Baray có nguồn gốc từ tiếng Hindi với các tên baudi [bawdi (Rajasthani: बावड़ी ) ], bawri, baoli, bavadi, và bavdi. Trong ngôn ngữ Gujarati và Marwari chúng thường được gọi là vav hoặc vaav (Gujarati: વાવ). Các tên khác bao gồm kalyani hoặc pushkarani (Kannada), baoli (tiếng Hindi: बावली) và barav (tiếng Marathi: बारव).
Vùng đất Hồng Ngự từ năm 1945 đến nay
Đầu năm 1950, theo đề nghị của UBKCHC Nam Bộ, Chính phủ quyết định thành lập tỉnh Đồng Tháp. Đây là một tỉnh căn cứ, gồm huyện Mộc Hóa (tỉnh Tân An), Cái Bè, Cai Lậy (tỉnh Mỹ Tho) và các xã Ba Sao, Mỹ Quý, Trường Xuân, Tháp Mười (tỉnh Sa Đéc). Tỉnh lỵ đặt tại Mộc Hóa [3, 301]. Lần đầu tiên Đồng Tháp với đơn vị hành chính cấp tỉnh ra đời và Tháp Mười là đơn vị cấp xã. Vùng đất Hồng Ngự khi đó không thuộc tỉnh này. Tuy nhiên, chỉ hơn một năm hoạt động, đến ngày 27-6-1951, UBKCHC Nam Bộ ban hành Nghị định số 173/NB giải thể tỉnh này để thành lập tỉnh Long Châu Sa và tỉnh Mỹ – Tân – Gò [Mỹ Tho – Tân An – Gò Công, TG] thuộc Phân Liên khu miền Đông. Địa giới tỉnh Long Châu Sa gồm toàn bộ tỉnh Sa Đéc và phần lớn tỉnh Long Châu Tiền cũ, với 8 huyện, thị: Tân Châu, Châu Phú, Tân Hồng, Chợ Mới, Cao Lãnh, Lai Vung, Châu Thành, thị xã Sa Đéc [3, 301 và 310]. Tỉnh Long Châu Sa được duy trì đến năm 1954.
Một vài đặc điểm nền kinh tế hàng hóa ở Việt Nam thời Pháp thuộc (1858 – 1945)
Những năm gần đây, nghiên cứu về kinh tế Việt Nam thời Pháp vẫn còn là chủ đề được nhiều giới khoa học quan tâm. Dưới góc nhìn lịch sử, bài viết sử dụng phương pháp lịch sử kết hợp với phương pháp phân tích định tính trình bày những nhân tố định hình, quá trình hình thành và đặc điểm của nền kinh tế hàng hóa Việt Nam thời Pháp thuộc. Trên cơ sở đó, bài viết nhận xét một vài điểm tích cực và hạn chế của nền kinh tế cũng như chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp ở Việt Nam.
Canh tác ruộng lúa ở Nam Kỳ thời thuộc Pháp
Dưới thời Pháp thuộc, người Pháp thực hiện nhiều cách thức khác nhau để khai thác Nam kỳ như chia lại ruộng đất. Biến phần lớn ruộng đất tư nơi đây thành công hữu. Trên cơ sở đó tiến hành cấp phát, sang nhượng…đẩy số lượng điền chủ có sở hữu lớn phát triển cao. Khuyến khích phát triển lối canh tác trang trại, nông trường và cho phép tư nhân tham gia vào hoạt động kinh tế của nhà nước: đấu thầu thi công công trình thủy lợi, khai thác nguồn lợi tự nhiên…v.v Nhưng do khác nhau về văn hóa, sự bất đồng ngôn ngữ cũng như chưa thật sự am tường về hoạt động kinh tế của người bản xứ nên người Pháp tỏ ra lúng túng ở một số mặt. Chính điều này đã tác động không nhỏ đến cách thức tổ chức hoạt động trong nông nghiệp của người Pháp ở Nam kỳ.
Tác động của viện trợ Hoa Kỳ đối với nông nghiệp Việt Nam Cộng Hòa 1967-1975
Sau thất bại trong chiến lược “chiến tranh đặc biệt” trên chiến trường ở miền Nam Việt Nam. Để kiểm soát địa bàn chiến lược nông thôn miền Nam, từ năm 1967 Hoa Kỳ tăng cường viện trợ cho chính quyền Việt Nam Cộng hòa. Trong kinh tế nông nghiệp, Hoa Kỳ viện trợ cho chính quyền Việt Nam Cộng hòa đẩy nhanh chính sách Luật người cày có ruộng, các hoạt động cơ giới hóa để phát triển và tăng năng suất nông nghiệp. Viện trợ Hoa Kỳ đã có tác động nhất định đối với kinh tế nông nghiệp Việt Nam Cộng hòa. Kinh tế nông nghiệp Việt Nam Cộng hòa hoạt động và phát triển theo hướng kinh tế tư bản chủ nghĩa. Tuy nhiên, viện trợ của Hoa Kỳ đã dần biến Việt Nam Cộng hòa trở thành kẻ phụ thuộc không những về quân sự, kinh tế mà kèm theo cả vấn đề chính trị.
Nửa sau năm 1819, cùng lúc có bốn chiếc thuyền buồm của Hợp Chúng quốc Mỹ đến hải cảng Cap Saint Jacques đề xuất các quan thẩm quyền địa phương cấp giấy phép ngược sông Đồng Nai để cập bến Sài Gòn thực hiện các giao dịch thương mại. Sau những nỗ lực vận động kiên trì và bổ sung tối đa nguồn nhân - tài - vật lực, với chuyến vận hành ngược ra kinh thành Huế và vượt quần đảo Hoàng Sa sang Manille, hai trong số đó đã quay trở lại và có mặt tại thương cảng trung tâm xứ Nam Kỳ vào lúc sáng sớm ngày 07.10, gồm tàu Franklin và Marmion. Hồi ký về chuyến đi của thuyền trưởng John White chỉ huy tàu Franklin xuất bản thành sách lần đầu năm 1823 tại quê nhà và tái bản tại Anh quốc vào năm sau dưới nhan đề A voyage to Cochinchina (Chuyến đi đến Nam Hà) có những mô tả sinh động về vùng đất và con người ở nơi thủy thủ đoàn đặt chân đến.
Văn Miếu Nam Kỳ thời nhà Nguyễn
Văn Miếu là tên gọi ngắn gọn của Văn Thánh Miếu, còn gọi là miếu Tiên Sư hay Văn Thánh, đây là nơi thờ đức Khổng Tử, người được tôn vinh là Vạn thế sư biểu - Bậc thầy của muôn đời, ở những nước có nền văn hóa Nho giáo. Thời chúa Nguyễn với hành trình mở cõi phương Nam, cũng phát huy tinh thần trọng chữ thánh hiền, các Văn Miếu lần lượt được xây dựng cho từng khu vực phủ, dinh… Cho đến thời nhà Nguyễn, việc đặt quy chế xây dựng và tế lễ ở Văn Miếu trở thành rất quy củ trong điển lệ triều Nguyễn. Đến năm 1803 vua Gia Long cho thiết lập hệ thống Văn Miếu ở các dinh trấn toàn quốc, góp phần hoàn chỉnh từng bước hệ thống thờ tự Văn Miếu ở Việt Nam thời nhà Nguyễn, thời gian sau các Văn Miếu được hoàn thiện và là trở thành nơi tế tự quan trọng bậc nhất của chính quyền các tỉnh tại địa phương.
Văn Thánh Miếu từ Trấn Biên đến Biên Hòa
Văn Miếu là tên gọi ngắn gọn của Văn Thánh Miếu, còn gọi là miếu Tiên Sư hay Văn Thánh, đây là nơi thờ đức Khổng Tử, người được tôn vinh là Vạn thế sư biểu - Bậc thầy của muôn đời, ở những nước có nền văn hóa Nho giáo. Thời chúa Nguyễn với hành trình mở cõi phương Nam, cũng phát huy tinh thần trọng chữ thánh hiền, các Văn Thánh lần lượt được xây dựng cho từng khu vực phủ, dinh… Cho đến thời nhà Nguyễn, việc đặt quy chế xây dựng và tế lễ ở Văn Miếu trở thành rất quy củ trong điển lệ triều Nguyễn. Trải qua một thời gian dài sử dụng và phế bỏ, đến nay không còn nhiều Văn Miếu thời nhà Nguyễn còn tồn tại, thậm chí một số Văn Miếu mất hoàn toàn dấu tích và hoặc không có thông tin. Tác giả mong muốn cung cấp về hình ảnh một tòa Văn Miếu khá quan trọng thủa xưa, Văn Miếu Biên Hòa, mà trước đó là Văn Miếu Trấn Biên, xưa thuộc tỉnh Biên Hòa và nay là tỉnh Đồng Nai



