Lịch sử Việt Nam

Tam đạo: Tân Châu – Hùng Ngự - Chiến Sai, quá trình dịch chuyển đồn thủ từ Doanh Châu lên Tân Châu trong lịch sử

Năm 1757, để trả ơn chúa Nguyễn đã giúp lên ngôi vua Chân Lạp, Nặc Tôn đã dâng đất Tầm Phong Long, vùng đất nằm giữa sông Tiền và sông Hậu phía thượng lưu. Kể từ đây, vùng đất này được kiểm soát hoàn toàn bởi chúa Nguyễn, cùng với sự thiết lập nền hành chính trên vùng đất mới, chúa Nguyễn cho xây dựng hệ thống đồn thủ để bảo vệ biên cương. Vùng thượng lưu sông Tiền thuộc Tân Châu kéo dài đến huyện Chợ Mới ngày nay, chúa Nguyễn cho lập Tân Châu đạo, bản doanh đặt tại Doanh Châu (cù lao Giêng ngày nay) nằm giữa sông Tiền, đặt thêm hai thủ Hùng Thắng (về sau là Hùng Ngự) bên bờ tả sông Tiền và thủ Chiến Sai bên bờ hữu sông Tiền. Đây là hệ thống đồn bảo phòng ngự bảo vệ khu vực khá lâu, đến năm 1819 vua Gia Long cho dời đạo Tân Châu lên sát biên giới là vùng đất Tân Châu ngày nay và đồng thời cũng chuyển hai thủ Chiến Sai và Hùng Ngự lên cùng. Cả ba đồn bảo mới lại được xây dựng tại khu vực biên giới là bảo Tân Châu, bảo Hùng Ngự và bảo Chiến Sai nhằm bảo vệ khu vực sông Tiền tại Tân Châu. Trải qua thời gian sử dụng, các đồn bảo này phục vụ công tác bảo vệ vùng đất biên giới và chịu nhiều lần tấn công phá hủy của quân thù. Và theo thời gian cũng như sự suy giảm chức năng khi nền đô hộ thực dân Pháp thiết lập trên vùng đất Nam Kỳ từ sớm, hệ thống đồn bảo tại khu vực Tân Châu đã trở nên mờ nhạt và đến ngày nay hầu như hoàn toàn mất dấu vết. Với mong muốn đưa lại hệ thống phòng ngự bảo vệ trực tiếp Tân Châu đạo được thành lập từ 1757 và chuyển qua hai lần đặt vị trí, dịch chuyển từ hạ lưu (Doanh Châu) lên thượng lưu (Tân Châu), tác giả mong muốn tìm lại những vị trí từng đặt đồn bảo tại hai khu vực của Tân Châu đạo trong lịch sử.

Xem chi tiết


HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT NƯỚC MẮM Ở PHÚ QUỐC THỜI THUỘC PHÁP

Phú Quốc một đảo lớn ở phía Tây Nam của Việt Nam, thuộc tỉnh Kiên Giang. Từ cuối thế kỷ XVII, công cuộc khai phá của Mạc Cửu đã chiêu tập thêm nhiều lưu dân người Việt, Hoa, Khmer ở các vùng lân cận quần tụ, biến nơi đây thành một hòn đảo trù phú. Sau một thời gian phát triển, do nhiều nguyên nhân cộng thêm sự quấy phá của quân Xiêm…làm cho nơi đây dần hoang vắng. Năm 1862, Pháp ký hiệp ước với Xiêm, cam kết không can thiệp vào công việc của Pháp tại Nam kỳ, từ đây tình hình ở Phú Quốc mới yên.


ĐÌNH LÀNG Ở TÂY NINH

Đình làng ở Tây Ninh lập tương đối muộn, chủ yếu vào đầu hoặc giữa thế kỷ XIX. Sớm nhất là các đình Phước Hiệp (1802), An Tịnh (1809), An Hòa (1836), Phước Lưu (1836) [tx. Trảng Bàng]. Các đình Gia Lộc, Gia Bình, Lộc Hưng, Đôn Thuận (tx. Trảng Bàng), Long Khánh, Long Giang (huyện Bến Cầu), Phước Hội, Truông Mít (huyện Dương Minh Châu), Thái Bình, Hiệp Ninh (tp. Tây Ninh), Long Thành (tx. Hòa Thành)… lập vào thế kỷ XIX.Vào đầu thế kỷ XX là các đình Phước Chỉ (1901), Cẩm An (1905), Thạnh Đức (1915), Trí Bình (1918)… Và muộn nhất là đình Bình Thạnh (1957).


BUÔN LÀNG, LUẬT TỤC VÀ VẤN ĐỀ QUẢN LÝ CỘNG ĐỒNG CỦA CÁC TỘC NGƯỜI TÂY NGUYÊN HIỆN NAY

Trong tiến trình lịch sử dân tộc từ xưa đến nay, Việt Nam vẫn cơ bản là nước nông nghiệp, do vậy nông thôn và nông dân là một trong những địa bàn quan trọng, đóng vai trò quyết định trong sự phát triển kinh tế xã hội. Với vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân thì làng, xã là môi trường, là tổ chức xã hội truyền thống cơ bản. Do vậy, mỗi thời kỳ phát triển của lịch sử dân tộc Việt Nam, đặc biệt là hiện nay, đang phát triển theo con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì làng, buôn là điểm “nối giữa”. Nét riêng của các dân tộc Tây Nguyên, dù là chưa cao về trình độ phát triển kinh tế xã hội, nhưng các quan hệ xã hội khu vực này đậm nét cộng đồng, vốn là sức mạnh tiềm ẩn của đất nước. Thế nên, phát triển kinh tế xã hội và quản lý làng buôn luôn là trọng tâm, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm và đặt ra nhiệm vụ là làm sao vừa để năng động hóa vừa bảo vệ các buôn làng trước các điều kiện phái sinh tự nhiên, tạo tiền đề cần thiết để cơ cấu xã hội nơi đây từng bước hòa nhập dần với cơ chế thị trường vốn đang hình thành và phát triển.


CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI GIÁO DÂN CÔNG GIÁO DI CƯ CỦA CHÍNH QUYỀN NGÔ ĐÌNH DIỆM (1954-1963)

Trong lịch sử Việt Nam, cuộc di cư của hơn 800.000 người miền Bắc vào Nam, trong đó tuyệt đại đa số dân di cư là giáo dân Công giáo là một sự kiện có ý nghĩa và ảnh hưởng quan trọng trong lịch sử đương đại. Trong diễn biến của cuộc di cư, việc tìm hiểu chính sách của chính quyền Mỹ-Diệm đối với giáo dân là điều cần thiết để hiểu thêm về lịch sử miền Nam Việt Nam trong giai đoạn này.


NHỮNG BIỂU TƯỢNG TRONG KIẾN TRÚC CHÙA, MIẾU CỦA ĐẠO TỨ ÂN HIẾU NGHĨA Ở HUYỆN TRI TÔN, TỈNH AN GIANG

Nhằm làm rõ hơn tư tưởng Đạo giáo trong tôn giáo nội sinh Tứ Ân Hiếu Nghĩa (TÂHN), qua đó thấy được mối liên hệ của các tôn giáo nội sinh ở Nam Bộ với hệ thống tư tưởng văn hóa Trung Hoa qua các giai đoạn khai phá và cộng sinh đa tộc người ở Nam Bộ, trong nghiên cứu này, chúng tôi đi vào tìm hiểu tư tưởng Đạo giáo thể hiện qua các biểu tượng đặc trưng trong kiến trúc ngôi thờ của TÂHN, như: cổ lầu, hồ lô, kiến trúc bát quái, các ngôi tháp,... Từ các biểu tượng nổi bật này cùng với nhiều yếu tố và khía cạnh khác cho thấy tư tưởng Đạo giáo trong TÂHN rất sâu đậm.


VÙNG ĐẤT HÀ TIÊN TRONG ĐỐI SÁCH CỦA CHÍNH QUYỀN CHÚA NGUYỄN VỚI XIÊM VÀ CHÂN LẠP Ở THẾ KỶ XVII-XVIII

Quốc sử quán nhà Nguyễn chép về Hà Tiên như sau: “Đông tây cách nhau 27 dặm, nam bắc cách nhau 25 dặm. Phía Đông địa giới đến huyện Hà Dương, An Giang 35 dặm, phía Tây đến biển 2 dặm, phía Nam vượt qua núi Tô Châu đến biển 5 dặm, phía Bắc đến địa giới Cao Miên 25 dặm, phía Bắc vượt qua núi Bạch Ô đến biển 20 dặm. Từ Tỉnh lỵ đi về phía Đông tới kinh 1325 dặm” . Qua đoạn miêu tả trên có thể thấy vị trí quan trọng của Hà Tiên đối với các vương quốc ở khu vực Đông Nam Á thế kỷ XVII-XVIII. Chân Lạp bị suy yếu không thể quản lí; Đàng Trong đang đẩy mạnh công cuộc mở đất về phương Nam; Ayuthaya (từ 1767 là Xiêm) sau thời gian phục hưng trở lại đang đẩy mạnh đông tiến. Hà Tiên trở thành giao điểm tương tác quyền lực của tam giác: Đàng Trong - Chân Lạp -Xiêm.


KIỂU NHÀ TRÊN BÈ VÀ CHỢ TRÊN SÔNG Ở NAM BỘ

Ngã ba Nhà Bè gọi là cửa Tam Giang, là nơi hội tụ của 3 dòng sông: Phước Long (Đồng Nai), Tân Bình (sông Sài Gòn) hợp lưu thành sông Phước Bình đổ ra biển Cần Giờ. Nơi đây là vùng nước mặn.

Một nét Bình Dương Một nét Bình Dương Một nét Bình Dương Một nét Bình Dương Một nét Bình Dương Một nét Bình Dương Một nét Bình Dương
Thống kê
Lượt truy cập: 25849996