiếu nhi.

Vận động toàn thể phụ nữ, tất cả các bà mẹ trên thế giới nhận rõ trách nhiệm đối với hạnh phúc của con em, phải tích cực hoạt động làm cho mọi người quan tâm đến sức khỏe và giáo dục thiếu nhi, ngăn ngừa những tai họa đe dọa đời sống yên ổn của thiếu nhi.

Từ đó, hàng năm cứ đến ngày 1 tháng 6, phụ nữ trên toàn thế giới cùng với tất cả các tổ chức dân chủ và tất cả những người quan tâm đến thế thệ tương lai của loài người đều tổ chức kỷ niệm sôi nổi Ngày quốc tế bảo vệ thiếu nhi đấu tranh đòi một nền hòa bình thật sự, chống chính sách chiến tranh của chủ nghĩa đế quốc, đòi bảo đảm một đời sống hạnh phúc thật sự cho thiếu nhi và bảo vệ các bà mẹ...

Nhưng ngày nay, thiếu nhi ở các nước trên thế giới còn đang sống trong những hoàn cảnh, những tình trạng hết sức khác nhau.

ở các nước xã hội chủ nghĩa-nơi mà chính quyền đã thuộc về những người lao động-Đảng cộng sản và Nhà nước nhân dân luôn luôn quan tâm tới đời sống của thiếu nhi, dành cho các em- những người chủ tương lai- những điều kiện ưu đãi nhất của xã hội. Các em được học hành, vui chơi, lớn lên một cách đầy đủ nhất, hạnh phúc nhất. Đúng như Lê-ninđã nói: "Từ trước đến nay, con cháu chúng ta chỉ được nghe qua những chuyện thần tiên, những điều chúng mơ ước. Nhưng hẳn các đồng chí thấy rõ rằng nền móng lâu đài xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đã đặt xuống không phải là một ảo tưởng. Con cháu chúng ra sẽ xây dựng lâu đài ấy hăng hái hơn chúng ta".

Trái hẳn lại, thiếu nhi ở trong thế giới tư bản chủ nghĩa đang phải sống trong những tình trạng hết sức cơ cực, đau thương. Cùng với cha anh của mình, các em đã và đang phải chịu đựng biết bao tai họa nặng nề của chế độ người bóc lột người.

Rõ ràng hai chế độ, hai tuổi thơ hoàn toàn khác nhau.

ở nước ta, mặc dầu trong hoàn cảnh đất nước còn nhiều khó khăn, nhất là do những tàn phá cực kỳ nặng nề của mấy chục năm chiến tranh, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã hết sức quan tâm chăm sóc, giáo dục thiếu nhi- những người làm chủ tập thể tương lai của đất nước- đã cố gắng dành cho các em những điều kiện tốt đẹp nhất trong đời sống, học tập và sinh hoạt. Hàng năm, ngày 1 tháng 6 và ngày Tết Trung Thu đã thành những ngày hội vui chơi tưng bừng của thiếu nhi nước ta.

Ngày Quốc tế Thiếu nhi đầu tiên, ngày 1 tháng 6 năm 1950, trong lúc cuộc kháng chiến của nhân dân ta chống thực dân Pháp đang trải qua thời kỳ gay go nhất, Bác Hồ vẫn luôn luôn nghĩ tới và đã gửi thư cho các cháu thiếu nhi của Bác. Bác viết: "Bác thương các cháu lắm, Bác hứa với các cháu rằng: đến ngày đánh đuổi hết giặc Pháp, kháng chiến thành công, thì Bác cùng Chính phủ và các đoàn thể sẽ cố gắng làm cho các cháu dần dần được no ấm, được vui chơi, được học hành, được sung sướng.."

Hằng năm, đến ngày 1 tháng 6 và Tết Trung Thu thiếu nhi cả nước ta lại hân hoan được đón thư của Bác.

Bác Hồ hết sức quan tâm dạy bảo các cháu nên người. Ngày nay, 5 điều dạy của Bác: Yêu Tổ quốc, yêu đồng bào; Học tập tốt, lao động tốt; Đoàn kết tốt, kỷ luật tốt; Giữ gìn vệ sinh thật tốt; Khiêm tốn, thật thà, dũng cảm- đã trở thành nội dung giáo dục chủ yếu của Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh và nhà trường phổ thông trong cả nước ta.

2-7-1976 Quốc hội Khóa VI quyết nghị lấy tên nước là Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa ViệtNam

 

Với thắng lợi rực rỡ của cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội chung của cả nước, kỳ họp đầu tiên của Quốc hội nước Việt Nam thống nhất đã được triệu tập vào tháng 6 năm 1976.

Thủ đô Hà Nội, Hội trường Ba đình cờ hoa rực rỡ, tưng bừng chào đón những vị đại biểu của nhân dân trong cả nước. 492 đại biểu của 38 tỉnh và thành phố trên khắp mọi miền của đất nước về dự họp đã thật sự trở thành hình ảnh tiêu biểu, linh động của toàn dân Việt Nam, sum họp một nhà.

Trong buổi sáng ngày 25.6, Quốc hội đã nghe đồng chí Lê Duẩn, Bí thư thứ nhất Ban chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, đọc Báo cáo chính trị quan trọng "Toàn dân đoàn kết xây dựng Tổ quốc Việt Nam thống nhất xã hội chủ nghĩa". Thay mặt Trung ương Đảng, đồng chí Lê Duẩn đã trình bày trước cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất về tình hình và nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam, nhiệm vụ của Nhà nước Việt Nam thống nhất và những nguyên tắc cơ bản của chính sách đối nội và đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn mới, phương châm và phương thức công tác của Nhà nước nhằm thực hiện nguyên tắc: Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý; phương hướng và cách tiến hành xây dựng Hiến pháp mới của nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất và xã hội chủ nghĩa; những nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Nhà nước ta trong khi chưa có Hiến pháp mới.

Trong những phiên họp cuối cùng, Quốc hội đã thông qua những nghị quyết và văn kiện hết sức quan trọng của nước Việt Nam Độc lập, Thống nhất và Xã hội chủ nghĩa.

Trước hết, Nghị quyết về tên nước, quốc kỳ, quốc huy, thủ đô, quốc ca với toàn văn như sau:

"Quốc hội nước Cộng hòa Xã Hội chủ nghĩa Việt Nam, sau khi thảo luận đề nghị của Đoàn Chủ tịch kỳ họp Quốc hội, quyết nghị:

1. Việt Nam là một nước độc lấp, thống nhất và xã hội chủ nghĩa lấy tên là nước Cộng hòa xã chủ nghĩa Việt Nam.

2. Quốc kỳ nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam nền đỏ, ở giữa có ngôi sao vàng năm cánh.

3. Quốc huy nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam hình tròn, nền đỏ, ở giữa có ngôi sao vàng năm cánh, xung quanh có bông lúa, ở dưới có nửa bánh xe răng cưa và dòng chữ "Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam"

4. Thủ đô nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Hà Nội.

5. Quốc ca nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam là bài "Tiến quân ca"

Với niềm phấn khởi và tin tưởng dạt dào, toàn thể Quốc hội đã hoàn toàn nhất trí thông qua Nghị quyết, hoàn toàn nhất trí đặt tên nước ta là Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tiếp đó Quốc hội đã thông qua các Nghị quyết quan trọng khác.

2-7-1976, nước Việt Nam mang tên mới: Nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, ngày bắt đầu chương mới huy hoàng của lịch sử Việt Nam. Từ Văn Lang, Âu Lạc, Vạn xuân và Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, dân tộc ta đã trải qua những chặng đường lịch sử đầy chông gai nhưng cũng đầy khí phách anh hùng, chiến thắng vẻ vang.

Chính thể Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã làm tròn sứ mệnh lịch sử quang vinh.

Ngày nay nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra đời với nhiệm vụ đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Nhân dân ta, dân tộc ta có đầy đủ mọi khả năng và nghị lực để thực hiện nhiệm vụ vĩ đại đó, giành thắng lợi hoàn toàn cho chủ nghĩa xã hội, như tuyến bố của Quốc hội đã khẳng định.

20-7-1946 Thành lập Tổng liên đoàn lao động Việt Nam nay là Tổng công đoàn Việt Nam

 

"Công đoàn là trường học của chủ nghĩa cộng sản" (Lênin). ở các nước Tây Âu, công đoàn thường xuất hiện rất sớm trước khi Đảng Cộng sản ra đời.

ở nước ta thì ngược lại.

Sau đại chiến thế giới lần thứ nhất, thực dân Pháp tiến hành ồ ạt đợt khai thác thuộc địa lần thứ hai (1919-1929). ở nước ta, đây là lúc giai cấp công nhân Việt Nam tăng nhanh về số lượng và chuyển biến mau lẹ về chất lượng. Đến cuối năm 1929, số công nhân chuyên nghiệp đã lên tới 22 vạn người, với cơ cấu thuần nhất, sống tập trung và phân bố đều trên các địa bàn kinh tế cả nước.

Dưới ánh sáng của cách mạng tháng Mười Nga và sau đó đặc biệt với sự truyền bá chủ nghĩa Mác Lê-nincủa lãnh tụ Nguyễn ái Quốc, phong trào công nhân Việt Nam đã có bước phát triển mạnh mẽ, hoàn thành bước chuyển biến từ tự phát sang tự giác.

Từ đó, sự hình thành và phát triển của các tổ chức công đoàn Việt Nam gắn chặt với cuộc vận động thành lập Đảng. Có thể nói từ khi Việt Nam Thanh niên cách mạng Đồng chí Hội thành lập (6-1925) đến khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (3-2-1930) cũng là lúc xuất hiện các tổ chức công đoàn đầu tiên trong lịch sử phong trào công nhân nước ta. Các cuộc bãi công từ 1925 đã thể hiện rõ nét ý thức giai cấp, mục đích chính trị của cuộc tranh đấu. Từ những tổ chức tương tế buổi đầu đã dần dần xuất hiện các Công hội đỏ bí mật. Năm 1919, sau khi tham gia vụ binh biến Hắc Hải, bị trục xuất về nước, đồng chí Tôn Đức Thắng đã lập ra Công hội đỏ Sài Gòn với nhiều cơ sở ở nhà máy đèn Chợ quán, Xưởng Ba Son, F.A.C.I.. Trong cuộc bãi công lịch sử ở Ba Son (8-1925), số hội viên Công hội đỏ ở Sài Gòn lên tới 300 người, ghi một dấu son trong lịch sử phong trào công nhân Việt Nam.

Cùng lúc ấy, một số công nhân và thủy thủ Việt Nam làm việc ở Pháp và Trung Quốc được kết nạp vào Tổng liên đoàn lao động thống nhất Pháp (C.G.T.U), và Hải viên Công hội (công nhân tàu biển).

Từ mùa thu 1928, khi kỳ bộ Bắc Kỳ của Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí Hội phát động phong trào Vô sản hóa thì Công hội đỏ càng lớn mạnh, nhất là ở Bắc Kỳ-Trung tâm của phong trào công nhân nước ta.

Sau cuộc bãi công A-vi-a (tháng 6-1929) thắng lợi, đồng chí Nguyễn Đức Cảnh, xứ ủy viên đã triệu tập hội nghị Công hội đỏ Bắc Kỳ lần thứ nhất vào ngày 28/7/1929 tại số nhà 15 phố Hàng Nón (Hà Nội). Hội nghị quyết định ra báo Lao động, tạp chí Công hội đỏ để đẩy mạnh công tác công vận.

Công hội đỏ trong cao trào 1930-1931 đã có cơ sở mạnh mẽ khắp trong nước và đi đầu trong các cuộc bãi công lưu huyết mở đường cho việc thành lập Xô Viết Nghệ Tĩnh.

Tháng 8-1930, thay mặt Đông phương bộ của Quốc tế Cộng sản, đồng chí Nguyễn ái Quốc đã chỉ định Công hội đỏ Việt Nam cử đại biểu đi dự đại hội Công hội đỏ quốc tế lần thứ 6 ở Mátxcơva. Khi ấy, thông qua Công hội đỏ, đồng chí Trần Phú đã đi khảo sát phong trào phong công nhân Nam Định, Hải Phòng, Hòn Gai... để viết bản Luận cương chính trị lịch sử.

Được cử làm trưởng ban Công vận trung ương, ngày 20-1-1931, tại Sài Gòn, đồng chí Trần Phú, Tổng bí thư đầu tiên của Đảng đã triệu tập Hội nghị công nhân Đông Dương lần thứ nhất, vạch ra phương hướng tổ chức và đấu tranh cho phong trào công nhân và công đoàn.

Trong thời kỳ Mặt trận Dân chủ Đông Dương (1936-1939), hưởng ứng phong trào Đông Dương đại hội và đòi tự do cơm áo hòa bình dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương, hàng nghìn cuộc bãi công gồm nửa triệu công nhân tham gia nổ ra liên tiếp ở các thành phố lớn trong nước.

Đầu năm 1937, công nhân đấu tranh sôi sục đòi quyền tự do lập nghiệp đoàn. ở Hà Nội, Sài Gòn, Vinh... mặc dù bọn phản động thuộc địa ngăn cản, nhiều nghiệp đoàn vẫn được thành lập và tự do hoạt động, báo chí vẫn tự do xuất bản và công khai tuyên truyền chủ nghĩa Mác-Lênin. Chưa giành được toàn bộ quyền tự do nghiệp đoàn, công nhân Việt Nam không bỏ lỡ cơ hội lập các hội ái hữu ở khắp nơi.

Tháng 9-1939, đại chiến thế giới lần thứ hai bùng nổ. Các tổ chức của công nhân và cán bộ công đoàn phải rút vào bí mật.

Trong thời kỳ vận động cách mạng tháng Tám (1939-1945), Hội Công nhân cứu quốc, một lực lượng quan trọng của Mặt trận Việt Minh được thành lập nhất là ở Bắc và Trung Bộ. Hội Công nhân cứu quốc vừa bí mật đấu tranh đòi quyền lợi hàng ngày vừa tổ chức các đội võ trang làm nòng cốt cho cuộc nổi dậy ở đô thị. Sau cách mạng tháng Tám, công nhân cứu quốc lại đi đầu trong cuộc bảo vệ chính quyền mới: 40 cán bộ Công đoàn và công nhân Sài Gòn đã hy sinh trong cuộc tổng tuyển cử Quốc hội 1-1946

Tháng 3-1949, Hội Công nhân cứu quốc đã thống nhất toàn quốc với lực lượng trên 20 vạn đoàn viên.

Để thực sự thống nhất về tổ chức công đoàn, hội nghị cán bộ Công nhân cứu quốc họp ngày 20-5-1946, quyết định đổi Hội Công nhân cứu quốc thành Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam.

Ngày 20-7-1946, tại thủ đô Hà Nội, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam chính thức tuyên bố thành lập, đánh dấu bước ngoặc của phong trào công đoàn Việt Nam với một tổ chức thống nhất và ổn định thực sự trong cả nước.

Tháng 1-1949, Tổng Liên đàon Việt Nam lần thứ nhất họp ở Thái Nguyên đã bầu ra Ban Chấp hành trung ương do đồng chí Tôn Đức Thắng làm chủ tịch danh dự và đồng chí Hoàng Quốc Việt làm Chủ tịch.

Trong sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và sự nghiệp giải phóng miền Nam vừa qua (1954-1975) công đoàn Việt Nam lớn mạnh vượt bực. 14-9-1957, Quốc hội đã nhất trí thông qua luật công đoàn, qui định vai trò, trách nhiệm, quyền hạn của Công đoàn Việt Nam. Sau đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 3 (9-1960), Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam đổi tên là Tổng Công đoàn Việt Nam cho phù hợp với tình hình mới.

Tổng Công đoàn Việt Nam thu hút tuyệt đại đa số công nhân viên chức, thực sự là người giáo dục và tổ chức đoàn viên trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. ở miền Nam, Liên hiệp Công đoàn giải phóng miền Nam Việt Nam đã phát huy truyền thống Hội công nhân cứu quốc, đưa công nhân, và lao động ở các đô thị, lên đường tranh đấu, góp phần giải phóng miền Nam.

Lịch sử phong trào công đoàn Việt Nam gắn chặt với lịch sử giai cấp công nhân và lịch sử Đảng ta. Đảng ta thực sự là người ngay từ đầu và duy nhất nắm quyền lãnh đạo cách mạng Việt Nam và đưa phong trào công nhân lên đúng vị trí lịch sử của nó kể từ mùa xuân 1930. Tất cả các tổ chức công đoàn ở Việt Nam đều do Đảng ta tổ chức và lãnh đạo kể từ thời kỳ vận động thành lập Đảng (1925-1930) cũng như sau này.

Đó là một nhân tố không thể thiếu được khiến phong trào công nhân nước ta phát triển mạnh mẽ, vững chắc và mau lẹ

Đồng chí Lê Duẩn có nói: "...ở nước ta, ngay từ khi giai cấp công nhân vừa lớn lên đã có Đảng tiên phong của mình. Đảng tiên phong đã lập ra công đoàn để tổ chức và giáo dục, vận động công nhân, vì vậy giai cấp công nhân nước ta không bị chia rẽ về chính trị và tổ chức..."

Đó là nét độc đáo của lịch sử phong trào công nhân và đông đoàn ở nước ta. Trước kia cũng như hiện nay, Công đoàn Việt Nam luôn xứng đáng là trường học của chủ nghĩa cộng sản của giai cấp công nhân và viên chức Việt Nam, xứng đáng với truyền thống của dân tộc anh hùng, giai cấp tiên phong.

27-7-1947 Ngày thương binh liệt sĩ

 

Ngay từ những ngày đầu trong cuộc chiến đấu ác liệt chống thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta một số đồng bào và chiến sĩ ta đã hy sinh anh dũng để bảo vệ nền độc lập của tổ quốc.

Được sự lãnh đạo của Đảng, lại sẵn tinh thần tương thân tương ái, nhân dân ta đã dành những tình cảm quí trọng nhất cho các gia đình liệt sĩ và anh chị em thương binh...

Đầu năm 1946, Hội giúp binh sĩ bị nạn (sau đổi thành Hội giúp binh sĩ bị thương) được thành lập ở Thuận Hóa- Huế, ở Hà Nội và một số địa phương khác. Hồ Chủ tịch được bầu là Hội trưởng danh dự. Nhiều cuộc quyên góp ủng hộ quỹ giúp binh sĩ bị thương thu được kết quả tốt. ở Hà Nội, trong ngày 2-6-1946, Hội phụ nữ cứu quốc và Hội Nhi đồng Hoàng Diệu tổ chức gắn huy hiệu, đã thu được 45.000 đồng (tiền Đông Dương cũ). Kiều bào ta ở Thượng Hải cũng gửi về số tiền quyên góp được là 12.804 đồng và 100 Mỹ kim ủng hộ binh sĩ thương tật.

Cuối 1946 cả nước lại dấy lên cuộc vận động Mùa đông binh sĩ . Mở đầu phong trào, tại Nhà hát lớn Hà Nội, ngày 17-6-1946, Mặt trận Liên Việt đã tổ chức tuần lễ xung phong "mùa đông binh sĩ". Bác Hồ đã cởi chiếc áo rét đang mặc để tặng thương binh. Noi gương Bác, đồng bào khắp nơi ủng hộ hàng vạn áo quần, mũ, giầy, chăn...

Từ 19-12-1946, số thương binh, tử sĩ ngày càng tăng thêm. Vấn đề thương binh liệt sĩ trở thành vấn đề lớn. Trước tình hình ấy, Đảng và Chính phủ ta đã nghiên cứu và cho công bố những chính sách đầu tiên về công tác này như: hưu bổng, thương tật, tiền tuất cho gia đình tử sĩ...

Ngày 19-7-1947, chính phủ quyết định thành lập Bộ Thương binh và Cựu binh (sau đổi thành Bộ Thương binh). Trước đó, khoảng tháng 6-1947, một hội nghị quan trọng đã được tổ chức ở xã Phú Minh, huyện Đại Từ, Thái Nguyên để bàn việc thực hiện chỉ thị của Hồ Chủ tịch về vấn đề chọn một ngày làm ngày Thương Binh để có "... một dịp đồng bào ta tỏ lòng hiếu nghĩa bác ái và tỏ lòng yêu mến thương binh..." Hội nghị đã quyết định chọn ngày 27-7 là ngày Thương binh toàn nước, và ngày 27-7-1947 sẽ là ngày Thương binh toàn quốc lần thứ nhất.

Chiều ngày 27-7-1947, Bác Hồ đã gửi bức thư đầu tiên nhân ngày thương binh, trong đó có những dòng thật vô cùng cảm động "...tôi luôn luôn tin vào lòng nhường cơm xẻ áo của đồng bào ta, tôi chắc rằng ngày thương binh sẽ có kết quả mỹ mãn. Tôi xin xung phong gửi một chiếc áo lụa mà chị em phụ nữ đã biếu tôi, một tháng lương của tôi, một bữa ăn của tôi và của cácnhân viên tại Phủ Chủ tịch, cộng là một nghìn một trăm hai mươi bảy đồng..."

Cả nước đã hưởng ứng lời kêu gọi của Bác và của Ban tổ chức ngày Thương binh toàn quốc. Kết quả thu được thật không ngờ, toàn quốc đã quyên góp được trên 10 triệu đồng. Trong đó, riêng vùng khu IV cũ chiếm 6 triệu đồng.

Tháng 7-1951, Hồ Chủ tịch đề xuất chủ trương đón thương binh về làng rất phù hợp với hoàn cảnh nước ta trong kháng chiến chống Pháp. Tính đến 1954, từ khu IV trở ra, hàng vạn thương binh được đồng bào 515 xã đón về chăm sóc phục hồi sức khỏe, ổn định đời sống và công tác...

Từ 1955, Ngày Thương binh toàn quốc được đổi thành Ngày Thương binh liệt sĩ để thể hiện đầy đủ hơn tình cảm của toàn Đảng, toàn đân đối với tất cả những người đã hy sinh xương máu của mình cho Tổ quốc nở hoa độc lập, kết trái tự do. Cũng từ đó, hàng loạt chính sách chế độ đối với thương binh và gia đình liệt sĩ được ban hành.

Và chỉ sau ngày kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ mùa xuân 1975 lịch sử hai tháng, thực hiện lời Bác Hồ "ăn quả nhớ người trồng cây" Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ra chỉ thị giải quyết vấn đề thương binh và xã hội.

Cũng từ 1975, ngày Thương binh- Liệt sĩ đã được tổ chức trên toàn quốc với nhiều hình thức phong phú, có ý nghĩa chính trị sâu sắc.

Sau 30 năm chiến đấu hy sinh, qua hai cuộc kháng chiến vĩ đại, hàng triệu người con ưu tú của tổ quốc Việt Nam đã ngã xuống hay mãi mãi chịu mang thương tật. Ngày 27-7 hàng năm là dịp để toàn dân biểu hiện những tình cảm sâu xa nhất, với tinh thần Uống nước nhớ nguồn, ơn trả nghĩa đền làm trọn nghĩa vụ với các đồng chí đã hy sinh như Nghị quyết đại hội Đảng lần thứ IV đã chỉ rõ: "... Săn sóc và giúp đỡ chu đáo thương binh, gia đình liệt sĩ, gia đình có công với cách mạng. Tích cực chữa bệnh và thương tật, bồi dưỡng sức khỏe cho thương binh, cung cấp phương tiện và dụng cụ chuyên dùng cần thiết, tổ chức tốt việc dạy nghề và bố trí công việc thích hợp cho thương binh, thực hiện đầy đủ các chính sách, chế độ đối với thương binh và gia đình liệt sĩ..."

19-8-1945 Ngày tổng khởi nghĩa

 

Tháng 8 năm 1945, cuốc chiến tranh thế giới đi vào giai đoạn kết thúc. Sau khi tiêu diệt phát xít Đức tại sào huyệt của chúng, Liên Xô quay sang tấn công tên phát xít phương đông là Nhật Bản. Phong trào đấu tranh chống Nhật bùng lên mạnh mẽ ở các nước phía đông và đông nam châu á. Con thú dữ ở á đông đó lâm vào tình trạng tột cùng nguy khốn. Thời cơ cách mạng đang mở ra trước con đường giải phóng của các dân tộc, Đảng ta đứng trước một cơ hội lịch sử ngàn năm có một, giờ phút có ý nghĩa quyết định đối với vận mệnh của đất nước.

Hội nghị toàn quốc của Đảng họp ở Tân Trào (Tuyên Quang) trong 2 ngày 14 và 15 tháng 8 năm 1945 đã giải quyết vấn đề trọng đại: quyết định tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Đại biểu các đảng bộ từ Bắc, Trung, Nam, từ các chiến khu và khu giải phóng về dự đông đủ. Hội nghị họp vào lúc phát xít Nhật tuyên bố đầu hàng. Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh liền thành lập "ủy ban khởi nghĩa toàn quốc" để lãnh đạo khởi nghĩa trong cả nước. Trong tình hình hết sức khẩn trương, Đảng quyết định phát động và lãnh đạo toàn dân tổng khởi nghĩa giành chính quyền từ tay phát xít Nhật và bọn bù nhìn tay sai của chúng trước khi quân đồng minh Anh, Pháp vào nước ta.

23 giờ đêm 13 tháng 8, ủy ban khởi nghĩa ra "Quân lệnh số I" hạ lệnh tổng khởi nghĩa:

... "Giờ tổng khởi nghĩa đã đánh!

Quyết chiến! Quyết chiến! Quyết chiến!

Thắng lợi nhất định về ta"

Mệnh lệnh khởi nghĩa và lời hiệu triệu cứu nước là tiếng gọi của non sông thức tỉnh con tim mỗi người Việt Nam yêu nước hãy nhất tề đứng dậy tranh đấu giành quyền Độc lập- Tự do.

Lòng yêu nước thiết tha và sự đoàn kết nhất trí được biểu lộ rõ nét trong Đại hội Quốc dân họp ở Tân Trào ngày 15-8. Hơn 60 đại biểu của các thành phần dân tộc, tôn giáo và các đoàn thể, đảng phái tề tựu trước mái đình Hồng Thái để bàn việc cứu nước. ý chí quyết chiến của hội nghị Diên Hồng thuở trước giờ đây đang sống lại và bội phần mãnh liệt tại Đại hội Tân Trào. Các đại biểu đều tán thành chủ trương Tổng khởi nghĩa của Đảng. Đại hội quy định quốc kỳ, quốc ca, 10 chính sách lớn và cử ra ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam, tức là Chính phủ lâm thời sau này. Đồng chí Nguyễn ái Quốc, sau bao năm đấu tranh kiên cường vì sự nghiệp cách mạng của dân tộc, đã được đại hội nhất trí bầu làm chủ tịch- Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Không khí cách mạng sôi sục trong cả nước.

Nắm được thời cơ thuận lợi, nhiều địa phương ở Quảng Ngãi, Hà Tĩnh đã nổi dậy giành chính quyền từ ngày 14-8. Ngày 18, chính quyền các tỉnh Bắc Giang, Hải Dương, Quảng Nam đã về tay nhân dân.

Ngày 15, xứ ủy Bắc Kỳ trực tiếp chỉ thị cho Hà Nội khởi nghĩa. Hà Nội sống trong những ngày rạo rực chuẩn bị nổi dậy, các tầng lớp nhân dân nhất là thanh niên, hăng hái gia nhập các đoàn thể cứu quốc, tuyên truyền cho Việt Minh, thành lập các đội tự vệ chiến đấu.

Chiều 17, cuộc biểu tình của Tổng hội công chức bị viến thành cuộc mít tinh lớn của Việt Minh. Cờ đỏ sao vàng xuất hiện trên tầng hai Nhà hát Thành phố, đại biểu Việt Minh kêu gọi nhân dân đứng dậy giành chính quyền, lật đổ chính quyền bù nhìn Trần Trọng Kim. Như một tia lửa nhen lên từ cánh đồng cỏ khô, ngọn lửa cách mạng bùng cháy, cả Hà Nội bừng bừng khí thế đấu tranh theo lời kêu gọi của Đảng.

Cuộc biểu tình chiều 17 làm cho kẻ thù càng thêm hoảng hốt. Trái lại, quần chúng cách mạng phấn chấn, ráo riết chuẩn bị khởi nghĩa. Sáng ngày 18, ủy ban khởi nghĩa của thành uỷ đã chuyển từ ngoại thành vào nhà số 101 Trần Hưng Đạo để trực tiếp chỉ đạo cuộc đấu tranh.

Từ sáng ngày 19, hàng chục vạn nhân dân thành phố rầm rập tiến về Quảng trường Nhà hát lớn. Đúng 11 giờ trưa, cuộc mít tinh bắt đầu. Lời kêu gọi khởi nghĩa của Đảng được quần chúng đón mừng bằng những tiếng reo hò và những khẩu hiệu hô vang khắp quảng trường:

* Thành lập chính phủ Cộng hòa Dân chủ Việt Nam

* Việt Nam hoàn toàn độc lập

* Đả đảo chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim.

Cuộc mít tinh biến thành cuộc biểu tình tuần hành vĩ đại. Dòng người chia thành nhiều ngả, có các đội tự vệ chiến đấu dẫn đầu đi chiếm các công sở và chiếm lĩnh các vị trí xung yếu. Hai cánh cổng phủ khâm sai (nay là nhà khách chính phủ) đónh im ỉm. Đoàn biểu tình dừng lại, nhiều người vượt qua hàng rào sắt nhảy vào bên trong chiếm lấy trụ sở cơ quan đầu não của địch. Cờ đỏ sao vàng được kéo lên cao, phần phật tung bay trước gió. ở trại Bảo an ninh, bọn Nhật cho xe tăng và quân lính chặn các ngã đường. Nhưng chúng không thể ngăn cản được làn sóng người đang cuồn cuộn tiến bước, sẵn sàng đạp bằng mọi trở ngại. Tuy còn hàng vạn tên lính với vũ khí đây đủ, quân Nhật cũng phảI lùi bước.

Nhân dân Hà Nội đã hoàn toàn làm chủ thành phố của mình Thắng lợi của cuộc khởi nghĩa ở Hà Nội đã cổ vũ tinh thần đấu tranh của toàn dân, thúc đẩy các nơi nổi dậy giành chính quyền. Cuốc khởi nghĩa ở Hà Nội có tác dụng mạnh mẽ đến phong trào cách mạng của cả nước.

Cùng ngày 19, nhân dân các tỉnh Yên Bái, Thái Bình, Phú Yên, Thanh Hóa, Khánh Hòa nổi dậy giành chính quyền.

Ngày 20, khởi nghĩa bùng nổ ở Bắc Ninh, Thái Nguyên, Ninh Bình.

Ngày 21, các tỉnh Cao Bằng, Tuyên Quang, Sơn Tây, Nam Định, Kiến An, Nghệ An, Ninh Thuận lật đổ chính quyền phản động ở các địa phương.

Ngày 22, khởi nghĩa thắng lợi ở Hưng Yên, Quảng Yên.

Ngày 23 tháng 8, thành phố Huế nổi dậy khởi nghĩa. Trên 15 vạn người xuống đường biểu tình, cùng các đơn vị tự vệ đi chiếm các công sở. Trước sức mạnh như nước vỡ bờ của cách mạng, tên vua phong kiến cuối cùng của triều Nguyễn là Bảo Đại phải xin thoái vị. Nền quân chủ chuyên chế hoàn toàn sụp đổ.

Cùng với thắng lợi của Huế, ngày 23, các tỉnh Bắc Cạn, Hòa Bình, Hải Phòng, Hà Đông, Quảng Bình, Quảng Trị, Gia lai, Tân An, Bạc Liêu... nổi dậy giành chính quyền.

Ngày hôm sau, nhân dân Hà Nam, Phú Thọ, Đác Lác, Phú Yên, Bình Thuận, Gò Công, Mỹ Tho khởi nghĩa thắng lợi.

Ngày 25 tháng 8, cả thành phố Sài Gòn sục sôi không khí khởi nghĩa. Từ đêm trước, hàng vạn công dân, nông dân và thanh niên các tỉnh Gia Định, Chợ Lớn, Mỹ Tho, Biên Hòa, Thủ Dầu Một... đều đổ dồn về Sài Gòn. Sáng 25, quần chúng cách mạng chiếm các sở công an, cảnh sát, nhà ga, bưu đIện cùng nhiều vị trí xung yếu khác trong thành phố. Quân Nhật hầu như không dám chống cự. Cuộc biểu tình của hơn một triệu người hoan nghênh ủy ban nhân dân Nam Bộ, hô vang khẩu hiệu " Việt Nam hoàn toàn độc lập", " Tất cả chính quyền về tay Việt Minh" đã đánh dấu thắng lợi của cuộc khởi nghĩa ở Sài Gòn.

Cùng lúc với cuộc khởi nghĩa ở Sài Gòn, các tỉnh Lạng Sơn, Kon Tum, Đồng Nai Thượng, Chợ Lớn, Gia Định, Sóc Trăng, Long Xuyên, Vĩnh Long, Bà Ra, Thủ Dầu Một, Châu Đốc, Trà Vinh, Tây Ninh, Biên Hòa, Bến Tre, Sa Đéc nổi dậy khởi nghĩa.

Ngày 26, khởi nghĩa thắng lợi ở Hòn Gai, Sơn La, Cần Thơ.

Ngày 27, nhân dân nổi dậy giành chính quyền ở Rạch Giá, hôm sau ở Hà Tiên.

Trong vòng 10 ngày từ 19 đến 28 tháng 8 hầu hết các tỉnh và thành phố đều nổi dậy khởi nghĩa. Bọn phát xít Nhật thua trận không dám hành động. Chế độ quân chủ bị lật đổ. Chính quyền trong cả nước hoàn toàn về tay nhân dân.

Từ đó, ngày 19-8 đi vào lịch sử của dân tộc, là ngày khởi nghĩa của Hà Nội, ngày đánh dấu cao trào Tổng khởi nghĩa trong cả nước, ngày cách mạng Tháng tám thành công.

2-9-1945 Ngày quốc khánh cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

 

Cách mạng tháng Tám thành công trong cả nước đã chấm dứt thời kỳ nô lệ của nhân dân dưới ách thống trị của đế quốc Pháp và phát xít Nhật. Chính quyền phong kiến triều Nguyễn đã sụp đổ hoàn toàn. Chủ quyền đất nước đã về tay nhân dân. Biết bao công việc bộn bề đang đặt ra trước mắt: chiến tranh tàn phá, kinh tế kiệt quệ, hậu quả tai hại của nạn đói chết 2 triệu người đầu năm ất Dậu, mối đe dọa của lũ lụt ở đồng bằng Bắc bộ và nguy cư trở lại xâm lược của thực dân Pháp ở trong Nam. Trong tình hình phức tạp muôn vàn thử thách đó, Đảng và Hồ Chủ tịch đã tập trung giải quyết vấn đề cơ bản của cách mạng là thiết lập chính quyền nhân dân trong cả nước.

Sau khi Hà Nội và nhiều nơi khởi nghĩa thắng lợi, ngày 25 tháng 8, Hồ Chủ tịch từ chiến khu trở về ngoại thành Hà Nội. Chiều hôm sau, Trung ương đón Người về ở căn gác 2 nhà số 48 phố Hàng Ngang để trực tiếp chỉ đạo phong trào. Người đã chủ tọa phiên họp của Thường vụ Trung ương Đảng bàn về những công tác đối nội và đối ngoại, quyết định việc khẩn trương tổ chức lễ ra mắt của chính phủ lâm thời. Theo sự phân công của Ban Thường vụ, Người khởi thảo bản Tuyên ngôn Độc lập. Trên chiếc bàn ăn của căn gác đầy ánh nắng, Hồ Chủ tịch đã viết một văn kiện lịch sử bất hủ, đời đời khắc sâu vào cuốn sử vàng oanh liệt của dân tộc.

Từ sáng sớm ngày 2 tháng 9, hàng chục vạn người hàng ngũ chỉnh tề, cờ hoa khoe sắc, áo quần tươi màu đỏ dồn về phía Ba Đình. Những biểu ngữ nền đỏ chữ vàng bằng các thứ tiếng Việt Anh, Pháp, Hoa, Nga chăng ngang đường phố. ý chí của nhân dân được biểu lộ trên các dòng chữ: "Nước Việt Nam của người Việt Nam", "Độc lập hay là chết", "ủng hộ Chủ tịch Hồ Chí Minh". Lễ đài bằng gỗ đơn sơ được dựng lên giữa quảng đường Ba đình, các đội tự vệ vũ trang cùng những đơn vị Quân Giải phóng đội mũ ca lô, quân phục nghiêm trang, hàng ngũ thẳng tắp đứng trước lễ đài. Những chiến sĩ cách mạng đã từng anh dũng chiến đấu ở Bắc Sơn, Vũ Nhai, đã lập nên các chiến công Nà Ngần, Phai Khắt, vừa cùng nhân dân vùng dậy cướp chính quyền, giờ đây vẫn nắm chắc tay súng bảo vệ nền Độc lập mới ra đời. Hơn 50 vạn người đại diện cho mọi tầng lớp nhân dân, nét mặt hân hoan phấn khởi chờ đón giờ khai sinh của chế độ mới- nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Cùng giờ này, nhiều cuộc mít tinh lớn được tổ chức tại Huế, Sài Gòn và nhiều thành phố khác. Muôn triệu trái tim hồi hộp hướng về Hà Nội, đợi chờ.

Đúng 14 giờ, Hồ Chủ tịch và các vị trong Chính phủ lâm thời ra lễ đài. Bản nhạc Tiến quân ca hùng tráng vang lên, mọi ánh mắt đều hướng về lá cờ đỏ sao vàng đang từ từ kéo lên. Hàng chục vạn bàn tay nắm chặt giơ lên ngang tai, biểu thị lòng quyết tâm và ý chí sắt đá, kính chào lá cờ vinh quang của Tổ quốc.

Chủ tịch Hồ Chí Minh giản dị trong bộ quần áo ka ki và đôi dép cao su tiến ra trước máy phóng thanh. Thay mặt Chính phủ lâm thời- tức là ủy ban Dân tộc giải phóng Trung ương-Người đọc bản Tuyên ngôn Độc Lập. Lời nói của Người trang trọng đầm ấm vang trên quảng trường Ba Đình lịch sử. Người khẳng định: "Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng minh chống phát xít mấy năm nay dân tộc có phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!". Người trịnh trọng tuyên bố trước toàn thế giới: "Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và thật sự đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy".

Đọc nửa chừng, Người dừng lại hỏi: "Tôi nói, đồng bào nghe rõ không?". Hơn 50 vạn người cùng đáp "Có!".

Tuyên ngôn Độc lập là văn kiện lịch sử có ý nghĩa vô cùng trọng đại đối với vận mệnh của dân tộc. Nó tiếp nối truyền thống anh hùng bất khuất của cha ông thuở trước. Thời thế đã đổi thay, song chí khí hào hùng của nhân dân ta trong thơ Lý Thường Kiệt "Nam quốc sơn hà Nam đế cư..", trong "Bình Ngô đại cáo" của Nguyễn Trãi vẫn thắm đượm trong từng lời, từng chữ của Tuyên ngôn. Tuyên ngôn Độc lập là bản hùng ca viết tiếp những trang sử huy hoàng của ngàn năm về trước, đã đánh dấu thắng lợi của một thế kỷ ngoan cường chống thực dân và phong kiến và mở ra một kỷ nguyên mới trên đất nước ta. Tuyên ngôn Độc lập chẳng những đã khai sinh một nhà nước- nước Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa, nhà nước độc lập đầu tiên trong hệ thống thuộc địa thế giới, mà còn báo hiệu sự thành lập một chế độ xã hội mới- chính quyền công nông đầu tiên ở khu vực Đông Nam châu á, từ đây với tư cách người chủ thực sự của đất nước, nhân dân Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đã kiên cường đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc và chế độ phong kiên. Ba mươi năm sau ngày "Tuyên ngôn Độc lập", năm 1975, Đảng ta, quân dân ta đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử vẻ vang: giải phóng hoàn toàn miền Nam, kết thúc thắng lợi sự nghiệp cách mạng dân tộc- dân chủ, tiến hành thống nhất nước nhà. Tổ quốc ta vĩnh viễn được độc lập, nhân dân ta đời đời được tự do, tinh thần bất diệt của Tuyên ngôn Độc lập mãi mãi khắc sâu vào trái tim và khối óc của mỗi người dân Việt Nam. Với ý nghĩa và tầm vóc lớn lao đó, ngày 2 tháng 9 trở thành ngày hội lớn của dân tộc, ngày Quốc khánh của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

12-9-1930 Xô Viết Nghệ Tĩnh

 

Đảng ta ra đời giữa lúc cuộc khủng hoảng kinh tế trầm trọng của chủ nghĩa tư bản đang ảnh hưởng đến Đông Dương. Đế quốc Pháp trút tất cả gánh nặng của cuộc khủng hoảng đó lên vai nhân dân ta.

Từ 1929 đến 1933 thiên tai lại xảy ra luôn, hết hạn đến lụt.

Khủng hoảng kinh tế, sự tăng cường bóc lột thuộc địa và chính sách khủng bố trắng và sau cuộc khởi nghĩa Yên Bái (2-1930) làm cho mâu thuẫn giữa nhân dân ta và đế quốc Pháp ngày càng sâu sắc.

Sau đêm đỏ Yên Bái, hàng nghìn người yêu nước bị bắt, nhiều làng xóm bị thiệt hại. Đặc biệt là vụ thảm sát làng Cổ Am (Hải Dương). Mười ba yếu nhân Việt Nam Quốc dân Đảng bị lên đoạn đầu đài ở ngay tỉnh l Yên Bái trong đó có Nguyễn Thái Học và Phó Đức Chính. Không khí chính trị ngột ngạt tựa như bầu trời trước cơn giông tố.

Nhưng thật lạ thường, chính lúc ấy, cách mạng Việt Nam lại nổ ra "trận chiến đấu rung trời chuyển đất; trong đó công nông đã vung ra nghị lực phi thường" (Lê Duẩn), gấp hàng chục, hàng trăm lần Yên Bái.

Mở đầu là những cuộc bãi công của 3.000 công nhân đồng điền Phú Riềng (Nam Bộ) vào tháng 2 năm 1930, của 4.000 công nhân sợi Nam Định (tháng 3 năm 1930), của 400 công nhân diêm và gạch Bến Thủy (4.1930) và đặc biệt từ 1.5.1930, bãi công ở hàng loạt thành phố, khu công nghệ lớn của đất nước, và hàng ngàn cuộc biểu tình của nông dân từ Nam chí Bắc.

Lúc ấy, Nghệ Tĩnh là đỉnh cao nhất của phong trào. Từ đầu tháng 5.1930 trung tâm của phong trào công nhân đã chuyển dần về Vinh- Bến Thủy. Tại đây, sáng sớm ngày 1.5.1930, lần đầu tiên ở Việt Nam, trong một thị trấn lớn như Vinh- Bến Thủy có cuộc biểu tình giữa ngày Quốc tế Lao động cờ đỏ búa liềm dẫn đầu Toàn thể 1.200 công nhân Nhà máy diêm, nhà máy cưa Bến Thủy và 400 công nhân xe lửa Trường Thi xuống đường đòi tăng lương giảm giờ làm và đòi bồi thường cho các gia đình tham gia khởi nghĩa Yên Bái. Cờ đỏ búa liềm tung bay suốt 8 giờ ở cột đèn ngã ba Bến Thủy. Tên giám binh Pơ-ti ra lệnh cho binh lính xả súng, bọn chủ từ gác nhà máy bắn xuống làm 7 người chết, 18 người bị thương. Chúng con bắt đi trên 100 người. Cùng ngày, hàng nghìn nông dân ở quanh thị trấn Vinh-Bến Thủy đã biểu tình. Đặc biệt 3.000 nông dân xã Hạnh Lâm (Thanh Chương) đã đập pháp đồn điền Ký Viễn. 5.000 nông dân huyện Can Lộc biểu tình đòi giảm thuế thân, giảm tô tức...

Báo Lao khổ, cơ quan của Đảng bộ Vinh-Bến Thủy mới xuất bản ít ngày sau đã gọi cuộc đấu tranh ấy là "cuộc bãi công mở đường". Từ tháng 6 đến tháng 9-1930, hình thái khởi nghĩa giành chính quyền đã xuất hiện ở Nghệ Tĩnh. Cũng báo Lao khổ, số ra ngày 5.9.1930 viết: ".. Tổng bãi công, tổng biểu tình của tất cả công nhân các nhà máy Bến Thủy truyền ra, anh chị em công nông khắp nơi đều sôi nổi đứng dậy phát cờ đỏ tranh đấu. ở Nghệ An, ngày 29.8 có 500 nông dân cầm cờ ỏ đến huyện biểu tình làm thằng quan huyện chết khiếp. Ngày 30 có 3.00 nông dân huyện Nam Đàn phất cờ đánh trống đến biểu tình phá huyện, thả tù nhân và bắt thằng quan huyện phải ký nhận những yêu cầu... Công nhân Bến Thủy đã mở đường tranh đấu!

Cờ đỏ phấp phới khắp Nghệ An

Các tỉnh khác đang sôi nổi, thời kỳ tranh đấu kịch liệt đã đến.

Đỉnh cao là cuộc biểu tình khổng lồ của 20.000 quần chúng ở Hưng Nguyên nhằm ủng hộ công nhân Vinh-Bến Thủy tranh đấu. Từ sáng sớm ngày 12.9.1930, cả rừng người, khẩu hiệu, cờ đỏ từ khắp các ngả đường đổ về phía ga Yên Xuân, Vinh. Tiếng hô, tiếng trống mõ vang dậy. Giáo mác tua tủa. Đoàn biểu tình xếp hàng tư dài hàng kilômét. Bọn lính khố xanh chặn đường, nổ súng bắn gẫy hai lá cờ to. Đoàn người cứ tiến, ngày càng đông. 12 giờ trưa, tới làng Thái Lão, máy bay địch ập đến thả bom làm trên 100 người chết và bị thương. Lát sau, lính lê dương từ Vinh lên sát hại thêm 174 người, 300 người khác bị thương... Đến chiều khi quần chúng đi nhặt xác lại thêm 34 người thiệt mạng!

Từ hôm đó hàng vạn người lại trương cờ, đốt đuốc, bao vây đập phá huyện l Nam Đàn, Diễn Châu, Thanh Chương rồi Can Lộc, Hương Sơn... Bọn quan lại hoảng sợ trốn khỏi huyện đường. Nhiều tên phải tự đem sổ sách ra nộp.

Chính trong ngày 12 tháng 9 đẫm máu ấy, chính quyền Xô Viết đã xuất hiện đầu tiên ở đình làng Võ Liệt, xã Thanh Long, huyện Thanh Chương. Từ tháng 9, chính quyền cách mạng kiểu Xô Viết Nga được thiết lập khắp Nghệ Tĩnh. Tại các Làng đỏ, các ủy ban nhân dân mang tên xã bộ nông, thôn bộ nông, hoạt động dưới sự lãnh đạo của Đảng, đã thực sự là chính quyền của nhân dân.

Đây là lần đầu tiên Công Nông nước ta nắm chính quyền, tại một địa bàn quan trọng của đất nước. Chính quyền Xô Viết đã kiên quyết trấn áp bọn phản cách mạng, đồng thời thực hiện những quyền tự do dân chủ cho nhân dân, chia lại ruộng công cho nông dân, bài trừ hủ tục, xây dựng cuộc sống mới.

Đế quốc Pháp tổ chức lực lượng trở lại đàn áp. Cuộc khủng bố trắng tàn khốc trên qui mô lớn diễn ra từ đầu 1931. Chúng thêm quân lính đóng đồn khắp Nghệ Tĩnh. Các Làng đỏ bị tiến công như những mục tiêu quân sự. Hàng ngàn người bị bắn tại chỗ, không cần xét xử. Hàng vạn người bị bắt. Hàng ngàn nóc nhà bị đốt cháy.

Nhân dân Nghệ Tĩnh đã chiến đấu anh dũng và các địa phương đã phối hợp đấu tranh. Nhưng do tình hình cả nước chưa có tình thế cách mạng trực tiếp, do so sánh lực lượng giữa ta và địch quá chênh lệch, do sự đàn áp, khủng bố tàn bạo của kẻ thù, phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh phải lùi dần và đến cuối 1931 thì chấm dứt.

Mặc dầu chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn, Xô Viết Nghệ Tĩnh có vị trí lịch sử rất trọng đại trong lịch sử cách mạng nước ta.

Cao trào 30-31 mà đỉnh cao là Xô Viết Nghệ Tĩnh là cuộc tổng diễn tập đầu tiên của cách mạng Tháng Tám. Dưới dự lãnh đạo của Đảng, quần chúng vùng lên với nghị lực phi thường. Giai cấp công nhân và nông dân lần đầu tiên thể hiện mình trong khối liên minh vĩ đại. Hình thức chính quyền dân chủ nhân dân lần đầu tiên xuất hiện ở nước ta. Đảng ta, bằng thực tiễn đấu tranh đã có dịp kiểm tra và chứng kiến đường lối cách mạng của mình trong bản luận cương chính trị được thông qua 10/1930. Điều hệ trọng hơn cả là Đảng và quần chúng cách mạng càng gắn bó chặt chẽ với nhau trong cuộc đấu tranh sinh tử với kẻ thù. Nhân dân có Đảng, được tổ chức và lãnh đạo, phát huy cao độ tiềm năng của mình. Đảng có nhân dân, sức mạng tăng lên nhiều lần, nắm độc quyền lãnh đạo cách mạng.

Xô Viết Nghệ Tĩnh là kỳ tích đầu tiên của cách mạng Việt Nam đã có tiếng vang sâu rộng trong và ngoài nước.

Tháng 4 năm 1931, với sự kiện lịch sử này, Đảng Cộng sản Việt Nam được công nhận là một chi bộ của Quốc tế Cộng sản

Đồng chí Nguyễn ái Quốc lúc ấy hoạt động ở nước ngoài, nhưng đã theo sát và cùng Trung ương Đảng chỉ đạo phong trào.

Trong bài Nghệ Tĩnh Đỏ, viết ngày 19.2.1931, báo ráo gửi Quốc tế Cộng sản, Người nói:

"Nhân dân Nghệ Tĩnh có tiếng cứng đầu. Trong thời kỳ chinh phục của thực dân Pháp và trong phong trào cách mạng quốc gia (1905-1925) Nghệ Tĩnh đã nổi tiếng. Trong cuộc đấu tranh hiện nay, công nhân và nông dân Nghệ Tĩnh vẫn giữ vững truyền thống cách mạng của mình.

Nghệ Tĩnh thật xứng đáng với danh hiệu "Đỏ..!"

12 tháng 9 năm 1930! Ngày Xô Viết Nghệ Tĩnh, trận ra quân đầu tiên của cách mạng Việt Nam.

Với khí thế của một cuộc tấn công long trời như Các Mác đã từng ca ngợi Công xã Pari 1871, trong ngày 12 tháng 9 năm 1930, nhân dân Nghệ Tĩnh đã lấy máu mình nuôi lớn những bào thai Xô Viết, chuẩn bị cho nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ra đời sau đó 15 năm.

23-9-1945 Ngày Nam Bộ kháng chiến

 

Đêm 23 tháng 9 năm 1945, một bản tin khẩn cấp được truyền đi cả nước: thực dân Pháp nổ súng khởi hấn ở Sài Gòn, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược Nam Bộ.

Thực ra, ngay từ chiều ngày 2 tháng 9, bọn phản động Pháp đã có thái độ khiêu khích láo xược ở Sài Gòn, chúng bắn vào đoàn người đang dự mít tinh mừng đón bản Tuyên ngôn Độc lập. Thực dân Pháp không chịu từ từ bỏ âm mưu trở lại nô dịch nước ta, chúng núp sau lưng quân Anh là lực lượng đồng minh vào giải giáp quân Nhật ở phía Nam vĩ tuyến 16. Thực dân Anh cũng có mưu đồ thiết lập chế độ cai trị tại các thuộc địa cũ của chúng ở Đông Nam á liền tiếp tay cho thực dân Pháp hòng dập tắt ngọn lửa cách mạng ở Đông Dương.

Vụ cáo chính quyền cách mạng không giữ nổi trật tự, trị an, phái bộ Anh ở Sài Gòn đòi ta giải tán các đội tự vệ, ngăn cấm đồng bào ta biểu tình. Chúng dùng bọn tàn binh Nhật Bản vào việc khống chế lực lượng nhân dân. Chúng thả một ngàn rưỡi tên Pháp bị Nhật bắt hồi đảo chính và trang bị vũ khí cho bọn này thành những đơn vị lê dương rất hung hãn.

Ngày 20, chúng đóng cửa các tòa báo của ta.

Ngày 21, chúng chiếm trụ sở cảnh sát quận 3, ban bố lệnh giới nghiêm.

Ngày 22, chúng chiếm Đài phát thanh.

Sáng 23, hai sư đoàn thiết giáp của Anh cùng với quân Nhật có khoảng chừng 2 vạn tên đã che chở cho 6 ngàn lính Pháp đánh chiếm Sài Gòn. Nền Cộng hòa Dân chủ mới thành lập chưa đầy một tháng của ta đã phải đương đầu với một bầy quân xâm lược: Anh, Pháp và tàn quân Nhật ở phía Nam; 18 vạn quân Tưởng ở phía Bắc. Trước nguy cơ xâm lăng, nhân dân Việt Nam trả lời bằng một thái độ dứt khoát là tiến hành kháng chiến cứu nước. Hồ Chủ Tịch kêu gọi: "Thà chết tự do còn hơn sống nô lệ". Lời dạy của Người là ý chí của toàn dân, là hịch truyền của đất nước.

Ngay từ đầu tiên, nhân dân Sài Gòn đã triệt để tổng đình công, không hợp tác với địch. Công sở, xí nghiệp, cửa hàng đều đóng chặt, chợ búa không họp. Các ụ chiến đấu mọc lên khắp phố phường. Các đội tự vệ cùng nhân dân canh gác các ngả, ngăn chặn không cho địch phá, giáng cho chúng những đòn đầu tiên ác liệt. Chỉ trong trận mở đầu ở Tân Định, ta đã diệt gần 200 tên. Kế hoạch dự tính bình định Nam Bộ trong 3 tuần của thực dân Pháp bị phá sản. Quân dân Sài Gòn được sự chi viện của các tỉnh Nam Bộ đã tiến hành chiến tranh du kích, bảo vệ từng căn nhà ngõ phố, giam chân địch suốt một tháng trời. Em bé đuốc sống Lê Văn Tám tẩm dầu xăng chạy vào phá kho dầu ở Thị Nghè đã thổi bùng lên ngọn lửa yêu nước khắp nơi, trở thành một tấm gương sáng chói của chủ nghĩa anh hùng cách mạng.

Những tin tức đầu tiên về cuộc kháng chiến anh dũng của đồng bào Sài Gòn đã làm rung động cả nước. Thanh niên các tỉnh phía Bắc và Trung bộ tình nguyện lên đường vào Nam đánh giặc. Phong trào Nam tiến xuất hiện khắp nơi. Các chi đội giải phóng quân được thành lập, ra đi với quyết tâm cứu nước, khí thế bừng bừng.

Đến giữa tháng 10, chiến tranh lan rộng khắp vùng đồng bằng Nam bộ: Biên Hòa, Thủ Dầu Một, Mỹ Tho, Vĩnh Long, Cần Thơ, Sa Đéc, Long Xuyên, Châu Đốc, Hà Tiên, Rạch Giá và mở ra đến các tỉnh miền Nam Trung Bộ. Đâu đâu, giặc Pháp cũng vấp phải sức kháng cự quyết liệt của quân dân ta.

Ngày 25 tháng 10, hội nghị toàn xứ của Đảng bộ Nam Kỳ đã quyết định nhiều vấn đề quan trọng đẩy mạnh cuộc kháng chiến ở Nam Bộ và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong chiến tranh. Các đồng chí Tôn Đức Thắng, Lê Duẩn vừa thoát khỏi nhà tù Côn Đảo đã tới họp. Một tháng sau, Trung ương Đảng ra chỉ thị "Kháng chiến kiến quốc" đã vạch rõ đường lối và nhiệm vụ cơ bản của toàn dân là "củng cố chính quyền nhân dân chống thực dân Pháp xâm lược, bài trừ nội phản, cải thiện đời sống nhân dân", tập trung cuộc đấu tranh vào "kẻ thù chính của nhân dân Đông Dương lúc này là thực dân Pháp xâm lược"

Từ gậy tầm vông, từ dao mã tấu, nhân dân miền Nam đã đứng dậy kháng chiến chống Pháp, bảo vệ non sông yêu dấu. Tinh thần yêu nước nồng nàn, ý chí đấu tranh bất khuất của quân dân miền Nam thật xứng đáng với danh hiệu cao quý do Hồ Chủ Tịch tặng: "Thành đồng Tổ quốc" (tháng 2-1946). Trên suốt chặng đường 30 năm lịch sử, nhân dân miền Nam giữ vững lời thề son sắt đã hy sinh tất cả vì sự nghiệp đấu tranh cho Độc Lập-Thống nhất. Cuộc chiến đấu kiên cường của nhân dân miền Nam nói riêng, nhân dân cả nước nói chung đã lập nên chiến công chói lọi, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.

27-9-1940 Khởi nghĩa Bắc Sơn

 

Châu Bắc Sơn nằm ở phía Tây Nam tỉnh Lạng Sơn, với diện tích khoảng 800km2, phía Đông giáp huyện văn quán, phía Tây giáp huyện Võ Nhai, phía Nam giáp huyện Hữu Lũng và phía Bắc giáp huyện Bình Gia.

Bắc Sơn địa thể hiểm trở. Núi cao, lắm hang động kỳ vĩ, có hang rộng tới 12.000m2 dài hàng kilômét với nhiều di tích khảo cổ. Giữa rừng núi trùng điệp là những thung lũng rộng, những vạt ruộng khá phì nhiêu. Bắc Sơn có 5 dân tộc: Tày, Nùng, Dao, Hoa và Kinh. Người Tày đông nhất, chiếm tới 80% dân số.

Bắc Sơn là quê hương của đồng chí Hoàng Văn Thụ, một trong những người lãnh đạo xuất sắc của Đảng lúc ấy.

Năm 1933, từ Lũng Nghìu (một làng nhỏ huyện Long Châu, Trung Quốc) cách biên giới không xa, đồng chí Hoàng Văn Thụ đã về quê hương gây dựng cơ sở từ Na Sầm, Khe Da đến Đồng Đăng, Kỳ Lừa. Ngày 25 tháng 9 năm 1936, chi bộ Đảng đầu tiên ở Bắc Sơn xuất hiện ở Mỏ Tát, xã Vũ Lăng.

Bắc Sơn lúc ấy nằm trên con đường chiến lược Lạng Sơn-biên giới Việt-Trung, vì thế tháng 8-1938, Xứ ủy Bắc Kỳ cử cán bộ về củng cố. Tháng 5-1939, Ban cán sự châu Bắc Sơn thành lập ở đồi Nà Kheo, xã Vũ Lăng. Từ đó nhân dân Bắc Sơn luôn gắn mình với phong trào cách mạng chung của cả nước: chống phát- xít, chống bắt phu, đòi bán muối, đòi tự do đi lại...

Tháng 9 năm 1939, Hội nghị Trung ương lần thứ VI họp ở Bà Điểm (Sài Gòn) chỉ rõ: "Bước đường sinh tồn của các dân tộc Đông Dương không có con đường nào khác hơn là đánh đổ đế quốc Pháp và chống tất cả mọi ách ngoại xâm vô luận da trắng hay da vàng".

Tháng 6-1940, nước Pháp của tên phản bội Pê-tanh đầu hàng Hít-le. Đón trước tình hình mới, Đảng ta rất chú trọng đến tình hình biên giới phía Bắc.

Quả vậy, ở Đông Dương, phát xít Nhật bắt đầu thực hiện kế hoạch xâm lược của chúng. Ngày 22-9-1940, quân Nhật vượt biên giới đánh vào Lạng Sơn. Quân Pháp chống cự yếu ớt rồi rút chạy qua Điểm He, Bình Gia, Bắc Sơn, Thái Nguyên. Ngày 25-9-1940, tại cầu Rá Riềng, tên đại úy đồn Bình Gia bỏ chạy vứt lại cả ô-tô và súng đạn. Quân lính cởi bỏ quân phục cho dễ lẫn trốn. Chính quyền địa phương của giặc rệu rã.

Nhân dân Bắc Sơn không bỏ lỡ thời cơ, tự tổ chức việc thu nhặt võ khí, tước khí giới của các toán quân lẻ để tự vũ trang, sẵn sàng nổi dậy cướp chính quyền.

Đảng bộ Bắc Sơn được tăng cường một số đảng viên vừa thoát khỏi nhà ngục Lạng Sơn đã quyết định khởi nghĩa.

Ngày 27-9-1940, tiếng súng Bắc Sơn bùng nổ. ủy ban khởi nghĩa đã huy động một lực lượng tự vệ phục kích một toán quân Pháp ở đèo Canh Tiến, diệt 1 tên, thu súng ống rồi đuổi chúng về đèo Dập Dị.

Ngay chiều hôm ấy, với 20 khẩu súng trường, 8 súng kíp, đội tự vệ vũ trang lạI cùng 3.000 quần chúng thuộc các xã Tam Hoa, Hưng Vũ, Trấn Yên mang giáo mác gậy gộc kéo về châu l Bắc Sơn, tiến đánh đồn Mỏ Nhài, vị trí xung yếu nhất của địch ở Bắc Sơn.

Lực lượng khởi nghĩa chia làm 3 mũi. Tuy chưa có kinh nghiệm tác chiến nhưng với khí thế hùng dũng, mọi người ào ạt xông lên, vừa bắn vừa kêu gọi binh lính trong đồn. Tri châu Hoàng Văn Sĩ và một trung đội lính đầy đủ súng ống hoảng sợ tháo chạy.

Nghĩa quân chiếm được đồn, thu 17 khẩu súng kíp, 1 máy chữ và toàn bộ sổ sách, bằng, triện.

Hàng nghìn đồng bào, từ già đến trẻ, đốt đuốc kéo đến, reo hò sung sướng, náo động cả một vùng đồi núi xưa nay yên tĩnh.

Hôm sau, ngày 28-9-1940, tự vệ Bắc Sơn còn phục kích tàn quân Pháp ở đèo Thâu Thông. Nhân dân các xã Chiên Vũ, Hưng Vũ đón đánh, thu thêm vũ khí của binh lính địch ở đèo Nà Ty, Dập Dị...

Cuộc khởi nghĩa đang tiến triển thì giặc Nhật thỏa hiệp với Pháp để Pháp rảnh tay đàn áp cách mạng. Quân Pháp từ Đình Cả, Võ Nhai, Bình Gia kéo đến chiếm lại châu l, đốt phá làng bản, tàn sát nhân dân. Xứ ủy Bắc Kỳ đã phát động quần chúng Võ Nhai hỗ trợ. Tại xã Phú Thượng, đồng chí Trần Đăng Ninh cùng với đồng chí Lương Văn Chi tập hợp các chiến sĩ tự vệ và một số quần chúng tích cực lập ra Đội du kích. Ngày 14-10-1940, Đảng bộ Bắc Sơn họp ở khu rừng Sa Khao quyết định thành lập chiến khu Bắc Sơn, lập chính quyền cách mạng và lực lượng vũ trang chống địch khủng bố. Quân du kích tiến đánh Khôn Ràng lùng bắt bọn đầu sỏ. 25-10-1940, tiến đánh đồn Vũ Lăng. Tên châu úy và 100 tay súng phải bỏ chạy. Chỉ sau vài ngày, quân du kích đã lên tới 200 người.

Giặc Pháp cho tên Boóc-đi-ê, trưởng đồn Đình Cả huy động trên 100 lính khố xanh, lính dõng chiếm lại Mỏ Nhài, châu l Bắc Sơn. Ngày 28-10-1940, một cuộc tuần hành thị uy lớn có cờ đỏ sao vàng dẫn đầu từ Nam nhi đến Vũ Lăng đã bị quân Pháp nổ súng đàn áp. Giặc Pháp điên cuồng khủng bố. Phong trào tạm lắng xuống, nhưng ngọn lửa cách mạng vẫn âm ỉ. Đảng bộ Bắc Sơn đã thu thập lực lượng vũ trang, đIều động một số lên Vũ Nhai lập trung đội du kích mới.

Đội du kích phải chuyển sang hoạt động lẻ tẻ phân tán. Cuối năm, trời rét như cắt, mỗi người chỉ có một bộ quần áo chàm mỏng, lương thực thiếu, phải nhịn đói, gia đình bị khủng bố tàn sát, nhưng các chiến sĩ Bắc Sơn vẫn quyết chiến đấu đến cùng.

Lúc đó, Đảng ta cũng đã chỉ thị các địa phương phối hợp hành động. Đặc biệt, ở Ngọc Trạo (Thanh Hóa) có phong trào khá mạnh đã lập ra chiến khu Ngọc Trạo...

Tháng 11 năm 1940, trong khi Bắc Sơn đang gặp khó khăn và trong lúc Nam Kỳ đang sôi sục chuẩn bị khởi nghĩa thì Hội nghị trung ương lần thứ VII nhóm họp ở Đình Bảng (Bắc Ninh).

Sau khi nghe đồng chí Trần Đăng Ninh báo cáo, Hội nghị quyết định duy trì và bồi dưỡng đội du kích Bắc Sơn làm lực lượng quân sự đầu tiên cho cách mạng. Lực lượng đó phải chuyển hướng từ hoạt động quân sự sang chính trị, gây cơ sở, thành lập căn cứ du kích lấy vùng Bắc Sơn, Võ Nhai làm trung tâm.

Cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn nổ ra khi cả nước chưa được chuẩn bị nên phải chiến đấu lẻ loi. Đó là tiếng súng đầu tiên báo hiệu thời kỳ đấu tranh vũ trang của dân tộc Việt Nam. Khởi nghĩa Bắc Sơn đã cho ra đời đứa con đầu lòng của lực lượng vũ trang cách mạng: Đội du kích Bắc Sơn.

Khởi nghĩa Bắc Sơn đánh dấu sự chuyển hướng trong hình thức đấu tranh của nhân dân Việt Nam từ đấu tranh chính trị tiến đến kết hợp đấu tranh chính trị với vũ trang và nhờ những kinh nghiệm sinh động của cuộc khởi nghĩa ấy đã góp phần tạo ra khả năng cho một cuộc vận động cách mạng sôi nổi tiến tới tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong Cách mạng tháng Tám.

20-10-1930 Ngày thành lập Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam

 

Hơn một năm sau khi cách mạng tháng Tám thành công, ngày 20-10-1946, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam được thành lập. Lần đầu tiên trong lịch sử nước ta, một đoàn thể quần chúng của phụ nữ được hoạt động hợp pháp và công khai nhằm đoàn kết, động viên lực lượng phụ nữ đóng góp tích cực vào sự nghiệp cách mạng của đất nước.

Thực ra, ngày lịch sử đáng ghi nhớ đó của phụ nữ Việt Nam được bắt đầu từ năm thành lập Đảng tức là từ tháng 10 năm 1930.

Trong xã hội thuộc địa và nửa phong kiến trước đây, người phụ nữ Việt Nam sống trong cảnh tối tăm, khổ cực. Họ không có chút quyền chính trị, bị bóc lột và bị đối xử không bình đẳng. Chế độ trả lương bất công của bọn chủ tư bản, thói dâm bạo của bọn thực dân cùng lề thói phong kiến hủ lậu là những gánh nặng đè lên đầu lên cổ người phụ nữ. Bằng ngòi bút sắc sảo và niềm thông cảm sâu sắc, đồng chí Nguyễn ái Quốc đã tố cáo tội ác của bọn đế quốc và phong kiến đối với phụ nữ trong tác phẩm nổi tiếng: "Bản án chế độ thực dân Pháp". Năm 1925, trong lớp huấn luyện của Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội, Người đã khẳng định "Việt Nam cách mạng cũng phải có nữ giới tham gia mới thành công" (Đường Kách Mệnh).

Có thể nói một trong những tổ chức phụ nữ cách mạng đầu tiên của nước ta đã được thành lập ở Vinh (Nghệ Tĩnh). Năm 1927, đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai đứng ra họp mặt các chị em có cùng chí hướng cứu nước thành nhóm phụ nữ. Chưa có chính cương và điều lệ, hàng tháng nhóm này hội họp để thảo luận về con đường giải phóng phụ nữ. Năm sau, các nhóm tương tự xuất hiện trong giới nữ sinh trường Vinh và trong chị em nông dân huyện Nghi Lộc.

Sự thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (3.2.1930), đã mở ra một con đường cách mạng đúng đắn cho sự nghiệp giải phóng dân tộc và giải phóng phụ nữ. Hội nghị Trung ương Đảng tháng 10 năm 1930 đã thông qua một nghị quyết riêng về công tác vận động phụ nữ: "Ngoài những cách bóc lột như nhiều giờ làm, ít tiền lương, họ lại bị phong tục bó buộc, bị coi là hạng người tôi mọi, rất đê tiện trong xã hội, không có một chút tự do nào hết". Vì lòng yêu nước và căm thù đế quốc, phong kiến, phụ nữ Việt Nam nhất định sẽ trở thành lực lượng cách mạng đông đảo và hùng mạnh. Đảng đã nhận định: "Lực lượng cách mạng của phụ nữ là một lực lượng rất trọng yếu. Nếu quảng đại quần chúng phụ nữ không tham gia vào những cuộc tranh đấu cách mạng thì cách mạng không thắng lợi được". Đảng coi công tác vận động phụ nữ là một nhiệm vụ to lớn và trọng yếu và chủ trương thành lập "Phụ nữ hiệp hội".

Tinh thần đấu tranh kiên cường của phụ nữ biểu hiện rõ nét trong cao trào Xô Viết Nghệ Tĩnh. Hội phụ nữ giải phóng được tổ chức vào giữa năm 1930 ở Thạch Hà (Hà Tĩnh), Nam Đàn và Vinh (Nghệ An). Hội đã giác ngộ và động viên đông đảo chị em tham gia biểu tình hưởng ứng cuộc đấu tranh của công nhân Bến Thủy. Từ phong trào đấu tranh sôi nổi đó, tổ chức phụ nữ phát triển rất nhanh. Chỉ trong vài tháng, ở Nghệ An, chỉ hội phụ nữ giải phóng đã kết nạp 6.420 người và ở Hà Tĩnh được 2.160 người. Hoạt động dũng cảm của phụ nữ đã góp phần to lớn vào việc xây dựng chính quyền Xô Viết và đẩy mạnh phong trào cách mạng ở Nghệ Tĩnh. Hưởng ứng cuộc đấu tranh ở Nghệ Tĩnh, chị em tỉnh Quảng Ngãi cũng lập ra nhiều chi hội phụ nữ giải phóng ở một số huyện.

Trong thời kỳ Mặt trận Dân chủ Đông Dương (1936-1939), nhiều tổ chức phụ nữ dân chủ hoạt động công khai và nửa công khai. ở thành thị, chị em tổ chức theo từng ngành nghề, đấu tranh đòi địch phải giải quyết những yêu sách về đời sống, giảm thuế, tăng cường, đối xử bình đẳng...Đông đảo phụ nữ đã tham gia vào cuộc mít tinh khổng lồ ngày 1 tháng 5 năm 1938 tại khu Đấu Xảo Hà Nội.

Tháng 5 năm 1941, Mặt trận Việt Minh được thành lập. Các tổ chức quần chúng dưới sự lãnh đạo của Đảng đều lấy tên "cứu quốc". Tháng 6 năm đó, Hội phụ nữ Cứu quốc đầu tiên được thành lập ở Cao Bằng, Lạng Sơn. Các tổ chức phụ nữ mang tên Giải phóng, Dân chủ, Phản đế đều chuyển sang là Phụ nữ Cứu quốc. Các sơ sở phụ nữ mọc lên nhanh chóng ở Thái Bình, Hà Tây, Nam Hà. ở Bắc Bộ đã thành lập "Ban vận động phụ nữ xứ", ở nhiều tỉnh đã có "Ban cán sự phụ nữ tỉnh". Riêng Hà Nội, Hội Phụ nữ Cứu quốc phát triển mạnh ở các huyện Từ Liêm, Thanh Trì, Đông Anh và một số nơi trong thành phố. Từ cao trào Nam Kỳ Khởi Nghĩa, nhiều tổ chức phụ nữ ra đời ở các tỉnh miền Nam. Đặc biệt là ở Sài Gòn, Cần Thơ, Bến Tre... các hội phụ nữ góp phần tích cực vào việc chuẩn bị cho ngày tổng khởi nghĩa. Tháng 8-1945, khi thời cơ cách mạng chín mùi, chị em phu nữ cả nước vùng dậy, cùng toàn dân cướp chính quyền, xây dựng chế độ cộng hòa dân chủ.

Từ đó, địa vị người phụ nữ Việt Nam đã hoàn toàn khác hẳn. Việc thành lập Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam (20-10-1946) đã xác nhận vai trò và vị trí của người Phụ nữ trong xã hội ta. Lần đầu tiên, người phụ nữ Việt Nam được cầm lá phiếu bầu cử, tham gia các công tác chính quyền và xã hội nắm giữ nhiều trọng trách trong bộ máy nhà nước và các đoàn thể quần chúng.

Đặc biệt là trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, chị em phụ nữ Việt Nam đã góp phần xương máu vào thắng lợi huy hoàng của dân tộc. Tên tuổi các nữ anh hùng Võ Thị Sáu. Mạc Thị Bưởi, Trần Thị Lý, Mẹ Suốt, Lê Thị Hồng Gấm và rất nhiều người khác là những biểu tượng cao đẹp của chủ nghĩa anh hùng cách mạng của nhân dân ta. Lịch sử sẽ còn mãi mãi ghi lại những hình ảnh chói ngời của những "đội quân tóc dài", những nữ chiến sĩ bất khuất trong tù, những mẹ già đào hầm bảo vệ cán bộ, cất giấu thương binh, những đội nữ dân quân bắn rơi máy bay phản lực, bắn cháy tàu chiến của địch, những nữ thanh niên xung phong "sống bám cầu bám đường, chết kiên cường dũng cảm". Hàng triệu người mẹ, người vợ đã vượt qua mọi hy sinh gian khổ, động viên chồng con đi chiến đấu, đảm đang việc nước, việc nhà, vững vàng gan dạ vừa sản xuất, vừa chiến đấu. Phụ nữ Việt Nam rất tự hào, xứng đáng với lời khen của Đảng và Nhà nước "Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang, Phụ nữ Việt Nam dũng cảm, đảm đang chống Mỹ, cứu nước"

Trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ngày nay, phụ nữ chiếm 60% lực lượng lao động các ngành nông nghiệp, công nghiệp nhẹ, y tế, văn hóa, giáo dục và hơn 30% lực lượng lao động các ngành khác. Nhiều chị em trưởng thành vượt bậc về trình độ văn hóa và kỹ thuật. Đội ngũ nữ công nhân lành nghề, nữ cán bộ khoa học, nữ cán bộ quản lý ngày một đông đảo và có năng lực thực sự đóng góp vào sự nghiệp chung của đất nước. Vai trò bình đẳng của phụ nữ trong gia đình và ngoài xã hội được pháp luật bảo đảm. Luật hôn nhân và gia đình đã khẳng định địa vị của người phụ nữ trong chế độ ta. Số chị em đạt danh hiệu Anh hùng Lao động, Chiến sĩ thi đua, Lao động tiên tiến ngày một tăng lên, thể hiện tinh thần quyết tâm vươn lên làm chủ đất nước, làm chủ xã hội và làm chủ bản thân của chị em.

Phụ nữ Việt Nam không ngừng phấn đấu lao động và học tập, ra sức thi đua sản xuất và cần kiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội theo khẩu hiệu của Đảng đề ra là "Giỏi việc nước, đảm việc nhà, thực hiện nam nữ bình đẳng". Phụ nữ Việt Nam không ngừng vươn lên, xứng đáng với lời khen của Bác Hồ kính yêu:

"Từ xưa đến nay, từ Nam đến Bắc, từ trẻ đến già, phụ nữ Việt Nam thật là anh hùng"

23-11-1940 Khởi nghĩa Nam Kỳ

 

Cùng với việc quân Nhật kéo vào Bắc bộ, thừa cơ quân Pháp bối rối, tháng 11 năm 1940, bọn quân phiệt Thái Lan theo lệnh phát xít Nhật tiến đánh Campuchia. Thực dân Pháp bắt lính người Nam bộ và người Khơme ra trận làm bia đỡ đạn cho chúng. Căm thù thực dân Pháp và được cổ vũ bởi tiếng súng khởi nghĩa Bắc Sơn, nhân dân Nam bộ sục sôi tranh đấu.

Nam bộ lúc đó có phong trào mạnh mẽ hơn các nơi trong cả nước. Từ sau Hội nghị trung ương Đảng lần thứ VI (11-1939) họp tại Hóc Môn-Bà Điểm (Sài Gòn), mặc dù một số đồng chí lãnh đạo chủ chốt của Đảng bị bắt nhưng Xứ ủy Nam kỳ vẫn củng cố và lớn mạnh.

Tháng 3-1940, Ban thường vụ Xứ ủy do đồng chí Võ Văn Tần, ủy viên Trung ương Đảng làm bí thư đã vạch ra Đề cương chuẩn bị bạo động đưa các hoạt động lẻ tẻ vào phong trào chống đế quốc Pháp và tay sai, chuẩn bị vũ trang khởi nghĩa.

Cả Nam bộ rạo rực không khí chuẩn bị. Nhiều cuộc biểu tình nổ ra giữa ban ngày. Có nơi, khi bọn mật thám kéo đến bắt cán bộ, nhân dân nổi trống mõ uy hiếp, đánh tháo.

Các đội tự vệ, du kích dưới sự chỉ đạo trực tiếp của các đồng chí Võ Văn Tần, Phan Đăng Lưu, phát triển ngay ở những xí nghiệp lớn ở Sài Gòn như Ba Son, F.A.C.I, bến tàu, nhà đèn Chợ Quán, trường Bách Nghệ... ở nông thôn phần lớn các xã đều có từ một tiểu đội đến một trung đội du kích.

Làng nào cũng có lò rèn ngày đêm sản xuất vũ khí. Nhân dân góp nồi đồng, mâm thau, lư hương để du kích đúc đạn. Thậm chí xuất hiện cả những cơ sở làm bom, lựu đạn xi măng, súng thô sơ ở Móp Xanh (Tân An), Bà U (Mỹ Tho), chùa Hòa Thượng Đồng (Rạch Giá).

Phong trào chống chiến tranh, chống bắt lính với khẩu hiệu không một người lính, không một đồng xu cho đế quốc chiến tranh diễn ra sôi nổi trong nhân dân và binh lính.

Do công tác binh vận của anh em ráo riết, phần lớn trong số 15.000 binh lính người Việt đóng ở Sài Gòn sẵn sàng phối hợp nổi dậy.

Trước tình hình quần chúng sôi sục và chiến tranh Pháp-Thái sắp nổ ra, tháng 7-1940, Xứ ủy Nam Kỳ họp mở rộng đã thông qua đề cương chuẩn bị khởi nghĩa do thường vụ Xứ ủy khởi thảo.

Đồng chí Phan Đăng Lưu, đại diện Trung ương Đảng, sau khi dự hội nghị này được cử ra Bắt họp Hội nghị Trung ương lần thứ VII để báo cáo và xin chỉ thị của Trung ương.

Sau khi nghe đồng chí Phan Đăng Lưu báo cáo cặn kẽ việc chuẩn bị khởi nghĩa, Hội nghị Trung ương nhận định điều kiện khởi nghĩa ở Nam Kỳ và trong cả nước chưa chín muồi, vì vậy đề nghị Xứ ủy Nam Kỳ chưa nên phát động khởi nghĩa. Trung ương cũng phái đồng chí Phan Đăng Lưu quay trở lại để hoãn cuộc khởi nghĩa.

Ngày 22 tháng 10 năm 1940, vừa về đến Sài Gòn, đồng chí Phan Đăng Lưu đã bị bắt. Lệnh khởi nghĩa lúc đó đã phát đi khắp nơi không thể thu hồi lại.

Đáng tiếc hơn nữa, kế hoạch của cuộc khởi nghĩa đã phần nào bị địch đánh hơi thấy trước ít ngày. Tối 22.11.1940, đồng chí Tạ Uyên, bí thư Xứ ủy mới thay đồng chí Võ Văn Tần đã bị bắt từ ít tháng trước và một số đồng chí khác trong Thành ủy Sài Gòn sa lưới mật thám. Đế quốc ra lệnh cấm trại binh lính người Việt và tước vũ khí của số phản chiến. Kế hoạch định lấy tiếng súng đánh chiếm thành phố Sài Gòn vào lúc 24 gờ 22.11.1940 làm súng lệnh không thành!

Mặc dầu vậy, đêm 22 rạng sáng 23 tháng 11 năm 1940 cuộc khởi nghĩa Nam kỳ vẫn bùng nổ với khí thế mạnh mẽ và quy mô lớn chưa từng có.

Nông thôn Nam bộ rung chuyển. Từ Biên Hòa đến Cà Mau, 18 tỉnh nổi dậy cướp chính quyền. ở Mỹ Tho 54 trong số 56 xã được giải phóng. ở Chợ Lớn ta giành được nhiều tổng. ở Tân An, các xã hai bên bờ sông Vàm Cỏ Tây, hữu ngạn Vàm Cỏ Đông đều về tay nhân dân...

Cờ đỏ sao vàng và cờ đỏ búa liềm được kéo lên trước nhà làm việc của chính quyền cách mạng.

Năm 1931, khi bị giam ở Khám lớn Sài Gòn, đồng chí Trần Phú, Tổng bí thư đầu tiên của Đảng có lần tâm sự: Sau này nước nhà độc lập, ta sẽ lấy quốc kỳ màu đỏ có ngôi sao năm cánh tượng trưng cho năm giới công, nông, binh, trí và thương đoàn kết xung quanh Đảng.

Nhớ lời Anh, các đồng chí ở Mỹ Tho lúc này đã gương cao cờ đỏ sao vàng bên cạnh cờ Đảng trên mái đình Long Hưng, nơi lập chính quyền cách mạng đầu tiên trong tỉnh.

Màu cờ đỏ rực sáng trên những cánh đồng bát ngát của vùng châu thổ chín khúc đầu rồng.

Bọn phản cách mạng bị xét xử. Ruộng, thóc của địa chủ phản động được chia cho dân cày nghèo.

Mặc dù chính quyền cách mạng chỉ giữ được một thời gian ngắn (lâu nhất ở Mỹ Tho giữ được 49 ngày) nhưng cũng như Xô Viết Nghệ Tĩnh ngót 10 năm trước, đó là những ngày hội của quần chúng.

Thực dân Pháp điên cuồng đàn áp, và quan trọng nhất là tiêu diệt chính quyền cách mạng. Máy bay dội bom xuống làng mạc, thôn xóm. Cùng với quần chúng, quân du kích Nam Kỳ đã chiến đấu vô cùng anh dũng.

Tại Hóc Môn (Gia Định) cách Sài Gòn 20km, dưới sự chỉ huy của đồng chí Mười Đen-xứ ủy viên, du kích vây đồn, chặn đánh địch tiếp viện ở Cầu Bông, giết tên ác-Nôn chánh xứ tỉnh Tây Ninh và một số lính, thu 15 súng rồi kéo lên Truông Mít (Tây Ninh).

ở Cần Giuộc, Bến Lức đội du kích của nữ đồng chí Nguyễn Thị Bảy đã làm cho bọn địch kinh sợ phải gọi chị là "Bà Chúa Đỏ"

ở Vũng Liêm (Vĩnh Long) đội du kích của nữ đồng chí Hồng, bí thư quận ủy, cùng quần chúng chiếm đồn địch trong 3 ngày, làm chủ quận l.

ở Mỹ Tho, hàng ngàn du kích do bí thư tỉnh ủy chỉ huy bức rút II đồn, phá hoại gần 10 km đường bộ, 14 cầu, ngăn 6 con sông, bóc đường sắt Sài Gòn-Mỹ Thọ. Ngày 14 tháng 12 năm 1940 địch phải dùng thủy, lục, không quân tiến công Mỹ Tho nhưng mãi đến 14.1.1941 chúng mới chiếm lại được và đẩy du kích vào Đồng Tháp Mười.

Giặc Pháp khủng bố rất khốc liệt, dã man. Chỉ trong 40 ngày, riêng bốn tỉnh Gia định, Mỹ Tho, Long Xuyên và Cần Thơ có tới 5.640 người bị giặc lấy dây thép xâu tay rồi phơi nắng cho đến chết khô, hoặc chất lên sà lan đưa ra biển nhận chìm...

Tháng 12-1940, Đảng bộ Nam kỳ họp ở Bà Quẹo (Gia Định) quyết định rút lui để tránh tổn thất, đưa lực lượng còn lại xây dựng căn cứ U Minh và Đồng Tháp Mười.

Ngay từ khi được tin Nam Kỳ khởi nghĩa, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã ra thông báo khẩn cấp, chỉ thị cho các địa phương chia lửa với Nam Kỳ. Từ việc rải truyền đơn, bãi khóa, bãi thị đến việc phát động du kích, nếu có điều kiện phá đường, cầu cống ngăn quân thù đàn áp.

Cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ bị dập tắt. Bọn đế quốc vẫn chưa hết hoảng sợ. Một bãi bắn được dựng lên vội vã ngay tại thị trấn Hóc Môn (Gia Định). Ngày 28-8-1941, lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng Việt Nam có một cuộc tàn sát quy mô lớn. Các đồng chí lãnh đạo, những người con ưu tú của dân tộc, của Đảng, trong đó có Nguyễn Văn Cừ, Võ Văn Tần, Phan Đăng Lưu, Nguyễn Thị Minh Khai... đã bị giặc Pháp giết. Tấm gương hy sinh dũng cảm của các đồng chí mãi mãi sáng ngời chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam.

Khởi nghĩa Nam kỳ là trang sử oanh liệt của đất Đồng Nai, của miền Nam "đi trước về sau" trên suốt chặng đường cách mạng của đất nước.

Cùng với khởi nghĩa Bắc Sơn, Nam Kỳ khởi nghĩa là hiệu kèn giải phóng hùng dũng báo hiệu thắng lợi vĩ đại của Cách mạng tháng Tám năm 1945.

Khởi nghĩa Nam Kỳ nêu một tấm gương sáng chói về tinh thần kiên cường bất khuất của nhân dân Việt Nam. Qua trận thử lửa này, quần chúng càng gắn bó với Đảng, càng tôi luyện chí khí cách mạng, củng cố nhận thức: Con đường sống duy nhất của dân tộc là phải dùng bạo lực cách mạng đập tan bạo lực phản cách mạng của bọn đế quốc và phong kiến, giành lại độc lập tự do.

28-11-1820 Ngày sinh Ăng-Ghen

 

Phơrêđơrích Ăng-ghen (Friedrich Engels) là người thầy vĩ đại của giai cấp vô sản, người bạn chiến đấu của Các Mác.

Ph. Ăng-ghen sinh ngày 28-11-1820 trong một gia đình chủ xưởng ở thành phố Barơmen (miền Rênani, nước Đức). Theo ý nguyện của người cha là đào tạo Ăngghen thành một nhà kinh doanh thành thạo và giàu có, ông phải bỏ dở việc học ở trường trung học đểvề làm thư ký hãng buôn. Công việc tẻ ngắt và đầy dối trá đó làm cho ông căm phẫn: "Cái làm cho tôi ghê tởm nhất chẳng những là phải làm một nhà tư sản, mà lại còn phải làm một người chủ xưởng, một anh tư sản tích cực dự phần chống lại giai cấp vô sản" (thư gửi Mác).

Năm 1841, ông vào quân đội, đóng ở Béclin. Bên cạnh việc tập luyện, ông chú ý nghiên cứu về lý thuyết quân sự và đi nghe những buổi thuyết trình triết học ở trường đại học. Cuối năm 1842, ông sang Anh và sống ở thành phố công nghiệp Dệt Man-chet-xtơ. Không chịu sự ràng buộc của gia đình muốn ông thành chủ xưởng, Ăng-ghen quyết định đi sâu tìm hiểu đời sống của những người lao động. Ông nói với công nhân: "Tôi muốn thăm các bạn ngay trong nhà các bạn, muốn xem xét cuộc sống hằng ngày của các bạn,

nói với các bạn về điều kiện sinh hoạt và nỗi đau khổ của các bạn. Tôi muốn chứng kiến cuộc đấu tranh của các bạn chống lại quyền lực xã hội và chính trị của những kẻ áp bức các bạn". Ba năm sau, công trình nghiên cứu của Ăng-ghen ra đời "Tình cảm giai cấp công nhân Anh". Bằng những chứng cớ sinh động của cuộc sống và những tài liệu phong phú của chính quyền tư sản Ăng-ghen đã vẽ lên bức tranh hiện thực của cuộc đời những người lao động. Qua đó, ông được coi là người đầu tiên phát hiện sứ mạng lịch sử vĩ đại của giai cấp công nhân trong công cuộc đấu tranh giải phóng lao động, xây dựng xã hội mới không có áp bức bóc lột.

Cùng thời gian đó, ông công bố "Góp phần phê phán chính trị kinh tế học" (1844), Mác coi đó là một tác phẩm thiên tài về khoa học chính trị kinh tế học của giai cấp vô sản.

Cuối tháng 8-1844, Ăng-ghen gặp Mác ở Pari. Cuộc gặp gỡ mười ngày đó đã mở đầu cho một thời kỳ cộng tác lâu dài giữa hai người trong sự nghiệp đấu tranh cho chủ nghĩa cộng sản. Hai ông đã hoàn toàn nhất trí với nhau về những vấn đề được đưa ra thảo luận. Hai ông đã viết chung cuốn "Gia đình thần thánh" và "Hệ tư tưởng Đức" nhằm phê phán triết học của phái Hê-ghen và phái Phơ-bách để đặt cơ sở cho triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.

Trong khi miệt mài nghiên cứu lý luận, Ăng-ghen cùng với Mác đã bắt liên lạc với phong trào công nhân các nước, chú ý đi vào thực tiễn đấu tranh. Năm 1847, hai ông tham gia tổ chức "Liên đoàn những người cộng sản" và theo đề nghị của Đại hội hai ông khởi thảo "Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản". Cuốn "Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản" xuất bản lần đầu tiên vào tháng 2-1848 bằng tiếng Anh ở Luân Đôn. Đó là một văn kiện có tính chất cương lĩnh đấu tranh của giai cấp vô sản quốc tế. Văn kiện đó ra đời khi các tác giả của nó là Các Mác 30 tuổi và Ăng-ghen mới 28 tuổi. 130 năm đã qua, thực tiễn của cuộc đấu tranh cách mạng đã xác nhận tính khoa học chính xác và ý chí cách mạng tiến công của những nguyên lý được đề ra trong Tuyên ngôn.

Tháng 2-1848, cách mạng bùng nổ ở Pháp rồi lan sang Đức và nhiều nước Châu Âu. Phong trào công nhân phát triển mạnh mẽ. Mác và Ăng-ghen trở về Đức, xuất bản tờ "Báo Rê-na-ni mới". Trên những trang báo này, Ăng-ghen kêu gọi nhân dân Đức kiên quyết đấu tranh chống chế độ nông nô và chế độ chuyên chế phong kiến, vạch trần sự phản bội của giai cấp tư sản Đức và tính không triệt để của những người dân chủ tiểu tư sản. Ăng-ghen cùng với Mác kiên quyết bảo vệ chủ trương đấu tranh cho một nước Đức cộng hòa, dân chủ và thống nhất. Tháng 5-1849, Ăng-ghen trực tiếp tham gia cuộc khởi nghĩa nhân dân vũ trang ở Tây Nam Đức. Sau khi bị đàn áp, ông cùng với nghĩa quân dời sang Thụy Sĩ và sau đó, ông trở về Luân Đôn gặp gỡ Mác.

Trong hai chục năm (1850-1870), Ăng-ghen sống ở Man-chet-xtơ. Ông viết nhiều bài tổng kết kinh nghiệm cuộc cách mạng vừa qua ở Đức ("Cách mạng và phản cách mạng ở Đức"). Ông đi sâu nghiên cứu về kinh tế chính trị học và giúp đỡ Mác rất nhiều trong việc biên soạn bộ "Tư bản". Ông viết những bài quan hệ quốc tế, về nghệ thuật quân sự và về nhiều vấn đề khác. Qua những công trình của mình, Ăng-ghen đã thể hiện một sự hiểu biết rộng lớn, một tầm nhìn sâu sắc, một khả năng nhận định thiên tài trên nhiều lĩnh vực khoa học và cuộc sống. Mác rất tự hào khi gọi người bạn mình là một bộ "Bách Khoa". Ông đã trả lời một cách nghiêm túc, đầy đủ và cặn kẽ mọi vấn đề do Mác đặt ra. Ông sử dụng gần 20 thứ tiếng nước ngoài, nói thành thạo 12 thứ, bao gồm các ngôn ngữ chính và nhiều ngôn ngữ địa phương.

Ăng-ghen luôn luôn gần gũi với phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân. Trong những ngày khó khăn của cách mạng, ông vẫn giữ vững sợi dây liên lạc với những người lãnh đạo công nhân các nước. Tham gia Quốc tế thứ nhất, ông cùng với Mác đấu tranh chống lại các trào lưu tư tưởng phi vô sản. Ông nhiệt liệt ủng hộ và tích cực giúp đỡ các chiến sĩ Công xã Pari (1871).

Trong những năm 70 và 80 của thế kỷ XIX, nhiều đảng công nhân được thành lập. Để bảo vệ đường lối chủ nghĩa Mác, Ăng-ghen viết tác phẩm quan trọng: "Chống Đuy-rinh" (1877) nhằm chống lại những quan điểm tiểu tư sản có tính chất cơ hội chủ nghĩa. Ông tổng kết những tài liệu về khoa học tự nhiên, phân tích trong tác phẩm xuất sắc: "Phép biện chứng của tự nhiên".

Năm 1883, Các Mác qua đời, Phơ-rê-đơ-rích Ăng-ghen phải đảm nhận trách nhiệm vẻ vang và nặng nề trong việc lãnh đạo giai cấp vô sản quốc tế. Ông nhận trách nhiệm hoàn thành và xuất bản công trình đồ sộ "Tư bản" của Mác. Ông cho xuất bản quyển II (1885) và quyển III (1894). Trong hơn một chục năm trời miệt mài cho trọn bộ "Tư bản","Ăng-ghen đã dựng cho người bạn thiên tài của ông một đài kỷ niệm trang nghiêm, trên đó Ăng-ghen cũng không ngờ là đã khắc tên mình bên cạnh tên Mác bằng những dòng chữ không bao giờ phai mờ được" (Lênin). Là con người hết mực khiêm nhường, Ăng-ghen thường nói "Khi Mác còn sống, tôi vẫn là một cây đàn vi-ô-lông thứ hai bên cạnh Mác". Song, mối tình thân ái của ông đối với Mác lúc còn sống và lòng kính mến của ông đối với Mác lúc đã mất thật là vô hạn!

Năm 1844, Ăng-ghen đã viết xong tác phẩm nổi tiếng "Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của Nhà nước", "Lút-vích Phơ-bách và sự cáo chung của nền triết học cổ điển Đức" (1888). Trong những năm cuối đời mình, Ăng-ghen đấu tranh không khoan nhượng chống mọi biểu hiện cơ hội chủ nghĩa trong phong trào công nhân. Trong các đại hội của Quốc hội thứ hai, ông đã giành được thắng lợi trong việc đấu tranh thông qua những quyết nghị mác-xít như khẩu hiệu đòi ngày làm 8 giờ, tổ chức ngày Quốc tế Lao động 1.5, xác nhận tính tất yếu của chuyên chính vô sản và thắng lợi của cách mạng vô sản.

Trong lá thư gửi bạn viết hồi cuối năm 1844, Ăng-ghen tỏ ý hy vọng mình sẽ sống năm thứ 75 một cách khỏe khoắn hơn, ít lo ngại hơn và ham làm việc. Nhưng đó lại chính là lúc bệnh tật hiểm nghèo đang đục ruỗng cơ thể ông. Đến 11 giờ đêm ngày 5 tháng 8 năm 1895, Ăng-ghen qua đời.

Ph. Ăng-ghen, người thầy vĩ đại của chủ nghĩa cộng sản, người chiến sĩ kiên cường của giai cấp vô sản, người đồng chí trung kiên cường của giai cấp vô sản, người đồng chí trung kiên và người bạn hết mực khiêm nhường của Các Mác mãi mãi sống trong lòng giau cấp công nhân, nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức toàn thế giới.

19-12-1946 Ngày toàn quốc kháng chiến

 

Vụ nổ súng gây hấn ở Sài Gòn ngày 23 tháng 9 năm 1945 là màn mở đầu của cuộc chiến tranh xâm lược lại nước Việt Nam do thực dân Pháp tiến hành. Ngọn lửa chiến tranh lan rộng nhanh chóng khắp vùng Nam Bộ và Nam Trung bộ. Cùng thời gian đó, 18 vạn quân Tưởng tràn vào miền Bắc, kéo theo bè lũ tay sai phản động hòng bóp chết nền Dân chủ Cộng hòa trẻ tuổi của chúng ta. Trước tình hình nguy ngập của vận nước, Đảng ra chỉ thị "Kháng chiến kiến quốc" (25-11-1945) vạch ra kẻ thù chính của nhân dân Đông Dương lúc này là thực dân Pháp xâm lược, phải tập trung ngọn lửa đấu tranh vào chúng.

Nhưng trong tình hình phức tạp, một lúc phải chống chọi với nhiều kẻ thù bên ngoài và bên trong, Đảng đề ra sách lược đấu tranh sáng suốt nhằm bảo toàn lực lượng, tranh thủ thời gian để chuẩn bị tích cực cho cuộc chiến đấu sắp tới. Thực hiện sách lược "Hòa để tiến", Hồ Chủ Tịch đã ký với Pháp bản Hiệp định sơ bộ ngày 6 tháng 3 năm 1946, cho 15 ngàn quân Pháp vào thế quân Tưởng rút về nước. Khi quân Tưởng rút, bọn tay sai còn lại bị tan rã. Thế là ta đã gạt phăng một kẻ thù nguy hiểm là quân Tưởng để tập trung mũi nhọn vào thực dân Pháp.

Những cuộc đàm phán tiếp theo với Pháp ở Hội nghị trù bị Đà Lạt (tháng 4 đến tháng 5), hội nghị chính thức ở Phông-ten-nơ-bơ-lô bên Pháp (tháng 7 đến tháng 9) không đem lại kết quả. Đế quốc Pháp ngoan cố không công nhận nền độc lập thực sự và chủ quyềh toàn vẹn của dân tộc ta. Chúng ta kiên quyết giữ vững lập trường hòa bình trong tự do, bình đẳng chứ không hòa bình trong nô lệ. Để ta có thời gian chuẩn bị lực lượng, ta ký với Pháp bản tạm ước 14 tháng 9.

Đảng nhận định không sớm thì muộn Pháp sẽ đánh ta và ta nhất định phải đánh Pháp. Cho nên mọi việc chuẩn bị phải được tiến hành tích cực, kịp thời và chu đáo. Đầu tháng 11, Hồ Chủ tịch viết bài "Công việc khẩn cấp bây giờ" đặt nền móng tư tưởng chỉ đạo đường lối kháng chiến trong cả nước.

Từ cuối tháng 11, giặc Pháp càng lộ rõ thái độ hiếu chiến. Sau một thời gian ngắn ngừng bắn theo tinh thần bản tạm ước 14.9, giặc Pháp nổ súng trở lại trên các chiến trường miền Nam. Với tinh thần cảnh giác cao, tích cực tranh thủ thời gian để củng cố và phát triển lực lượng, quân dân miền Nam đánh trả địch cho những đòn đích đáng. ở ngoài Bắc, giặc Pháp dùng hải, lục, không quân đánh phá Hải Phòng, cướp đoạt thuế quan và nổ súng chiếm đóng thị xã Lạng Sơn. Tội ác của thực dân Pháp càng khơi sâu lòng căm thù giặc của dân ta. Quân dân Hải Phòng, Lạng Sơn đứng dậy đấu tranh anh dũng bảo vệ thành phố thân yêu của mình. Những cuộc xung đột vũ trang lẻ tẻ ở các địa phương báo hiệu nguy cơ chiến tranh đang tới gần. Nghe theo lời dạy của Hồ Chủ tịch, toàn dân hăng hái chuẩn bị kháng chiến và sẵn sàng đợi lệnh.

Đầu tháng 12, giặc Pháp càng khiêu khích trắng trợn. ở Hà Nội hầu như không có ngày nào là ngày xảy ra những vụ bắn phá, giết người, cướp của. Nghiêm trọng nhất là vụ chúng cho lính đến phá phách Phòng thông tin Tràng Tiền trong suốt 3 ngày liền từ mùng 2 đến mùng 4. Chiều mùng 7 chúng chiếm đóng nhà Ngân hàng Pháp-Hoa. Xe tăng, xe bọc thép chở lính Pháp ngược xuôi khắp đường phố, cán chết người đi đường, húc đổ nhà cửa. Đồng bào vô cùng căm giận nhưng đã thực hiện đúng lời Hồ Chủ tịch căn dặn phải bình tĩnh, sáng suốt, không mắc vào âm mưu khiêu khích của địch.

Nhân dân Thủ đô khẩn trương chuẩn bị cho cuộc chiến đấu. Cụ già, em nhỏ được hướng dẫn tản cư ra ngoài thành phố. Thanh niên, phụ nữ được tổ chức thành những đơn vị tự vệ. Hà Nội biến thành một chiến lũy kiên cố. ụ chiến đấu mọc lên khắp nơi, đồ đạc trong nhà đem xếp ra đường thành những chướng ngại vật đồ sộ, đường giao thông xuyên qua tường các nhà trong phố.

Chiều 16 và sáng 17, giặc Pháp gây vụ thảm sát ở phố Yên Ninh-Hàng Bún, bia căm thù đến nay vẫn còn đó: hàng chục người bị giết, nhà cửa bị đốt phá tan hoang. Sáng 18, giặc Pháp nổ súng vào khu vực hàng Khoai-chợ Đồng Xuân, 21 giờ hôm đó, chúng gửi tối hậu thư đòi tước vụ khí vệ quốc đoàn, tự vệ và công an, đòi kiểm soát trật tự trị an trong thành phố. Những hành động đó chứng tỏ địch đã sẵn sàng nổ súng ăn cướp nước ta một lần nữa.

Đảng và Hồ Chủ tịch đã dự đoán trước tình thế này tất nhiên sẽ xảy ra và ra sức lãnh đạo nhân dân ứng phó kịp thời, kiên quyết.

20 giờ ngày 19 tháng 12, đèn điện ở Hà Nội phụt tắt, súng nổ ầm trời. Cuộc chiến tranh xâm lược của giặc Pháp đã bắt đầu trên toàn quốc. Giờ cứu nước đã đến! Pháo của ta từ Láng, từ Xuân Tảo trút căm hờn vào đầu giặc Pháp đóng ở trong thành. Các chiến lũy được củng cổ vững chắc. Cây bị chặt đổ, cột đèn bị ngả xuống, các toa xe điện nằm chắn ngang đường. Trong khói lửa mù mịt, nhân dân Hà Nội người nào việc nấy, dốc sức cho cuộc chiến đấu sống mái với quân thù.

Giặc Pháp cho xe bọc sắt và bộ binh đến đánh úp đơn vị quân ta đóng ở trụ sở liên lạc Việt-Pháp. Các chiến sĩ Vệ quốc đoàn chiến đấu dũng cảm, hy sinh đến người nhà máy điện, nhà máy nước Yên Phụ, đầu cầu Long Biên. Chúng hí hửng tưởng rằng chỉ trong 24 tiếng đồng hồ là có thể nuốt chửng Hà Nội! Nhưng không, chúng đã lầm. Với tinh "thần quyết tử để cho Tổ Quốc quyết sinh", quân dân Thủ đô đã chiến đấu vô cùng dũng cảm, ngăn chặn bước tiến của chúng. Những đoàn xe của Pháp từ trong thành ra vấp phải chướng ngại vật trên đường phố, di chuyển rất chậm chạp. Lợi dụng thời cơ đó, tự vệ cùng nhân dân từ trên gác cao quăng giường tủ xuống đường, ném lựu đạn, lao bom, nã súng như đổ lửa vào đầu giặc. ở nhà máy đèn Bờ Hồ, trong chớp nhoáng, công nhân cùng bộ đội đã diệt toàn bộ quân địch đóng ở đây, không để một tên sống sót. ở Bắc Bộ phủ, trụ sở của Chính phủ khi đó (nay là Nhà khách, đường Ngô Quyền), chiến sĩ ta chiến đấu ngoan cường suốt đêm đến sáng. Các quyết tử quân ôm bom ba càng lao vào phá hủy chiến xa địch. Hàng loạt bom, chai cháy, lựu đạn từ các cửa sổ tung xuống đầu giặc, làm cho chúng khiếp vía hoảng hồn. Hơn 20 nam nữ công nhân nhà Bưu điện Bờ Hồ cùng đơn vị Vệ quốc đoàn ở đó đánh lui nhiều đợt tấn công của địch. Trong suốt một ngày, chúng không thể nào chiếm nổi nhà bưu điện, để lại 122 xác chết cùng 2 xe tăng, 2 xe vận tải, 1 xe díp. Trận đánh ở đầu cầu Long Biên đã diệt 70 tên địch, phá hủy 4 xe tăng, 2 xe vận tải. Nhiều trận giao chiến quyết liệt diễn ra ở nhà máy Yên Phụ, đầu phố Hàng Lọng (đường Nam Bộ), ga Hàng Cỏ, Đồn Thủy, Phà Đen, trường Bưởi (nay là trường Chu Văn An), nhà máy bia.

Ngày đầu tiên của cuộc kháng chiến trường kỳ đã diễn ra ở Hà Nội như vậy. Tại các thành phố khác, cuộc kháng chiến chống Pháp cũng bùng nổ vào đêm 19. Cuộc chiến đấu anh dũng của quân dân ta đã giam chân địch, ngăn chặn bước tiến của chúng, tạo thời cơ thuận lợi cho việc chuẩn bị kháng chiến lâu dài.

Ngày 20, Hồ Chủ tịch ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến: "Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc, hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp, cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm thì dùng cuốc thuổng, gậy gộc, ai cũng phải ra sức chống thực dân cứu nước".

Dưới ngọn cờ bách chiến bách thắng của Đảng, theo lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch, toàn dân ta anh dũng bước vào cuộc chiến tranh yêu nước thần kỳ để nói:

Chín năm làm một Điện Biên

Nên vành hoa đỏ, nên thiên sử vàng.

20/7/1954, hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết, giặc Pháp phải rút khỏi miền Bắc, một nửa nước thân yêu của chúng ta được giải phóng và đi lên chủ nghĩa xã hội, làm cơ sở vững chắc cho cuộc đấu tranh chống Mỹ, cứu nước thắng lợi sau này, giải phóng hoàn toàn đất nước, thống nhất tổ quốc Việt Nam.

22-12-1944 Thành lập quân đội nhân dân Việt Nam

 

Quân đội nhân dân Việt Nam là con đẻ của phong trào cách mạng và nhân dân.

Trong cao trào Xô Viết Nghễ Tĩnh (1930-1931), cuộc tổng diễn tập đầu tiên của cách mạng nước ta, đã xuất hiện lực lượng vũ trang nhân dân. Từ những cuộc biểu tình lưu huyết của công nông Vinh-Bến Thủy đã xuất hiện những đội tự vệ, những đội xích vệ đỏ đầu tiên. Chính những xích vệ ấy đã đi đầu trong việc bảo vệ các làng đỏ trong quá trình tồn tại Xô Viết Nghễ Tĩnh.

Lực lượng võ trang nhân dân hình thành rõ nét hơn trong thời kỳ vận động trực tiếp cho thắng lợi của các mạng Tháng Tám (1939-1945). Trong thời kỳ khởi nghĩa Bắc Sơn (9-1940) Đảng ta đã xây dựng đội du kích Bắc Sơn. Ngày 14.2.1941, Đội du kích Bắc Sơn được chính thức thành lập ở khu rừng Khuỗi Nọi, xã Vũ Lễ, châu Bắc Sơn (Lạng Sơn). Đồng chí Hoàng Văn Thụ thay mặt Trung ương Đảng công nhận và giao nhiệm vụ cho đội. Đội có 32 người chia ra 3 tiểu đội do đồng chí Lương Văn Chi và Chu Văn Tấn chỉ huy. Vũ khí chỉ co 5 khẩu súng trường, còn toàn súng kíp và dao găm.

Sau hội nghị Trung lần thứ 8 (5-1941), đồng chí Phùng Chí Kiên, được cử phụ trách khu căn cứ Bắc Sơn, Võ Nhai. Đội du kích Bắc Sơn được mang tên mới là Cứu quốc quân cho phù hợp với nhiệm vụ cứu nước trước mắt. Cũng lúc ấy, ở Nam Bộ, đội du kích Nam Kỳ đã xuất hiện trong cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ (23.11.1940)

Cùng với nhân dân các dân tộc Bắc Sơn-Võ Nhai, Cứu quốc quân đương đầu với cuộc càn quét của 4.000 quân Pháp, khố xanh, khố đỏ và lính dõng. Các đồng chí Phùng Chí Kiên, Lương Văn Chi hy sinh. Hàng chục đội viên khác của đội bị sát hại, bị xử bắn ngay ở chân đồn Mỏ Nhài. Nhưng dưới dự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Hoàng Quốc Việt, ngày 15.9.1941, trung đội Cứu quốc quân 2 được thành lập tại khu rừng Khuôn Mánh, thôn Ngọc Mỹ, xã Tràng Xá (Võ Nhai) với 47 chiến sĩ (có 3 nữ) do đồng chí Chu Văn Tấn chỉ huy.

Trong 8 tháng đánh du kích ở Tràng Xá (7-1941 đến 2-1942). Cứu quốc quân bám đất, bám dân chiến đấu, lực lượng ngày càng lớn mạnh, từ 47 chiến sĩ đã tăng lên 70, vũ khí ngày càng tốt hơn do cướp được của địch khiến chúng phải gọi Cứu quốc quân là "hùm xám Bắc Sơn"

Cũng lúc đó, ở Pác Bó (Cao Bằng) Hồ Chủ Tịch chỉ thị thành lập đội du kích Cao Bằng-nơi có phong trào Việt Minh khá nhất-gồm 12 chiến sĩ do đồng chí Lê Quảng Ba chỉ huy. Để chuẩn bị về lý luận cho công tác xây dựng lực lượng võ trang, Người đã viết các tác phẩm như: cách đánh du kích, phép dùng binh của Tôn Tử.

Lực lượng Cứu quốc quân tiếp tục phát triển. Ngày 25.2.1944, trung đội Cứu quốc quan 3 thành lập ở Khuối Kịch châu Sơn Dương (Tuyên Quang). Tháng 10-1944. Đội được bổ sung một lực lượng quan trọng sau cuộc vượt ngục của 12 đồng chí cán bộ Đảng ở nhà lao Chợ Chu, trong đó có các đồng chí Song Hào, Lê Hiếu Mại...

Sau hơn một năm bị bọn Tưởng Giới Thạch giam giữ trái phép ở Quảng Tây (Trung Quốc), Hồ Chủ Tịch về lại Cao Bằng, kịp thời hoãn lệnh khởi nghĩa của Liên tỉnh ủy Cao Bắc-Lạng, vì đây là thời kỳ "hòa bình phát triển đã qua nhưng thời kỳ toàn dân khởi nghĩa chưa tới"

Ngày 22.12.1944, theo chỉ thị của Hồ Chủ tịch, đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân được thành lập tại một khu rừng nằm giữa hai tổng Hoàng Hoa Thám và Trần Hưng Đạo thuộc châu Nguyên Bình, Cao Bằng. Đồng chí Võ Nguyên Giáp được Hồ Chủ Tịch ủy nhiệm lãnh đạo, đội biên chế thành 3 tiểu đội do đồng chí Hoàng Sâm làm đội trưởng và đồng chí Xích Thắng làm chính trị viên.

Đội chỉ có 34 chiến sĩ với 34 cây súng nhưng đều là những chiến sĩ kiên cường của công nông được chọn lọc từ các đội du kích ở Cao-Bắc-Lạng, một số đã học quân sự ở nước ngoài, hầu hết đã qua chiến đấu, và điều quan trọng hơn cả là không có ai không có nợ máu với đế quốc và phong kiến.

Việc thành lập đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân có ý nghĩa đặc biệt quan trọng với lịch sử quân đội ta. Chỉ thị thành lập đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân của Hồ Chủ tịch tuy ngắn nhưng rất súc tích bao gồm các vấn đề chủ yếu về đường lối quân sự của Đảng ta: vấn đề kháng chiến toàn dân, động viên và vũ trang toàn dân, nguyên tắc xây dựng lực lượng võ trang cách mạng, phương châm xây dựng 3 thứ quân, phương thức hoạt động kết hợp quân sự với chính trị của lực lượng võ trang, nguyên tắc tác chiến và chiến thuật du kích của lực lượng võ trang, Hồ Chủ tịch nói: "...Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân là đội đàn anh mong cho chóng có những đội đàn em khác. Tuy lúc đầu qui mô của nó còn nhỏ, nhưng tiền đồ của nó rất vẻ vang. Nó là khởi điểm của Giải phóng quân, nó có thể đi suốt từ Nam chí Bắc, khắp đất nước Việt Nam chúng ta".

Chính vì ý nghĩa đó, ngày 22.12.1944 được chọn làm ngày kỷ niệm thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam.

Dưới lá cờ đỏ sao vàng, đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân đã long trọng đọc lời tuyên thệ. Sau đó, theo yêu cầu của anh em, đội tổ chưc một bữa cơm nhạt không rau, không muối để nêu cao tinh thần chịu đựng gian khổ, hy sinh của các chiến sĩ cách mạng.

Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, lực lượng chủ lực đầu tiên của quân đội nhân dân Việt Nam, chấp hành chỉ thị phải đánh thắng trận đầu của Bác đã mưu trí táo bạo hạ đồn Phay Khắt (24.12) và Nà Ngần (25.12.1944) trong hoàn cảnh "ăn mỗi ngày một bữa, đánh mỗi ngày hai trận"

Chỉ sau một tuần lễ, Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân đã phát triển thành 3 trung đội làm nòng cốt cho công tác tuyên truyền, diệt địch, biến Cao-Bắc-Lạng thành một căn cứ vững chắc.

Tháng 4-1945, theo quyết định của hội nghị quân sự Bắc Kỳ, Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân và Cứu quốc Quân đã thống nhất lại vào ngày 15.5.1945 và mang têm Việt Nam Giải phóng quân. Lễ thống nhất được tổ chức tại Chợ Chu (Thái Nguyên) với 13 đại đội.

Tại các chiến khu cách mạng trong nước, lực lượng du kích vẫn phát triển trong hình thái 3 thứ quân: tháng 5-1945 thành lập trung đội du kích của chiến khu Quang Trung tháng 6-1945 đội du kích Đông Triều ra đời, đội du kích Ba Tơ thì từ tháng 3.1945..

Trong Tổng khởi nghĩa Tháng Tám, Việt Nam giải phóng quân có vai trò rất quan trọng; 2 giờ chiều ngày 16-8-theo lệnh của ủy Ban khởi nghĩa toàn quốc và lời kêu gọi của Hồ Chủ Tịch ngày 13.8-từ cây đa Tân Trào, đơn vị chủ lực Việt Nam giải phóng quân do đồng chí Võ Nguyên Giáp chỉ huy tiến thị xã Thái Nguyên, mở đầu cho tổng khởi nghĩa toàn quốc.

Lực lượng võ trang đã hỗ trợ đắc lực cho lực lượng chính trị, tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Chỉ sau 15 ngày, ách đế quốc ngót trăm năm, ngai vàng phong kiến hàng ngàn năm đã bị lật nhào.

Ngày khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, quân đội ta mang tên Vệ quốc đoàn, đánh dấu thời kỳ hình thành của quân đội Việt Nam. Trong kháng chiến chống Pháp quân đội ta mang tên quen thuộc nhất cho đến ngày nay là Quân đội nhân dân Việt Nam. Với chiến thắng Điện Biên Phủ vĩ đại, quân đội ta đã bước vào thời kỳ trưởng thành.

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ vĩ đại vừa qua, Quân đội nhân dân Việt Nam cũng như mọi bộ phận khác của nó mang cái tên lịch sử là Giải phóng quân miền Nam đã góp phần quyết định cùng toàn dân đánh bại tên đế quốc đầu sỏ, đánh sập ngụy quyền tay sai, giải phóng hoàn toàn miền Nam vào mùa Xuân 1975.

"... Quân đội ta có sức mạnh vô địch vì nó là quân đội nhân dân do Đảng ta xây dựng, Đảng ta lãnh đạo và giáo dục" (Hồ Chủ Tịch)

Trên cơ sở của một cuộc chiến tranh nhân dân vĩ đại, quân đội ta từ một lực lượng nhỏ bé, vũ khí trang bị thô sơ đã vươn lên thành một đội quân hùng hậu, chính quy hiện đại, gắn bó với nhân dân, tô đậm truyền thống vẻ vang mà Bác Hồ, người cha của các lực lượng võ trang Việt Nam, đã dạy:

"... Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập tự do của tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng..."

Hội Khoa Học Lịch Sử Bình Dương


Một nét Bình Dương Một nét Bình Dương Một nét Bình Dương Một nét Bình Dương Một nét Bình Dương Một nét Bình Dương Một nét Bình Dương
Thống kê
Lượt truy cập: 24401166